THẦN KHÚC DANTE bài 31
THIÊN ĐƯỜNG THI CA KHÚC XIX, XX,XXI
NHỮNG KHÚC CA THẦN DIỆU
DANTE ALIGHIERI
(1265-1321)
NHẤT UYÊN PHẠM TRỌNG CHÁNH
Chuyển ngữ thơ lục bát
THIÊN ĐƯỜNG
THI CA KHÚC XIX
Vùng trời Mộc Tinh. Đại bàng nói. Sự nghi ngờ của Đăng Tử. Đại bàng trả lời. Công lý thần thánh không đo lường được. Lý thuyết về sự cứu rỗi. Tính chất xấu xa các vua Âu Châu.
Cánh bằng mở trước mắt tôi.
Là hình ảnh đẹp niềm vui nhẹ nhàng.
Vui tươi tụ các linh hồn,
Mỗi hồn phản chiếu vào vòng mắt tôi.
Tia sáng mãnh liệt mặt trời,
Chói chang ánh sáng vào ngươi mắt nhìn.
Điều mà tôi tả chưa lần,
Chưa có ai nói, ai từng viết ra.
Trí tưởng tượng cũng chưa là,
Tôi thấy từ mỏ vang ra đại bàng.* 10
“Tôi”, rằng “của tôi” vang lên,
“Chúng tôi”, “của chúng tôi” trong đầu mình.
“Để lòng chính trực kính sùng,
Và ta được thưởng trong vòng vinh quang.
Không đạt được bằng muốn ham,
Ta để lại cõi trần gian tâm tình.
Loài người nơi đó xấu tâm,
Họ ngợi ca chẳng một lòng đi theo.”*
Như than hồng tỏa nóng cao,
Tình yêu sưởi ấm lòng nào yêu thương. 20
Một lời ra tự ảnh hình,
Rồi thì tôi nói: “Vĩnh hằng loài hoa,
Hạnh phúc vĩnh cửu hiện ra,
Một mùi hương biết bao là hương thơm.
Mùi hương dứt việc nhịn ăn,
Từ lâu tôi vẫn đói lòng mãi luôn,
Trên đất không tìm thức ăn,
Cõi trời công lý thánh thần, biết chi ?
Ngắm nhìn vương quốc khác thì,
Công lý thể hiện chẳng gì dấu bưng. 30
Biết tôi chuẩn bị kỷ càng,
Để nghe người với nỗi lòng hoài nghi.
Với tôi cơn đói lâu ngày.”
Giống chim ưng cởi khăn trùm mắt đi,
Lắc đầu vỗ cánh muốn bay,
Biểu lộ dáng đẹp mê say tung trời.
Tôi thấy biểu hiện đó thôi,
Dệt vinh quang với niềm vui thánh thần.
Bài ca phúc ân cõi thiên,
Bắt đầu : “Ngài sẽ quay vòng com-pa. 40
Giới hạn thế giới trong là,
Phân biệt cái ẩn giấu và hiển linh.*
Chẳng in tốt đức hạnh mình,
In vào vũ trụ để trong tiếng lời,
Mãi trong vô định mà thôi,
Chứng cớ là kẻ đầu đời kiêu căng.
Là sáng tạo phẩm thượng tầng,
Không đợi ánh sáng riêng lòng còn xanh.*
Từ đó thấy vật bé sinh,
Hạn chế trong việc tiếp thân điều lành. 50
Là vô tận, tự đo mình,
Cái nhìn người đã là phần tất nhiên.
Những tia sáng Đấng Trí Năng,
Thấm nhuần sinh vật muôn phần thế gian.
Không cho bản chất mạnh hùng,
Khiến cho chân lý đó trong nơi này.
Rời xa biểu hiện bên ngoài,
Cái nhìn thế giới các người nhận ra,
Trong công lý vĩnh hằng xa,
Như con mắt thấy bao la biển trời. 60
Gần bờ nhìn được đáy thôi,
Chẳng thấy được đáy, ngoài khơi xanh màu.
Đáy biển che dấu chiều sâu,
Nếu không ánh sáng bầu trời đục căm.
Không xao động bóng tối tăm,
Bên là độc dược, biết nhìn giác quan.*
Sáng tỏ điểm tối rất cần,
Chân lý sống động giấu trong lòng người.
Vấn đề người hỏi dong dài,
Người bên Ấn Độ chẳng ai nói lời, 70
Chẳng ai nói Đức Chúa Trời,
Hoặc đọc hoặc viết cuộc đời Ki Tô.
