EVGHÊNHI ALEXANDROVICH EVTUSHENKÔ
(18/07/1933 – 1/4/2017)
Tùng Cương dịch
Là một trong những nhà thơ Nga nổi tiếng nhất thời hiện đại. Ông yêu tất cả mọi đề tài: tình yêu, những vấn đề nhức nhối nhất của nước Nga, và cả thế giới hiện nay. Ông có số bạn đọc rất lớn, không chỉ ở Nga mà trên toàn thế giới. Thơ ông được dịch ra 72 thứ tiếng khác nhau.
NHÀ NƯỚC ƠI, XIN HÃY LÀM NGƯỜI!
Ucraina là người Nhên cụ kị của tôi,
làm lễ thánh cho nước Rus trên sông Đnepr
không có lẽ, Người sẽ thành đổ nát?
Tôi lo cho Người, tôi lễ cầu xin.
Như kẻ vô hình trên quảng trường Mai đan,
tất cả chúng tôi cùng Puskin, Briulôp.
Kề vai nhân dân, lặng thầm sát cánh,
như đã lâu và mãi mãi với người nhà.
Và khúc bi tráng anh hùng ca,
như bóng ma nội chiến,
một Pompây thành Kiep,
nơi chiến binh đứng dậy chống nhau.
Ở nơi đây, các tường thành lao vào nhau,
anh đánh em, và con đánh bố,
hỡi các vị, Sheptrencô và Lina Kôtxtrencô nữa
hãy giải hoà tất cả đến tận cùng!
Căm thù gì, cuồng nộ điều gì,
ở phía này và từ phía khác!
Có phải các ngài coi Baby Iar vẫn là ít,
và các ngài cần khởi chiến giết hại nhau?
Ơi Ucraina, Người sẽ phồn vinh mau,
sẽ có lúc được hôn mảnh đất thân thiết,
Người sẽ hôn, như ruột thịt, cả cha cố Do thái giáo
với mục sư Chính thống giáo thôi.
Nhà nước ơi, xin hãy làm người!
Hãy hoà giải mọi người, đừng nuôi thù oán.
Hãy vượt lên kiêu hãnh, vượt lên thế kỉ,
cùng với Iulia, hãy tha thứ cho mọi người.
Tất cả chúng ta rồi sẽ thành châu Âu.
Trên tận trời cao, mọi điều đã quyết.
Nhưng hãy nghĩ lại đi, ơi nhà nước,
phải chăng các người không mắc lỗi lầm gì?
Đêm Mai đan đang rừng rực lửa
18-19 tháng Hai 2014
Talxa Ôklakhôma
Tùng Cương dịch
ЕВГЕНИЙ ЕВТУШЕНКО
ГОСУДАРСТВО, БУДЬ ЧЕЛОВЕКОМ!
Ненька предков моих – Украина,
во Днепре окрестившая Русь,
неужели ты будешь руина?
Я боюсь за тебя и молюсь.
Невидимками на Майдане
Вместе – Пушкин, Брюлов, мы стоим.
Здесь прижались к народу мы втайне
как давно и навеки к своим.
И трагическая эпопея,
словно призрак гражданской войны,
эта Киевская Помпея,
где все стали друг другу воны
Здесь идут, как на стенку стенка,
брат на брата, а сын на отца.
Вы, Шепченко и Лина Костенко,
помирите их всех до конца!
Что за ненависть, что за ярость,
и с одной, и с другой стороны!
Разве мало вам Бабьего Яра,
и вам надо друг с другом войны?
Ты ещё расцветёшь Украина,
расцелуешь земли своей ком.
Как родных, ты обнимешь раввина
с православным священником.
Государство, будь человеком!
Примири всех других, а не мсти.
Над амбициями, над веком
Встань, и всем, вместе с Юлей, прости.
Всем Европой нам стать удастся.
Это на небесах решено.
Но задумайся, государство,
а ты разве ни в чём не грешно?
Ночь пылаюшего Майдана
18-19 Февраля 2014
Талса Оклахома
ЕВГЕНИЙ ЕВТУШЕНКО
Обожествлять не надо даже Бога.
Он тоже человек - не царь земной.
А лжи и крови так на свете много,
что можно подумать - он всему виной.
Не сотвори из Родины кумира,
но и не рвись в её поводыри.
Спасибо, что она тебя вскормила,
но на коленях не благодари.
Она сама во многом виновата,
и мы виноваты вместе с ней.
Обожествлять Россию – пошловато,
но презирать её ещё пошлей.
2003
EVGHÊNHI EVTUSHENKÔ
Ngay cả Chúa, cũng đừng thần thánh hoá.
Ngài cũng là người, đâu là chúa tể trần gian.
Trên thế giới, quá nhiều máu rơi và dối trá,
khiến ta nghĩ Ngài có lỗi liên quan.
Xin đừng biến Tổ quốc thành thần tượng,
nhưng cũng đừng ngoi lên ngôi chỉ hướng, dẫn đường.
