Mã thi kỳ #15/ 18/ 22/ 23
thơ: Ngũ ngôn tứ tuyệt
Thời kỳ: Trung Đường
馬詩其十五 • Thơ về ngựa kỳ 15
馬詩其十五
不從桓公獵,
何能伏虎威。
一朝溝隴出,
看取拂雲飛。
Mã thi kỳ 15
Bất tòng Hoàn Công liệp,
Hà năng phục hổ uy.
Nhất triêu câu lũng xuất,
Khán thủ phất vân phi.
Dịch nghĩa
Không được theo Tề Hoàn Công đi săn,
Thì sao có đủ uy để đối đầu với hổ.
Sẽ có ngày, ta ra khỏi nơi ngòi nhò gò thấp này,
Xoải vó phi nhanh như mây bay.
Mã thi kỳ 18 馬詩其十八 • Thơ về ngựa kỳ 18
馬詩其十八
伯樂向前看,
旋毛在腹間。
只今掊白草,
何日驀青山?
Mã thi kỳ 18
Bá Nhạc hướng tiền khan,
Toàn mao tại phúc gian.
Chỉ kim bẫu bạch thảo,
Hà nhật mạch thanh san?
Dịch nghĩa
Nếu Bá Nhạc đứng đằng trước,
Với cái xoáy ở bụng.
Ngặt cái là nay cỏ khô ta còn bị lấy bớt,
Thì tới ngày nào mới vượt rặng núi xanh?
Mã thi kỳ 22 馬詩其二十二 • Thơ về ngựa kỳ 22
☆
馬詩其二十二
汗血到王家,
隨鸞撼玉珂。
少君騎海上,
人見是青騾。
Mã thi kỳ 22
Hãn huyết đáo vương gia,
Tuỳ loan hám ngọc kha.
Thiếu Quân kỵ hải thượng,
Nhân kiến thị thanh la.
Bản dịch của Nguyễn Minh
Đến hầu vua mồ hôi sắc máu
Theo xe loan đeo báu ngọc kha
Người coi đích thị con la
Thiếu Quân từng cưỡi khi ra biển ngoài.
Mã thi kỳ 23 馬詩其二十三 • Thơ về ngựa kỳ 23
馬詩其二十三
武帝愛神仙,
燒金得紫煙。
廄中皆肉馬,
不解上青天。
Mã thi kỳ 23
Vũ Đế ái thần tiên,
Thiêu kim đắc tử yên.
Cứu trung giai nhục mã,
Bất giải thướng thanh thiên.
Dịch nghĩa
Hán Vũ Đế ái mộ thần tiên,
Đốt tiền vàng nhưng được đám khói màu tím.
Trong chuồng ngựa chỉ toàn là ngựa thịt,
Không con nào bay lên trời được.
Bài này mượn Hán Vũ Đế để châm biếm việc vua đương thời mê tín.