Ham muốn làm tốt anh ta,
Trí nhân loại có thể mà hình dung.
Không phạm tôi lỗi nói làm,
Chết chẳng rửa tội, chẳng cần Đức Tin.
Đâu công lý kết án anh ?
Đâu là tội lỗi nếu không tin gì ?
Người là ai ngồi trọng tài ?
Để phán đoán việc từ nơi ngàn trùng. 80
Với tầm nhìn chỉ một gang.
Ngài làm trong sạch cảm tình cho ta.
Thánh Kinh bên cạnh đó là,*
Thì không có vấn đề mà hoài nghi.
Sinh vật trên đất kém nghĩ suy,
Ý chí thứ nhất đúng vì tự thân,
Điều thiện cao cả, chẳng xa lòng.
Những gì phù hợp đúng cùng chính tâm.
Không điều thiện xa tâm hồn,
Ý chí tỏa sáng, phát sinh điều lành. 90
Như cò trên tổ lượn quanh,
Mớm con ăn lại lượn vòng bay nhanh.
Cò con no bụng dõi nhìn,
Cũng như thế đó tôi cùng ngẫng lên.
Thánh thiện vỗ cánh hình dung,
Được mang lên bởi bao nguồn ý năng.
Quay vòng hát : “Hỡi người trần,
Công lý của Chúa với lòng các ngươi,
Như tiếng hát ta, chẳng hiểu lời.”
Ánh sáng chói lọi trí ngôi thánh thần. 100
Đã dịu xuống ánh quang minh,
Cho người La Mã thế gian kính sùng.
Tiếp lời : Ở Vương quốc thiêng,
Chưa ai lên nếu không tin Chúa Trời.
Trước sau khi đóng đinh Ngài,
“Chúa”, “Chúa tôi”có kẻ kêu hoài không thôi.
Ngày Phán Xét chẳng gần Ngài,
Như là kẻ biết Chúa tôi chưa từng,
Ethopien phán xét kẻ lưu vong,*
Ra làm hai nhóm trong vòng chia phân, 110
Nhóm bình an, nhóm khổ hèn,
Người Ba Tư nói phẩm bình các vua.
Mở sách sử các triều xưa,*
Chép điều ô nhục xãy ra cung đình.
Trong đó Alberto đã làm,*
Làm người chép sử giận cơn phẩm bình.
Triều đình Prague san bằng,
Những cảnh đau khổ của dòng sông Seine.*
Về nạn tiền giả rối ben.
Vị vua chết bởi lợn rừng tấn công. 120
Chép vua kiêu ngạo tham lam,
Vua Anh, vua Ecosse trở nên điên rồ,*
Không chịu yên trong cơ đồ,
Chép vua bạc nhược dâm ô suy hèn.
Vua Tây Ban Nha, vua Bohême,*
Chưa bao giờ hiểu sống trong can trường.
Chép vua qua Jésusalem,*
Tấm lòng nhân hậu chép bằng chữ I,
Nghĩa ngược lại chữ M thì,
Chép sự keo kiệt vua chi thấp hèn. 130
Kẻ trấn giữ đảo hỏa sơn,*
Nơi Anchise đã lụn tan cuộc đời.*
Chứng tỏ chẳng đáng kể gì,
Số phận nói vắn tắt đi vài điều.
Ít lời nhưng nói được nhiều,
Những điều bỉ ổi, bấy nhiêu vài dòng.
Chú và em làm ô danh,*
Quốc gia thật đẹp, hai vương miện nhà,
Kìa Bồ Đào Nha và Norvège*
Được biết trong đó, cả vùng Serbie,* 140
Đúc tiền giả tại Venise.*
Ôi vua Hung sung sướng, chẳng vì nếu không,*
Cai trị kém và Navarre an lành,*
Nếu vũ trang được núi rừng chung quanh.
Mỗi người tin điềm báo lành,
Như thế Niccosïa và Famagosta chung phận cùng.*
Kêu than chống vua súc vật mình,
Chúng cùng một loại với dòng súc sanh. 148
CHÚ THÍCH :
10. Cái mỏ. Đại bàng biểu trưng cho Đế Quốc La Mã, mà theo Dante Đế Quốc này về pháp luật, công lý, trật tự dân sự phù hợp với tinh thần Đức Chúa Trời.. Đại bằng tạo bởi nhiều trí năng thần thánh, phát ngôn suốt cả thi ca khúc này như một thực thể duy nhất. Để chứng tổ chân lý thần thánh chỉ có một. Nó nói “tôi” và “của tôi” nhưng thực ra là “chúng tôi” và “của chúng tôi”.