Ơn Tổ quốc công sinh thành ta phương trưởng,
nhưng đừng vì cám ơn mà quỳ xuống cầu xin.
Chính Tổ quốc, trong nhiều điều, Người có lỗi,
cả chúng ta đều mắc tội cùng Người.
Tôn sùng quá nước Nga đã là hơi tồi tệ,
nhưng khinh bỉ Người còn tệ hại hơn.
2003
Tùng Cương dịch
Маше
Я люблю тебя больше природы,
ибо ты как природа сама.
Я люблю тебя больше свободы -
без тебя и свобода – тюрьма.
Я люблю тебя неосторожно,
словно пропасть, а не колею.
Я люблю тебя больше, чем можно-
Больше, чем невозможно, люблю.
Я люблю безоглядно, бессрочно,
даже пьянствуя, даже грубя,
и уж больше себя - это точно!-
даже больше, чем просто тебя.
Я люблю тебя больше Шекспира,
больше всей на земле красоты,-
даже бoльше всей музыки мира,
ибо книга и музыка – ты.
Я люблю тебя больше, чем славу,
даже в будушие времена,
чем заржавленную державу,
ибо Родина – ты, не она.
Ты несчастна? Ты просишь участья?
Бога просьбами ты не гневи.
Я люблю тебя больше счастья.
Я люблю тебя больше любви.
1995
Гальвестон
EVGHÊNHI EVTUSHENKÔ
Tặng Ma sha
Anh yêu em nhiều hơn yêu thiên nhiên,
vì một lẽ em là thiên nhiên đấy.
Anh yêu em nhiều hơn yêu tự do -
không có em, tự do thành tù ngục.
Anh yêu em một cách không thận trọng,
cứ như yêu vực thẳm, chứ không phải con đường.
Anh yêu em nhiều hơn là có thể,
nhìêu hơn cái có thể thông thường.
Anh yêu em vô hạn, chẳng nhìn quanh,
thậm chí cả lúc say, ngay cả khi nói bậy,
nhiều hơn yêu chính anh, đây mới là sự thật! -
thậm chí nhiều hơn cái đơn giản là yêu em.
Anh yêu em nhiều hơn yêu Sếchpia,
nhìêu hơn mọi vẻ đẹp trên trái đất,
thậm chí nhiều hơn âm nhạc trên thế giới,
vì sách báo, âm nhạc mới là em.
Anh yêu em nhiều hơn yêu vinh quang,
ngay cả trong những ngày sắp đến,
còn nhiều hơn yêu cường quốc đã gỉ mòn,
vì Tổ quốc là em, không phải là cừơng quốc.
Em bất hạnh? Em cầu xin thông cảm?
Em đừng xin, làm Chúa phải bực mình
Anh yêu em nhiều hơn yêu hạnh phúc.
Anh yêu em nhiều hơn cả tình yêu.
1995
Galveston
Tùng Cương dịch
EVGHÊNHI EVTUSHENKÔ
TRÍCH TRƯỜNG CA” ĐẠI HỌC TỔNG HỢP KADAN”
Nỗi nhớ về Tổ quốc lúc tha hương,
khi đứng dưới tán cây rừng xa lạ
ẩn dưới tim, như mũi dao nằm lại,
rút dao ra, ta cũng mất mạng theo.
Ở nơi xa, không cảnh cắn hạt dưa,
không nghe tiếng chửi thề và văng tục
nhưng ta bỗng nhớ buồn chuyện đê tiện,
thói tục tằn, thô thiển của người Nga.
Nhưng nếu hàng ngày đểu cáng được bày ra,
tiếng chửi tục người Nga bật ra mọi lúc
thì bệnh tâm thần lại bùng phát,
buồn nhớ quê hương bỗng chà xát trong tôi.
Tôi không ưa cái chế độ qúai thai,
tôi chỉ quý trên đồng những cây thập tự.
Ơi nỗi nhớ quê hương trên tổ quốc,
không có gì khủng khiếp hơn nỗi buồn này.
Ngày hôm nay, vì thế, tôi uống say,
như thợ kim hoàn rượu say tuý luý,
nỗi buồn công dân giương lên móng vuốt
móc vào tim làm tan nát lòng tôi.
Hãy nhìn đi, các trung uý, sĩ quan ơi,
tôi sẵn sàng hôn, không hề xấu hổ,
hôn tay cô gái thường dân, như Đuynxinê xứ nọ,
tay nữ hoàng, nhất định, tôi không hôn.
Tôi mê say nước Nga,
tôi kiêu hãnh về Tổ quốc,
nơi không có sa hoàng, không quan chức,
không công an, mật thám, hay đơn giản, chẳng công an.
Tôi không mê các thế giới thanh cao,
tôi không thích nước Nga trong vai đế quốc,
tôi chỉ quý nước Nga tương lai –Tổ quốc,
là quê hương thân thiết của tôi.
1970
Tùng Cương dịch
ЕВГЕНИЙ ЕВТУШЕНКО
ИЗ ПОЭМЫ “КАЗАНСКИЙ УНИВЕРСИТЕТ”
Тоска по Родине вне родины
под сенью чуждых чьих-то рощ
сидит, как будто нож под ребрами,
а если выдернешь - умрёшь.
