Lặn Lội Tìm Chồng
Nguyên Thùy
Lời nói đầu : Đoạn thơ sau trích trong ‘VN Tân Huyết Sử Diễn Ca’ 7000 câu Song Thất Lục Bát (chưa hoàn thành) mô tả cảnh Miền Nam bị Cộng Sản ‘đổi đời’ dị hợm, không đem theo đuợc trong lần Vượt Biên, nay chỉ nhớ rời rạc từng đoạn. Đoạn thơ nầy nói cảnh các bà vợ Quân, Dân, Cán, Chính VNCH, đi tìm chồng, bị Cộng sản bắt đi học tập cải tạo ; chúng bảo chỉ đem theo mươi ngày lương thực, ngỡ sau đó sẽ về sum họp vợ con, nhưng rồi ngạ quỷ, ma vương quen thói láo khoét, bịp lường, mị dân,.. Trong thời buổi đó, không khí sợ hãi bao trùm khắp chốn, chẳng một ai dám nói năng gì…
Mươi ngày học (!) trôi qua thoáng chốc
Thêm mười ngày, trục trặc chi đây
Năm tuần, ba tháng, ô hay
Đảng quên, Đảng nhớ, Đảng xoay chước gì !?
Hay chàng đã bỏ đi trốn trại
Hay chàng đà lâm phải tai ương
Hay là cảm nắng trúng sương
Hay là rắn núi, cọp rừng, chàng ơi !
Mà bạn hữu, bao người đồng đội
Với chàng đi cùng buổi cùng xe
Nào đâu đã thấy ai về
Thôi rồi nhẹ dạ, cả nghe, mắc lừa !
Tiếng gió thoảng những ngờ ai gọi
Bồng con thơ thiếp dõi mắt trông
Lưng trời mây xám mênh mông
Bẽ bàng tin nhạn mịt mùng, thấy đâu !
Đôi kẻ vội lên chầu Thành Ủy
Mượn tờ đơn, xin chỉ trước sau
Chồng con học tập nơi đâu
Hắt hiu năm tháng quá lâu, xin về !
Người quân quản chẳng nghe lời kể
-Vội vàng chi, lý lẽ than van
Tội bán nước, nợ máu dân ( ?)
Học tập chừng ấy, chẳng cân được nào !
Nay chấp nhận cho thư thăm hỏi
Theo mẫu nầy, góp gởi tại đây
Khuyên răn học tập cho hay
Có chuyển biến tốt, ơn dày mới soi !
Thư có gởi, âm hồi chẳng thấy
Đêm lại ngày nào mấy sương tin
Những lo hốt hoảng đi tìm
Khác nào đáy biển mò kim, dã tràng !
Những mù mịt trùng quang mây trắng
Những hãi hùng, quặn đắng, loa vang
Khắp trời một dải khăn tang
Tim thoi thóp máu, mắt hàng lệ rơi !
Trò nhân thế cực đời lắm nỗi
Chuyện nhân tình bao đổi chua cay
Mù sương lên tím mặt mày
Đêm đêm chống mắt, ngày ngày khô môi !
Bọn con nhỏ, tuổi đời tấm bé
Đêm lại ngày hỏi mẹ : Cha đâu ?
-Cha đâu ?- Ờ nhỉ, Cha đâu ?
Giờ cha phiêu bạt nơi nào, hở con !?
Con chẳng rõ mẹ buồn, mẹ xót
Con đâu tường ̀ mẹ buốt mẹ đau
Cha con giờ ở nơi đâu
Đất trời chẳng biết, làm sao mẹ tường !?
Con với mẹ bàng hoàng ngơ ngẩn
Mẹ cùng con thờ thẩn hoang mang
Cầm bằng giạt biển trôi sông
Cầm bằng một chuyến sang ngang đò chìm !!!
Lân la dọ dấu chim tăm cá
Đôi nguồn tin bớt dạ héo hon
Thân cò nắng hạ mưa đông
Tìm cùng đáy lũng, đầu truông, cuối rừng
Nẻo khu chiến trập trùng thuở trước
Dặm mòn nai dốc ngược cheo leo
Đầu rừng trăng nhạt màu treo
Cuối rừng nắng quái sương gieo lạnh lùng
Trạm ga nhỏ tàu ngừng chuyến đổ
Chuyến xe đò mấy độ vào ra
Mịt mùng non nước gần xa
Mênh mông biển núi, bao la biển trời !
Chú tiều nọ ngậm lời eo óc
Bác nông dân lặng ngắt nhìn xa
Bốn bề sông núi mù lòa
Bốn bề gió thốc mưa sa lạnh dài !
Kẻ đi chợ mặt quay đầu cúi
Bé chăn trâu nghẹn nói thành lời
Dặm dài lên ngược xuống xuôi
Gánh hàng rong giả làm người bán buôn
Bà ba rách ra tuồng mót củi
Quần ống xăn lủi thủi làm vườn
Chắp tay vái lạy mười phương
Phật Trời xin độ vô thường phận tôi !
Chồng con đã đến nơi nào nhỉ ?
Chồng con nay biết nghỉ phương nao ?
Hỏi cùng đất thấp trời cao
Tấm thân vô định, lao đao kiếp người !
Chút vui nhỏ chẳng ̉ cười thành tiếng
Mẩu tin buồn tê điếng người thêm !
Chồng ơi, con hỡi ! Nỗi niềm
Gánh chung gảy gánh, tình riêng gảy tình !!!
Còn đâu nữa bình minh nắng gội
Còn đâu nào những tối trăng sao
Bên nhau thỏ thẻ ngọt ngào
Tình nồng nghĩa nặng tóc đầu hôn nhau !
Trời với đất trổi màu u ám
Nước cùng non những thảm cùng sầu
Chàng ơi ! Giờ ở nơi đâu ?
Nơi đây thiếp những gan bào ruột sôi !
Chuông chùa nọ sao lời ai oán
Kẻng nhà thờ nghe thảng thốt thôi !
Dù chàng vạn nẻo xa xôi
Thiếp dù vạn dặm khôn nguôi tìm chàng !!!
nt