18. Họ ca ngợi chẳng một lòng đi theo : nguyên tác dùng Malvagio có nghĩa là xấu xa, xỏ lá và độc ác và viết dịch theo ý : Họ ca ngợi anh nhưng không theo lịch sử.
42. Ý nói Chúa Trời không thể in dấu ấn quyền năng mình khắp vũ trụ, nhưng cũng không muốn nói thái quá về nội dung sáng tạo của mình.
48. Ý nói chưa đạt được mức hoàn hảo trong sự sáng tạo (còn xanh), như trái cây chưa chín, mà đã tự hủy hoại.
66. Sự hiểu biết bị ngăn cản vì những lỗi lầm, những hạn chế của giác quan, hay bị đầu độc bởi chúng.
84. Nếu không có Kinh Thánh chỉ dẫn thì có thể nẩy ra nhiều hoài nghi về công lý thần thánh.
109. Ethiopie : Nước theo đạo Chính Thống Giáo truyền thống lâu đời. tại Phi Châu.
Nhóm được Chúa chọn sống sung túc và nhóm bị kết tội khổ cực mãi mãi.
113. Từ câu thơ này Đại bàng lên án chỉ trích các vua chúa Âu Châu.
Alberto vua Áo Alberto d ́ Austria, vua nước Áo đã bị chỉ trích TTVI.99 ở đây bị lên án vì tàn phá xứ Bohême, Vương quốc Praga do người anh em là Venceslas trị vì.
118. Sông Seine (Senna) : Vua Philippe le Bel phạm tội đúc một loại tiền không đạt giá trị thực, sau đó bị chết trong khi đi săn, bị một con lợn rừng tấn công làm cho ngã ngựa.
122. Vua Roberto Bruce di Scozia (1306-1329) và vua Anh Edoardo I d ́ Inghiterra (1307-1327) tiến hành chiến tranh liên tục. Vì Anh muốn chiếm Ecosse. Nhưng TT VII 132 Edoardo lại được biểu dương là một người con dũng cảm của Enrico III.
125. Vua Tây Ban Nha Ferdinado IV, Vua Castiglia (1286–1312)
Vua Bohême (Boemme) Venceslao IV. (TT VII.102.)
127. Carlo II d ́ Angiò, vua Jesusalem có biệt danh vua Què (Ciotto) cũng là vua Napoli được Dante đề cao về đức tính phóng khoáng.( TĐ VIII 51) ở đây bị đánh giá thấp. Chữ Jesusalem theo chính tả cổ J cũng là I, chữ cuối M Dante cho có nghĩa là mille, một ngàn, hiểu ngược lại là 1.
13i Đảo hoả sơn. đảo lửa chỉ Sicilia. Federico II d ́ Aragona trước làm Tổng trấn.(1291) sau làm vua Sicilia (1296) chết năm 1337. Đối với ông vua này Dante đánh giá luôn luôn tiêu cực ( TT VII 119. TĐ XX62).
Anchise cha của Enea, bị chết ở thành phố Trapami. Sicilia.
137. Chú và em: Giacomo vua Maiorca (1262-1311) và Pietro III d ́Aragona, bố của Federico II (TĐ XIX 132). có biệt danh là “Râu|” với hàm ý chế diễu khinh bỉ.
139: Dionigi “l ́ Agricola” vua Bồ Đào Nha (1261-1325) bị chế giễu là “anh nhà quê” vì không có cuộc sống vương giả và quý phái của một vị Hoàng đế.
Vua Na Uy Acone VII (1299-1319) . người ta cho là Dante khó có thể biết ông vua này.
140. Stepano Uros II, vua Serbia (1282-1331). Thời này đồng tiền Venise lưu hành khắp vuàng Địa Trung Hải. các nhà chú giải cho rằng không rõ vị vua này có đúc tiền giả hay không, nhưng dư luận dựa trên quyết định năm 1282 của Thống đốc Venezia ra lệnh tiêu hủy đồng tiền của Rascia vì quá giống với đồng tiền cũ Serenissima và sự kiện năm 1305 Bologna cấm đổi tiền Rascia.