Там семечками не залускано,
не слышно “в бога душу мать”,
но даже по хамству русскому
вдруг начинаешь тосковать.
Но если хамство эжедневное
и матерщина - просто быт,
то снова, как белезнь душевная,
тоска по родине свербит.
Мне не родной режим уродливый -
родные во поле кресты.
Тоска по родине на родине,
нет ничего страшней, чем ты.
Я потому сегодня пьянствую,
как пьянствуют золотари,
что раздирает грусть гражданская
меня когтями изнутри.
Глядите, бурши и поручики,
я поцелую без стыда,
как Дульцинее, девке рученьку,
цареву руку – никогда!
Я той Россией очарованный,
я тою родиною горд,
где ни царей и ни чиновников,
ни держиморд, ни просто морд.
Чужие мне их благородня
и вся империя сия,
и только будушая Родина -
родная Родина моя!
1970
EVGHÊNHI EVTUSHENKÔ
NGHÈO THANH BẠCH
Những người già và đám trẻ trai
chân đều diện trong đôi dép lốp.
Bốn mươi đồng là lương bốc vác,
mặc áo quần, vá đúp, vá chằng.
Bà lái đò có độc khuy, chỉ trong nhà
và huy hiệu, huân chương, thừa cả vốc.
Họ không thích người ngoài thương xót,
giọng ban ơn với người sống ở đây.
Họ không sợ cái nghèo đói đắng cay,
điều này quý hơn nhà đầy của cải.
Phụ nữ khóc trên tro tàn còn lại,
nhưng chưa một lần tôi gặp ăn mày.
Nếu xứ này, có ai đó chìa tay,
là để nhận súng, đạn, ta đưa họ.
Chuyện tem phiếu không phải điều giễu cợt
họ sống nghèo vẫn hài hước, trọc cười.
Dáng người đi không khom gối, hận đời.
Nạn tem phiếu đâu phải là kiêu hãnh.
và kiêu hãnh là thước đo trong lịch sử,
người nơi đây sánh Lêningrat ở độ tự hào.
Người ta coi chiến thắng là nghèo thanh cao,
nếu họ thoát được ngay nghèo đói
và vươn lên nghèo đói thanh cao.
Đây chính là tương lai sẽ tới.
Hà Nội, 1972
Tùng Cương dịch
ЕВГЕНИЙ ЕВТУШЕНКО
ГОРДАЯ БЕДНОСТЬ
Сандалеты из автопокрышек
на ногах стариков и мальчишек.
Сорок донгов у грузчиц зарплата,
и к заплате прижалась заплата.
У лоточниц лишь пуговики, нитки,
и значки, и значки: их в избытке.
Но не любит, чтоб им выражалась
снисходительно чья-нибудь жалость.
И моральней любого богатства -
горькой бедности не пугаться.
Плачут женщины на пепелищах,
но ни разу не встретил я нищих.
Если руку протьянут здесь – только,
чтобы взять в эту руку винтовку.
Всё по карточкам - только не юмор.
Он в измученных людях не умер.
Люди ходят не хныча, не горбясь.
Всё по карточкам - только не гордость,
и по гордости с Ленинградом
эти люди в истории рядом.
В этой бедности гордой - победность
если всё -таки в гордую бедность
люди выбились из нищеты.
В этом будущего черты.
Ханой, 1972
MỌI THỨ VẪN NHƯ XƯA
Mọi thứ vẫn như cũ,
thành phố này, mọi thứ vẫn như xưa,
cửa hàng,
nhà tắm,
công xưởng
chỗ giặt là,
lũ chim câu trông phát phì, khệnh khạng,
những cậu bé phóng đua xe bạt mạng,
người Matxcơva nói nghe đậm âm a,
nhân viên đưa hoá đơn đến từng nhà,
tiếng gầm rú của máy bay phản lực,
những thùng sữa chua va nhau lịch kịch.
Mọi thứ như xưa
mọi thứ hệt như xưa
có điều gì mới mẻ vẫn nhận ra
trong im lặng, nghe qua giọng nói
những thay đổi lớn lao nào đó
đang diễn ra nơi góc phố, con đường.
Sáng sớm ra, tôi vội vã đến trường,
lên tầu điện, bánh mì chưa kịp nhá
tôi nhận thấy có điều gì mới quá
sau cặp kính căng thẳng cậu sinh viên,
một cái gì quyết liệt, trang nghiêm
trong ánh mắt người thợ sơn làm kiệt sức,
qua vầng trán nữ sinh đè lên kính,
tôi hiểu ra, có lẽ, có cái gì
bị phá đi,
đã bắt đầu,
sắp xảy ra.
Tất mọi thứ vẫn y nguyên -
cả mặt nhà
và biển hiệu
Chưa thấy sự lật nhào
và sự biến,
nhưng nhìn qua mọi thứ khiến tôi nghi
nhiều biến động bất ngờ
đã chín muồi chờ xuất hiện.
24 tháng bẩy 1957
Tùng Cương dịch
ЕВГЕНИЙ ЕВТУШЕНКО
ВСЁ, КАК ПРЕЖДЕ
Всё, как прежде,
Всё, как прежде, в этом городе:
магазины,
бани,
фабрики,
химчистки,
ожиревшие напышенные голуби,
самокатами гремящие мальчишки,
и московское особенное аканье,
и разносчицы жировок по квартирам,
и гуденье реактивное,
и звяканье
проволочных ящиков с кефиром.
Всё, как прежде,
Всё, как прежде, -
тем не менее
что- то новое
и в тишине, и в говоре,
и какие то большие изменения
происходят,
происходят в этом городе.
Рано утром,
в институт рассчитывая,
я в трамвай влезаю с булкой непрожеванной,
что-то новое я вижу
и решительное
у студента за очками напряжёнными.
В том, как смотрит на меня маляр натруженный,
в том, как лбом к стеклу прижалась ученица,
понимаю –
что-то, видимо, нарушено
что-то начато,
и вскоре учинитсь.
Всё на месте –
и фасады,
и названия
Ни событий чрезвычайных,
ни свержений.
Но во всём подозреваю
назревание
и возможность неожиданных движений
24 июля 1957
EVGHÊNHI EVTUSHENKÔ
SỐNG THẾ NÀY, KHÔNG TIẾP TỤC ĐƯỢC ĐÂU
Khi đất nước bắt đầu lao xuống dốc,
ta nghiến răng bám thật chắc bánh xe
và ta hiểu
chỉ có ngăn nó lại:
“Sống thế này không tiếp tục được đâu!”
Đỉnh nhục nhã là bán mua phẩm giá.
Không được treo tranh Chúa trong nhà săm
Chỉ có vậy, cuộc sống này đi tiếp,
bắt đầu từ một phát kiến lớn lao:
“Sống thế này, không tiếp tục được đâu!”
1988
Tùng Cương dịch
ЕВГЕНИЙ ЕВТУШЕНКО
ТАК ДАЛЬШЕ ЖИТЬ НЕЛЬЗЯ
Когда страна пошла с откоса,
зубами мы вцепились ей в колёса
и поняли,
её затормозя:
“Так дальше жить нельзя!”
Есть пик позора в нравственной продаже.
Нельзя в борделе вешать образа.
Жизнь
только так и продолжалась дальше -
с великого:
“Так дальше жить нельзя!”
1988
Em hỏi anh, giọng khe khẽ thì thào:
“Rồi sau đó thì sao?
Rồi thế nào sau đó?”
Đám chăn gối trên giường quăng bốn phía,
và dáng em lộ rõ vẻ hoang mang…
Nhưng rồi em đặt chân bước trên đường,
đầu ngẩng lên đẹp đẽ,
kiêu sa lọn tóc hung hung,
đôi giầy gót cao nhọn hoắt.
Trong mắt em, vẻ nhạo báng hiện lên,
và đôi mắt ban ra mệnh lệnh:
anh không được lẫn em
với người bạn gái cũ,
người được anh yêu,
người đã yêu anh.
Nhưng điều đó nay đã thành vô vọng.
Đối với anh,
em đã thuộc hôm qua,
với lọn tóc bung ra loã xoã,
đành bất lực rơi vào quên lãng.
Em đặt em vào chỗ đứng thế nào,
em bắt anh phải tính toán ra sao,
trên giường đó,
có người đàn bà khác,
nằm cạnh anh,
và hỏi anh, giọng khe khẽ thì thào:
“Rồi sau đó thì sao? Rồi thế nào sau đó?”
1957-1975
Tùng Cương dịch
ЕВГЕНИЙ ЕВТУШЕНКО
Ты спрашивала шёпотом:
“А что потом?
А что потом?”
Постель была расстелена,
и ты была растеряна…
Но вот идёшь по городу,
несёшь красиво голову,
надменность рыжей челочки,
и каблучки – иголочки.
В твоих глазах -
Насмешливость,
и в них приказ -
не смешивать
тебя
с той самой,
бывшею,
любимой
и любившею.
Но это - дело зряшное.
Ты для меня -
Вчерашняя,
с беспомощно забывшейся
той челочкой сбившейся.
И как себя поставишь ты,
и как считать заставишь ты,
что там другая женщина
со мной лежала шепчуще
и спрашивала шёпотом:
“А что потом?
А что потом?”
1957-1975
EVGHÊNHI EVTUSHENKÔ
Cái cần yếu trong đời người là
đàng hoàng đón mọi đổi thay thời đại,
cái thời lúc thì trì trệ,
lúc thì đảo lộn đến tận đáy chưa thôi.
Đàng hoàng là cái chính trong đời người,
để cho kẻ đi phát ban tài lộc,
không dẫn anh đến chuồng súc vật,
không lấp mồm anh bằng nắm cỏ thôi.