142. Ungheria (Hunggari) Dante cho rằng vua Hung Andrea III và các vua kế vị cai trị kém
143. Navarra: Louis Hutin (1314-1316).Vua Navarre một vùng thuộc Tây Ban Nha bị Pháp chiếm. Theo Dante có thể tránh được. nếu biết phòng thủ bằng cách vũ trang các núi vùng Pyréenées.
148. Niccosia và Famagosta : Hai thành phố chính đảo Chypre do Henri II de Lusignan (1285-1324) một ông vua độc tài độc ác cai trị dân chúng lầm than kêu ca.
THIÊN ĐƯỜNG
THI CA KHÚC XX
Vùng trời thứ sáu. Vùng trời Mộc Tinh. Những linh hồn trung chính rời ra rồi hợp thành con mắt Đại bàng. Hai người ngoại đạo ở Thiên Đường. Riphéo vả Trajano.
Khi Thần soi sáng thế gian,
Đã hạ ánh sáng sau chân trời hồng.
Khắp nơi ngày đang tăng dần,
Bầu trời chiếu một mình trong lúc này.
Bổng trở nên bừng sáng soi,
Tia sáng phản chiếu khắp nơi vô vàn.
Ký ức đổi theo ánh dương,
Biểu hiện của thế giới đang im lìm.
Chiếc mỏ được ban phép lành,*
Ánh sáng sống động thiên thần lao xao. 10
Chói sáng giọng hát cất cao,
Trí nhớ tôi lướt qua nào rất nhanh.
Vọng tiếng cười, tình dịu dàng,
Dường như nồng nhiệt trong làn sáo lên.
Ý tưởng thánh thiện dịu êm.
Như những ngọc quý sáng bừng lung lay,
Tỏa vùng trời thứ sáu này,*
Kết thúc hợp xướng mê say thiên thần.
Tôi nghe sông nước rì rầm.
Nước chảy róc rách bao tầng đá rêu. 20
Theo sức mạnh dòng thác cao,
Tựa như một khúc đàn reo tạo thành.
Đàn si-ta hay sáo thông,*
Thổi vào ống sáo suối ngàn vang lên.
Rồi như vội vã nhiệt tình,
Tiếng rù rì của đại bàng vang lên.
Dọc theo cổ tựa rỗng không,
Ở đó tiếng nói tạo thành phát âm.
Qua cái mỏ lưỡi, lời thành,
Tim tôi mong đợi tâm tình viết nên. 30
“Giác quan nhìn dưới ánh dương”.
Những đại bàng trần thế, còn rằng “nơi ta”,
Người quan sát kỹ thấy là,
Đầu đại bàng bởi tạo ra lửa người.
Lửa mắt lấp lánh đầu nơi,
Nhờ hồn cao quí các ngôi bậc Trời.
Cái lấp lánh gần con ngươi,
Thiên thần hát lễ cạnh ngôi Thánh Thần.*
Tàu thuyền mang đến phố thành.
Giờ biết giá trị tiếng ca thanh người, 40
Kết quả theo mong muốn Ngài,
Đã được ban thưởng xứng tài tiếng danh.
Năm ngọn lửa lông mi thành,
Ngọn lửa ở gần nhất mỏ của ta.
An ủi cái chết con bà,*
Nhờ kinh nghiệm biết giá là bao nhiêu,
Việc theo Chúa, không đi theo,
Cuộc sống êm dịu hay chiều nghịch đi.
Ngọn lửa đến sau chu vi,
Mà ta đã tả chậm đi trên vòng. 50
Làm chậm cái chết nhọc nhằn,*
Nay biết Phán xét cuối trong vĩnh hằng.
Không thay đổi lời cầu lành,
Cầu hôm nay sẽ trở thành ngày mai.
Cái khác theo luật và tôi,
Ý đ̣inh tốt, quả xấu thời lại mang.*
Thành người Hy Lạp, thay Chăn Chiên.*
Giờ đây ông biết điều làm xấu thân.
Những điều tốt gây phiền lòng,
Hủy hoại thế giới mang thân bại tàn. 60
Ngọn lửa thấy xuống vòng cung,
Ấy Guiglielmo cả nước cùng khóc thương.*
Khóc Carlo va Federigo lúc còn,*
Bây giờ được biết ở trên cõi trời.
Vị vua chính trực rạng ngời,
Vẫn còn được thấy sáng soi huy hoàng.