Sợ thời đại là đã sa sút rồi,
đừng mất sức cho những trò hèn nhát,
nhưng nên chuẩn bị mình trước mất mát,
mất tất những gì ta sợ mất lắm thôi.
Và nếu như mọi sự rối tinh lên rồi,
khi ta không thể làm gì giải quyết trước,
ta nhớ nhắc ta, dù vắn tắt:
“ Cái này phải sống qua mới bíêt thôi…”
1976
Tùng Cương dịch
ЕВГЕНИЙ ЕВТУШЕНКО
Достойно, главное, достойно
любые встретить времена,
когда эпоха то застойна,
то взбаламучена до дна.
Достойно, главное, достойно,
чтоб раздаватели щедрот
не довели тебя до стойла
и незаткнули сеном рот.
Страх перед временем – паденье,
на трусоть душу не потрать,
но приготовь себя к потере
всего, что страшно потерять.
И если всё переломалось,
как невозможно предрешить,
скажи себе такую малость:
“И это надо пережить…”
1976
CON KIẾN AFGANISTAN
Chàng trai Nga nằm trên đất Afganístan.
Một con kiến đạo Hồi bò trên gò má.
Thật khó bò…Người chết quá rậm râu,
con kiếm thì thầm nho nhỏ:
“Anh biết chính xác chỗ nào anh bị chết vì vết thương.
Anh chỉ biết một điều…gần Iran, ở đâu đó,
Tại vì sao anh mang vũ khí tới đất nước tôi,
nơi chỉ mới lần đầu nghe đến từ “Hồi giáo”?
Anh mang gì cho Tổ quốc tôi đi chân đất, đói nghèo,
Nếu ở chính nước anh – muốn mua giò phải xếp hàng rồng rắn?
Phải chăng đất nước anh vẫn ít người bị giết không,
để giờ lại thêm vào số hai mươi triệu đã chết?
Chàng trai Nga nằm trên đất Afganístan.
Một con kiến đạo Hồi bò trên gò má.
Về việc có cách nào giúp anh đứng dậy và hồi sinh,
Nó muốn hỏi đàn kiến chính thống Nga giáo
Nhưng quê hương phương bắc của những bà goá và trẻ mồ côi
còn lại ít những con kiến đó.
Tháng Mười hai 1980
Tùng Cương dịch
ЕВГЕНИЙ ЕВТУШЕНКО
АФГАНСКИЙ МУРАВЕЙ
Русский парень лежит на афганской земле.
Муравей -мусульманин ползёт по скуле.
Очень трудно ползти …Мёртвый слишком небрит,
и тихо ему муравей говорит:
“Ты не знаешь, где точно скончался от ран.
Знаешь только одно - Где -то рядом Иран.
Почему ты явился с оружием к нам,
здесь впервые услышавший слово “ислам”?
Что ты дашь нашей стране – нишей, босой,
если в собственной - очередь за колбасой?
Разве мало убитых вам - чтобы опять
к двадцати миллионам ещё прибавлять.
Русский парень лежит на афганской земле.
Муравей мусульманин ползёт по скуле
и о том, как его бы поднять, вокресить,
муравьев- православных он хочеть спросить
но на северной родине сирот и вдов
маловато таких муравьев
Декабрь 1980
EVGHÊNHI EVTUSHENKÔ
NGƯỜI ĐÀN BÀ ĐẦU TIÊN
Giống đa tình, cái từ thấy kì kì…
Bậc tam cấp, hội làng mùa đông ấy,
“Phải mạnh dạn! nàng thì thầm đưa đẩy:
“Mặc áo len, cậu cứ đến chỗ tôi,
chỗ ấm ghê, như lò bếp nhóm rồi.
Nàng chèo kéo tôi luồn tay vào dưới áo.
Chú gấu rung xích kêu lách cách trong vườn.
Chào đón khách, cửa nhà rên cót két.
“Nếu so tuổi, tôi đã là già khú.
Thế cậu qua tuổi mười sáu hay chưa?
Lấy đủ hơi, tôi làm vẻ tỉnh bơ,
thổi dăm sợi râu tơ trên môi xuống:
“Đã lâu rồi! Từ cái độ tháng giêng…”
Và mật ong sóng sánh vàng ươm
như đang sôi trong xô vải không thấm nước.
Răng hai hàm đua nhau nhảy múa
bên miệng chiếc gầu sắc vành,
khi áo lông cừu trải dưới,
tôi chờ nàng, cuống quýt muốn được yêu.
Nàng bảo tôi:”Nào cậu quay mặt đi!”
Còn tôi vẫn giữ nguyên, không ngoảnh mặt,
tôi nghẹt thở vì tôi đang phấn khích
tôi bay lên tìm gò cao nữ thần.
Nàng dứ tôi, đưa cối giã chụp lên đầu:
“Thật xấu hổ, xin cậu đừng nhìn nữa!”
nàng đã khắc vào lòng tôi dấu vết,
nhẹ nhàng bước qua chiếc váy để rơi,
rồi đến quần con, rồi tới đôi giầy,
thành thánh nữ dịu mềm nơi rừng núi.
Là bà goá đã lâu, không còn là thiếu nữ,
toàn thân nàng trắng ngần, chỉ khuôn mặt ngăm ngăm,
nàng cởi áo quần tôi, như cởi cho con nít,
bàn tay nàng thèm khát, đói ăn.
Ở trại ong, vùng Antai, nơi rừng núi,
tôi e thẹn vì mình đang trần trụi,
tôi vào em, người tôi thấy sướng run,
như mình được bước lên vũ trụ.
Lần đầu tiên, tôi thực sự thành đàn ông,
nằm trên áo lông cừu của người rong xe ngựa.
Mất thói quen, nàng cảm thấy đau đau –
năm năm trước, chồng của nàng bị giết.
Hai mắt nàng nhắm lại rất tự nhiên,
nàng có lẽ hình dung tới anh chồng trước.
Vầng trán nàng in đầy vết ong châm.
Biết rằng tôi mới chỉ tuổi mười lăm,
nàng quỳ xuống trước tranh tượng Chúa,
miệng nức nở:”Tội con đáng chết quá”
và tất nhiên, Chúa tha thứ nàng thôi,
vì gần như nàng say đắm yêu rồi,
bằng vết thuỷ tinh do chiếc nhẫn
để lại vết xước trong tôi mãi mãi.
Say cuồng nhiệt, tấm thân nàng hừng hực,
vẫn trinh nguyên, hai vồng ngực cứng căng,
giây phút ấy, nàng đã mong muốn trước
tôi sẽ yêu nàng qua nhiều phụ nữ khác trong đời.
17-25 tháng một 2005
Tùng Cương dịch
ЕВГЕНИЙ ЕВТУШЕНКО
ПЕРВАЯ ЖЕНЩИНА
Любиночки -что за словечко…
На посиделках у крылечка
шепнула ты:” Смелее будь.
Зайди под кофту. Там, как печка “
и пригласила руку в грудь.
Медведь тряс цепью во дворе.
Изба встречала скрипнув глухо.
“Я коль сравнить с тобой, старуха.
Шестнадцать есть?” Набравшись духа,
я сдунул с губ небрежней пуха:
“Давно уж было… В январе …
и золотилась медовуха,
шипя в брезентовом ведре.
Как танцевали мои зубы
по краю острого ковша,
когда поверх овчинной шубы
я ждал тебя, любить спеша.
И ты сказала:” Отвернись”,
а я совсем не отвернулся
и от восторга задохнулся,
взмывая в агельскую высь.
Ты пригрозила, вскинув ступку:
“Бестыжий, зыркать не моги!”
И, сделав мне в душе зарубку,
легко перешагнула юбку,
и трусики и сапоги,
став нежным ангелом тайги.
Давно вдова, а не девчонка
Белым-бела, лицом смугла,
меня раздела, как ребёнка,
рукой голодной помогла.
На пасеке в Алтайской чаще
смущался я того, что гол,
но я в тебя, дрожа от счастья,
как во вселенную вошёл.
И стал впервые я мужчиной,
на шубе возчицкой, овчинной.
Тебе с отвычки было больно -
пять лет назад был муж убит.
Закрыла ты глаза невольно,
но его представив, может быть.
Был пчелами твой лоб искусан.
Узнав, что мне пятнадцать лет,
упала ты перед Иисусом,
рыдая:” Мне прощения нет”
И он простил тебя, конечно,
за то, что ты, почти любя,
стекляшкой бедного колечка
в меня вцарапала себя.
И всею истовостью тела,
грудей нетроганно тугих
ты наперёд тогда хотела -
чтоб я любила тебя в других.
17-25 января 2005
DI CƯ NỬA VỜI
Nơi đất khách, tôi là người xa lạ
chìm vào đêm, càng thấy quá lạ xa,
dường như tôi bị giết ở quê nhà
và họ ném xác tôi xa khuất mắt.
Và thân xác tôi còn hơi ấm áp
không chờ mong dù một chút cầu may,
khi bay lên đâu đó khắp trời này,
lúc vật vã, quật quăng ngay mặt đất.
Chả có lẽ tôi không là người đã
từng di cư một nửa, dở dang,
tránh cảm giác kinh tởm vì ước mong
ném đi hết quả không kết trái?
Tôi che mắt như khi tôi bị đánh,
để quạ đàn không mổ nát mắt tôi.
Thế hệ tôi là chính đoàn quân
bị đánh bại nát tan vì chiến thắng.
Này đợt sóng thứ năm – khởi đầu biển cả-
cảnh di cư dang dở xua đuổi ta đến đâu,
trốn đi đâu, chạy tránh những khổ đau,
tránh vỡ mộng, xấu xa, xấu hổ?
Tôi rời bỏ cái hạnh phúc kiểu đó,
cái niềm vui chỉ có chọn một trong hai,
hoặc ở đây, nước Mỹ, Măcđônan,
hay ở đó, Matxcơva, Puskin.