Cõi trần lầm lạc có tin,
Dân Troie, Riphée đó lại trong một vòng.*
Ngọn lửa thứ năm thánh thần,
Đến nay biết rõ việc trong cõi này. 70
Ân huệ Chúa Trời nào hay,
Mắt ông chưa hiểu sâu dày Phúc Âm.
Như sơn ca bay trên không,
Cất cao tiếng hát lại ngừng lặng im.
Hài lòng điệu cuối mơ màng,
Như người ta thẩy ảnh hình dấu in.
Niềm vui hoan hỉ vĩnh hằng,
Mọi điều trở lại như căn nguyên mình.
Lúc này tôi lộ nghi nan,
Như ly trong suốt chẳng chen sắc màu. 80
Giữ im lặng, không thể nào,
Bổng dưng buột miệng “thế nào nói chi” ?
Với sức mạnh lòng hoài nghi.
Tôi thấy nhấp nháy mừng vui lửa hồng.
Lập tức mắt rực sáng bừng,
Biểu hiện chân phúc vui mừng lời tôi.
Không giữ lâu, ngạc nhiên lời,
“Ta đã thấy rõ điều người tin nao,
Do ta nói, người không biết sao.
Người tin khi chúng chưa mau hiện hình. 90
Người như kẻ giỏi việc mình,
Kêu lên chẳng hiểu bản năng thế nào,
Nếu không người phân tích sao,
Vương quốc Trời chịu đựng bao sức dồn,*
Hy vọng mãnh liệt, tình nồng nàn,
Chúng chiến thắng cả chí thần trên cõi trời.
Không giống người vượt qua người,
Nó chiến thắng, chẳng bại thời vì đâu ?
Rộng lượng nên thắng mặc dầu,
Linh hồn thứ nhất, thứ năm đầu lông mi.* 100
Khiến người kinh ng̣ạc nhìn thì,
Người phát hiện cõi thần đầy điểm tô.
Họ không rời xác lầm to,
Chẳng người ngoại đạo Ki Tô tín đồ,
Đức tin khổ đau trần đời,
Bởi vì Địa Ngục về thời được chăng ?
Trở lại trong xương cốt mình,*
Lại là phần thưởng niềm tin cao vời.
Sống hy vọng gắng sức người,
Nguyện cầu ông được Chúa Trời phục sinh. 110
Để ý muốn ông đổi thay tình,
Hồn vinh quang được ta từng kể trên.
Trở lại xác, một thời gian,
Khi đó Người cứu vớt mình đã tin.*
Niềm tin bốc thành hỏa đăng,
Tình yêu thật sự đến lần chết thứ hai.
Ông xứng đáng đến lễ hội này.
Người kia đã đến do đầy hồng ân,
Từ giếng sâu, chẳng sinh linh,
Nhìn được làn sóng đầu tiên ngọn nguồn. 120
Cõi trần công lý hiến dâng,
Chúa Trời ân huệ hồng ân ban người.
Mắt thấy cứu thế tương lai,*
Ông tin và chẳng bao giờ khổ đau.
Trước tà giáo xấu xa sao,
Ông thường quở trách kẻ nào hư thân.*
Ba phu nhân lễ rửa tội ông,*
Phía bên phải bánh xe lăn người nhìn.
Trước lệ rửa tội nghìn năm,
Ôi tiền định đó gốc nguồn người ta. 130
Mà tầm nhìn thật là xa,
Nguyên nhân khó thấy đâu là đầu tiên.
Và các người. người cõi trần,
Chớ vội phán xét, chúng tôi trong Chúa Trời.
Chúa biết kẻ phúc ân Ngài,
Điều không biết đó đối với chúng tôi dịu dàng,
Bởi điều thiện trong thiện tâm,
Cái Chúa Trời muốn trong lòng hiện thân.”
Vậy nhờ hình ảnh thánh thần,
Tầm nhìn hạn hẹp trong lòng sáng soi. 140
Một liều thuốc bổ ích đời,
Như người hát giỏi, thạo chơi đàn cầm.
Đệm theo thánh thót dây đàn,
Làm tăng hứng thú nhịp nhàng giọng ca.”
Khi Đại bàng nói, tôi nhớ ra,*
Thấy hai chân phúc sáng qua hai người.
Hai con mắt cùng nhịp soi,
Những ngọn lửa cũng theo lời lung linh. 148
CHÚ THÍCH
9. Chiếc mỏ được ban phép lành: Đại bàng
17. Vùng Trời thứ sáu: Vùng trời Mộc Tinh, Jupiter.
23. Dante cụ thể việc chuẩn bị nói của Đại bằng bằng âm thanh hai nhạc cụ.
Theo Boccaccio (1313-1375) thời trẻ Dante say mê đàn và hát.