Ở Quê hương, Tổ quốc ngày một ít,
muốn thấy người trong quán nước ngâm nga,
trong hình hài gái chính thống giáo – ghêi sa,
nhưng bị kẹp nằm trong tay bạo chúa.
Những gấu Nga trên sàn diễn xiếc
đấm đá nhau, phát chết vì buồn.
Rời Quê hương, Tổ quốc bỏ đi luôn,
Nếu tất cả chạy quê hương đi hết.
Thiếu Tổ quốc, lòng trống không khủng khiếp
suy nghĩ buồn bám theo bước chân ta.
Ta muốn gì trong cuộc sống của ta –
muốn được hiểu ở đây và ở đó.
Nhưng ở Nga, mỗi quả dưa chuột nhỏ
dính trên mình chút đất bở ướt mềm
như con người bé nhỏ mới ra đời
cứ cắt rốn – đều coi là thân thiết.
Nhưng ở Nga có Iatxnaia Paliana- Rừng sáng
bởi bất kì vùng đất khách tôi đi,
tôi suốt đời không rời nó một ly,
tôi phỉ nhổ tất những gì mua chuộc.
Gì đi nữa, ta trung thành với Tổ quốc
dù phải chôn bao mơ ước, cầu mong
Cứ lặng lẽ, chúng ta thành Tổ quốc.
Vậy làm sao, ta bỏ được ta đi?
Tháng Mười 1993
Tùng Cương dịch
ЕВГЕНИЙ ЕВТУШЕНКО
ПОЛУЭМИГРАЦИЯ
Сам себе чужой я на чужбине,
всосанный в совсем чужую ночь,
будто бы на Родине убили,
ну а тело выкинули прочь.
И моё живое еле тело,
не надеясь даже на авось,
то куда-то небом полетело,
то землей опять поволоклось.
неужели я не тот, что прежде,
полуэмигрировавший от
чувства отвращения к надежде,
выкинувшей столь бесплодный плод?
Стал глаза я прятать, как побитый ,
чтоб их не склевало воронье.
Армия, разбитая победой, -
это поколение моё.
Пятая волна - начало моря,
но куда, ты гонишь нас, куда
полуэмиграция, от горя,
разочарования и стыда.
Я от счастья этакого тронусь.
Счастья вариации лишь две -
либо здесь, в Америке, Макдональдс,
либо после Пушкина в Москве.
Родины на Родине всё меньше.
Видеть её хочут в кабаке,
чем то вроде православной гейши,
но зажатой в царском кулаке.
Цирковые русские медведи
воют- их тоскою извело.
Родина из Родины уедет,
если все уедут из неё.
Без неё такая пустотелось
и дурные мысли по пятам.
Ишь чего мне в жизни захотелось -
понятым быть сразу здесь и там.
Но в России каждый огуречик
с неотлипшей нежною землей -
это как родимый человечек
и любым пупурышком - он свой.
Но в России Ясная Поляна -
потому в любом чужом краю
я её вовек не брошу, я на
столькие соблазны наплюю.
Родину мы всё-таки не сдали,
сколькие надежды погребя.
Незаметно Родиной мы стали .
Как же нам уехать из себя?
Октябрь 1993
XẤU HỔ
Cả đất nước bị tảy chay, xua đuổi,
như trong tay gian giảo tắc xi.
Suốt chiều dài lịch sử nước Nga
chỉ thấy những xấu xa và xấu hổ.
Làm sao nước Nga xa lầy đáy hố-
không đường đi ngược, chẳng lối chạy xuôi.
Thay cho đám vật tư xây dựng trên đời,
chỉ thấy hổ thẹn, xấu xa rồi xấu hổ.
Nỗi xấu hổ ăn cả vào vương trưởng-
ngài trên ngai không phải kỵ sĩ tài
và có khi bị gạt xuống khỏi ngai,
bởi xấu hổ mới toanh, ma giáo.
Việc lựa chọn của người Nga chỉ có:
một trong hai đĩa cá thối ươn,
một đĩa con hay là đĩa lớn hơn,
nhưng vẫn chỉ loại đĩa toàn xấu hổ.
Cả cuộc sống đẹp như tranh hay đáy hố
đều ngập chìm trong xấu hổ, xấu xa.
Cả ván bài – những kế hoạch của ta,
vì hổ thẹn đều bị thu nhỏ lại.
Tôi đang sống những ngày gần cuối
đầy xấu xa như phủ bụi toàn thân,
tôi ẩn mình trong góc nhỏ con con,
ở Vôlôđimia, trên miền đất cổ.
Đáng thương hại phải chết trong xấu hổ.
Vì xấu xa đâu có đẹp đẽ gì.
Nhưng không còn biết xấu hổ là khi,
tất cả chúng ta đến kì tận thế.
Tháng sáu 1994
Tùng Cương dịch
ЕВГЕНИЙ ЕВТУЩЕНКО
СТЫДЫ
Вся страна сейчас в угоне,
как в блатных руках такси.
От стыда к стыду другому -
вся история Руси.
Как Россия подзастряла -
ни туды и ни сюды.