38. Thiên thần hát lễ; David vua Do Thái, tác giả Thánh Vịnh.
45. An ủi cái chết con trai bà : Linh hồn thứ nhất trong vòng cung là Hoàng đế Traiano (Trajan) có sứ mệnh an ủi bà mẹ có con trai bị giết và thể hiện công lý. (TT. X 75-93).
51. Ezechias. Vua xứ Judée, bị ốm nặng cầu nguỵn cái chết lùi lại 15 năm.. Kinh Thánh Isaie 15.
57. Constantino (174-337) dời thủ đô Đế Quốc La Mã về Byzance. Hy Lạp, và nhường Roma cho Giáo Hoàng, do một dự định tốt, nhưng đem lại kết quả xấu cho cả Giáo Hội và Đế Quốc La Mã. Dante nhiều lần chỉ trích Constantino (ĐN XIX 114-117 và TT XXXII 126). Nhưng do dụng ý tốt Dante vẵn cho lên Thiên Đường.
Người Hy Lạp thay người chăn chiên : Người Grec thay vì Pasteur.
62. Guiglielmo II di Altavilla được gọi là “Người nhân hậu”, vua Sicilia và Puglia từ 1166 đến 1189, ông là vị vua chính trực yêu hòa bình, đến nổi dân chúng khi sống nhớ vua mà khóc.
69. Riphée (Rifeo). Người thành Troie bạn Énée, nhưng tài liệu nói về mối tình bạn này rất ít. Viegilio chỉ viết về Rifeo vỏn vẹn năm câu thơ Eneide : “Con người chính trực và tài năng nhất trong những thành Troie.”
94. Vương quốc nhà Trời : nguyên tác LaTinh : Regnam celorum.
100. Linh hồn thứ nhất thứ năm : linh hồn Traiano và Rifeo.
107. Trở lại trong xương cốt mình : Phục sinh.
111. Dante nói về trường hợp Traiano.
114. Người có thể cứu giúp : Chúa Cứu Thế.
118. Dante nói về Riphée.
123. Cứu rỗi người ngoại đạo: Có thể Dante dựa theo Thánh Thomas nói về niềm tin còn ẩn giấu.. (Summa II, Iia. 911 a 7)
124-126. Dante tưởng tượng Riphée tin ở sự cứu rỗi tương lai, chống ngoại đạo tà giáo.
127. Ba phu nhân: Ba đạo đức thần học: Đức Tin, Đức Cậy, Đức Mến. Dante có nói đến trong Tỉnh Thổ, Dante thấy bên bánh xe phải cổ xe huyền bí. (TT XXIX 121-129)
146. Đại bàng tượng trưng cho công lý thần thánh. Hai ánh sáng chân phúc là Traiano va Rifeo.
THIÊN ĐƯỜNG
THI CA KHÚC XXI
Vùng trời thứ bảy. Vùng trời Thổ Tinh. Bích Chi không cười nữa, các ṿi chân phúc không hát nữa, Chiếc cầu vòng từ Thổ Tinh đến Thiên Đình. Thánh Pierro Damiano
phê phán các vị chăn chiên hiện đại. Bí mật tiền định. Tiếng kêu trong trời.
Mắt tôi say đắm ngắm nhìn,
Người yêu tôi cả trọn tâm hồn mình.
Buông xã mọi ý khác tình,
Nàng không cười nữa, và nàng bảo tôi :
“Nếu em cười, chàng giống người,
Nơi Sémélé, biến tức thời thành tro, *
Vì nhan sắc em tăng lên theo.
Càng lên cao chốn tiêu dao vĩnh hằng.
Em lên cao, chàng thấy chăng,
Rực sáng mãnh liệt chẳng màn khăn che, 10
Giác quan người trần chói lòa,
Như cây lá trước sấm nhòa thiên lôi.
Ta đến thứ bảy tầng trời,
Ngực chòm Sư tử nơi thời sinh ra.*
Chiếu đi các tia sáng lòa,
Chú ý vào chỗ nơi tia mắt nhìn.
Để tránh phản chiếu ảnh hình,
Chàng sẽ hiện giữa nơi trong gương này.”
Ai nào hiểu thấu lòng đây,
Vì sao ánh mắt, mặt đầy sướng vui. 20
Khi tôi sang nơi khác thời,
Hiểu lòng tôi biết bao lời hân hoan.
Vâng lời sứ hộ cõi thiên,
Cân bằng vui cũ với niềm mới sang,
Trong pha lê thế giới xoay vòng,
Mang tên vị chúa với lòng thương yêu.
Điều ác chết dưới quyền Ngài,
Tôi thấy màu sáng vàng soi ánh trời.
Từ thang cao tít cao dài,*
Mắt tôi không thể kịp thời nhìn trông. 30
Cùng trông thấy bậc xuống thang,
Tràn ngập ánh sáng huy hoàng, tưởng như,
Ánh sáng trời phát nguyên từ,
Cũng như đàn quạ lông xù bản năng,
Cùng nhau khi trời rạng đông,
Sưởi ấm lông cánh lạnh trong khí trời.
Một bầy bay chẳng về thời,
Bầy khác trở lại, lại rồi bay đi.
Những con khác bay vòng quay,
Hình như đây cũng thế này diễn ra. 40
Đám lấp lánh tới từ xa,
Một số dừng lại trên đà bậc thang.
Gần tôi nhất, một hào quang,
Sáng trưng lên khiến tôi lòng nghĩ suy.
“Tôi chờ muốn nàng nói chi,
Chờ đợi cho biết phải khi thế nào.
Nói và làm. Nàng lặng im sao ?
Tốt hơn đừng hỏi thế nào im thôi.”
Nhưng nàng nhìn: im lặng tôi,
Hiểu thấu tất cả, đồng thời nhìn ra. 50
“Nơi khát vọng nung nấu ta.”
Tôi rằng : “Phẩm giá tôi chưa xứng gì,
Để được Người tôi trả lời.”
Nhưng nàng cho phép tôi vời hỏi ngay:
“Hỡi linh hồn chân phúc đây,
Dấu niềm vui sướng cho tôi biết gì,
Lý do nào đến gần tôi,
Xin cho được biết sao nơi thiên cầu,
Ca thiên im lặng vì đâu. ?
Đang vang sùng kính thiên cầu dưới kia.” 60
“Người trần gian có mắt tai,
Ở đây người chẳng hát ca”. Rằng lời :
Lý do Bích Chi không cười,
Bậc thang thần thánh ta thời xuống thang.
Để chúc mừng người trần gian,
Bằng lời nói ánh huy hoàng bao quanh.
Chẳng nhiều tình khiến tinh anh,
Còn nhiều tình nữa cháy bùng trên cao.
Ngọn sáng kia người thấy nào,
Lòng kính Chúa, thương người cao cả thành. 70
Nồng nhiệt theo Ngài thi hành,*
Phân định nhiệm vụ người lành hành hương.
“Vâng tôi rõ ngọn đuốc thiêng”.
Tôi rằng: “Tình tự do Vương quốc này,
Theo ý Đấng Vĩnh Hằng đây,
Nhưng điều như khó hiểu gì với tôi.
Tại sao định trước mình người,
Cho nhiệm vụ ấy trong bao tín đồ ?”
Tôi chưa kịp nói hết câu,
Ánh huy hoàng ấy đã vào trung tâm. 80
Xoay chính mình, như cối xoay nhanh.
Rồi tình yêu đó thong dong trả lời :
“Ánh sáng Chúa nhập vào tôi,
Nhập vào ánh sáng tạo tôi thế này.
Tính năng kết thị lực đây,
Đã nâng tôi cõi cao này tôi trông,
Đấng tối cao, nguồn sáng lên,
Và niềm hoan hỉ cháy bừng trong tôi.
Thị giác tôi tỏa sáng ngời,
Cùng ngang với ngọn lửa người của tôi. 90
Nhưng hồn sáng nhất trong trời,
Thiên thần thượng đẳng mắt soi Chúa Trời.
Không thỏa mãn yêu cầu người,
Điều người đòi hỏi chìm vời vực sâu.
Khá xa lời phán thiên thâu,
Xa ngoài tất cả biết bao tầm nhìn.
Bao giờ người về dương trần,
Nói lại lời để họ đừng đoán chi,
Mong tiếp cận mục tiêu này,
Trí đây sáng suốt, trần đầy mông lung. 100
Người nghĩ xem trần thế được chăng.
Điều không thể được cao xanh đón chào.”
Lời kết thúc cuộc chuyện trò,
Tôi đành bỏ lững bao câu hỏi mình.
Khiêm cung hỏi họ tên hồn.
“Nơi Italia ở hai bên biển bờ,
Đá dựng chẳng xa quê người,
Rất cao sấm sét gầm trời dưới chân.
Catria mang tên đỉnh non,*
Mé dưới ẩn dật người hành khổ tu. 110
Trọn đời thờ Chúa kinh cầu.”
Chuyện thứ ba lại bắt đầu thuyết minh :
“Nơi đó,” lại tiếp nói rằng :
“Việc thờ phụng vững niềm tin Chúa Trời,
Sống bằng dầu ô liu thôi,
Dễ dàng chịu đựng nóng trời, giá băng.
Trầm tư suy tưởng an lòng.
Tu viện thời ấy phú phong mùa màng.
Ngày nay trống vắng hoang tàn,
Chẳng lâu sụp đổ điêu tàn ngỗn ngang. 120
Nơi này ta Pierre Damien,*
Pierre Phạm Tội ở trong Giáo đường.*
Đức Bà Adrano biển xanh.
Ta chẳng còn sống được chừng bao lâu.
Bị buộc đội mũ trên đầu,
Truyền từ sự xấu đến bao tồi tàn.*
Cefàs đến từ thuyền buồm,*
Chúa Thánh thần với đôi chân gầy gò.
Qua bữa khắp quán đói no.
Ngày nay họ muốn người lo hầu bàn. 130
Ở đây bao kẻ Chăn Chiên,
Nặng nề với tấm áo choàng dài đuôi,
Phủ khăn dạ lên ngựa người,
Hai ngựa dùng đủ chung nơi da choàng.
Ôi nhẫn nại Chúa thật vô cùng !”
Sau lời tôi thấy bao thân đuốc hồng,
Bậc nọ, bậc kia quay tròn,
Mỗi vòng quay họ lại càng đẹp hơn.
Quanh lửa thứ nhất, dừng chân,
Phát lên một tiếng to thanh kiêu hùng. 140
Không gì so sánh được bằng,
Và tôi không hiểu, ầm ầm sóng vang. 142
CHÚ THÍCH
6. Semelé: Con gái Cadmo con vua Thèbes, yêu Zeus, vợ Zeus là Héra ghen lập mưu hãm hại. bằng các xui Semelé xin Zeus cho chứng kiến tất cả hào quang của Zeus, do đó bị cháy thành tro. Thần thoại kể theo Ovidio (ĐN XXX.3).
14. Tầng thứ bảy tầng trời Thổ Tinh, trong thời gian Dante lên Thiên đường, Thổ Tinh đang có vị trí nơi ngực chòm sao Sư Tử. Thời Dante, Thổ Tinh là sao xa nhất được biết trong Thái Dương Hệ.
29. Thang vàng, cái thang bằng vàng trên Thiên đường thường gặp trong các văn bản thời Trung Cổ, nguồn gốc phát xuất từ giấc mơ Jacob trong Kinh Thánh. Sáng Thế XXXVIII.
71-72. Chúa ra lệnh ngọn đuốc chân phúc đến với người hành hương.
109. Núi Catria trong dãy Appennino . nằm giữa Pergola và Gubbio.cao 1700m đơn độc
121. Pietro Damiano sinh ở Ravenna trong một gia đình nghèo đầu thế kỷ XI, lúc đầu làm luật sư, 30 tuổi làm tu sĩ, năm 1057 được bầu làm Hồng Y, mất ở nhà thờ S . Marie degli Angeli năm 1072. Tác giả nhiều sách. Nguyên tác tiếng Ý viết không rõ người ta có thể hiểu lầm Pietro Damiano và Pietro Peccato. Kẻ phạm tội cùng là một người.
Pietro Peccator (Pie Kẻ phạm tội) tu sĩ nhà thờ S Maeia in Porto Fuori, mất năm 119 có bia mộ hẳn hoi, còn lưu lại những bức thư có tính chất châm biếm Petrus peccator monacus.
127. Thuyền buồm . Simon con của Jean lấy tên là Cefàs, Thuyền buồm lớn là St Paul. TK. Thư các Tông đồ. IX,15. Hai vị này sống đạm bạc nghèo nàn khác vớc các vị chăn chiên đương thời.
142. Việc Béatrice không cười, việc các chân phúc im lặng và tiếng ồn khó hiểu này tạo cho Thi ca khúc XXI một không khí bí ẩn khác biệt.