Вместо стройматериала -
лишь стыды, стыды, стыды.
Стыд похмельно держит скипетр -
он на троне не седок,
и его, наверно, скинет
ловкий новенький стыдок.
Русский выбор - выбор между
двух тарелок тухлых щей,
между большей или меньшей,
но опять стыдобищей.
Жизнь - нища или шикарна,
обыстыженная вся.
Oт стыда вся наша карта
так и сьеживается.
И в остатные денечки
весь в стыдобе, как в пыли,
притулюсь я на кусочке
володимирской земли.
Помирать в стыде обидно.
Стыд он делу не венец.
Но когда не станет стыдно,
лишь тогда нам всем конец.
Апрель 1994
Hai tình yêu
Không hẳn là tất cả những nụ hôn
đều bừng giấc trên môi đang thiêu đốt,
không hẳn là có những mảnh sân
vung tay vẫy vạt áo mang nước mắt,
một đêm trắng, bằng trụi trần sự thật,
thuyết phục tôi phải ghi nhận một điều:
Khi ta đang hạnh phúc – có tình yêu,
đừng có chạy đuổi theo tình yêu khác.
Không hẳn là trong lòng đang u tối,
mà ngoài trời lại sáng chói muôn phương,
chẳng ra là đêm tối đang giăng,
cũng không hẳn thiên thần đang vỗ cánh.
Đời thiếu vắng tình yêu – sao sợ quá
sợ hơn nhiều – cùng lúc có hai tình yêu,
như mịt mù đêm tối đầy sương
hai tầu thuỷ bỗng đâm nhau quyết chiến.
Hai cuộc tình không hẳn là quà biếu,
gặp hiểm nguy là cái kết hiển nhiên,
không hẳn là tai hoạ - hai tình yêu,
sét chợt đánh giữa đêm, qua cửa sổ,
thanh kiếm lửa cắt giường thành hai nửa,
những lá thư từng quý giá ngày xưa
cháy thành tro như giấy lộn bỏ đi.
Hai cuộc tình chẳng ra tình yêu đến,
hai cuộc tình không hẳn là cuộc chiến.
Hai tình yêu không thể có song song.
Một trong hai sẽ thành kẻ sát nhân.
Hai tình yêu hệt như hai tảng đá
sớm kéo nhau xuống tận đáy chết chìm.
Tôi đang sợ, tôi còn yêu đương nữa,
Bởi từ lâu, tôi đã yêu rồi.
Tháng bảy 1994
Tùng Cương dịch
ЕВГЕНИЙ ЕВТУЩЕНКО
Две любви
То ли все поцелуи проснулись,
горя на губаx,
то ли машут дворы
рукавами плакучиx рубаx,
упреждая меня
белой ночью, дразняще нагой,
от любви дорогой
не xодить за любовью другой.
То ли слишком темно на душе,
а на улице слишком светло,
то ли белая ночь,
то ли ангельское крыло.
Страшно жить без любви,
но страшннее, когда две любви
вдруг столкнутся, как будто в тумане ночном корабли.
Две любви -
то ли это в подарок с опасным избытом дано,
то ли это беда
прыгнет молнией ночью в окно,
рассекая кровать
раскаленным клинком пополам,
драгоценные некогда письма
сжигая, как xлам.
Две любви
то ли это любовь, то ли это война.
Две любви невозможны.
Убийцею станет одна.
Две любви, как два камня,
скорее утянут на дно.
Я боюсь полюбить,
потому что люблю, и давно.
Июнь 1994
Chưa một lần, tôi ruồng bỏ nguời yêu,
nhưng lại dễ gây ra nhiều lầm lỗi.
Chưa một lần, với bạn bè - tôi phản bội,
mà tôi chỉ phản tôi, thế đâu gọi có công.
Chưa một lần, tay tôi giết gà con,
nhưng tôi giết thời gian - gần như bằng đại bác.
Những giây phút chết rồi, như thây xác
nối thành năm… Trời hỡi, ngốc làm sao…
Tôi cứu ra nhiều bạn hữu khỏi nhà lao,
nhưng ngồi kể công lao – nghe nhục nhã.
Nhưng không cứu nhiều người, nhiều thứ quá,
và tôi lo ánh mắt thẳng Chúa nhìn tôi.
3 tháng bảy 1996
Tầu Mátxcơva – Pêtrôdavôtxk
Tùng Cương dịch
ЕВГЕНИЙ ЕВТУЩЕНКО
Не разлюбил ни одной любимой,
но был на прегрещенья неленивый.
Не предавал ни разу в жизни друга,
а лишь себя, но это не заслуга.
Я не убил за жизнь мою ни клушки,
а время убивал - почти из пушки.
Минуты убиенные, как трупы
сложились в годы… Боже мой, как глупо…
Я столькиx спас по тюрьмам и по зонам.
Да вот подсчёт спасательствам - позорен.
Н о я не спас так многиx и так много,
и я боюсь прямого взгляда Бога.
3 июля 1996
Поезд Москва - Петрозаводск
Khe BaBy Iar
Khe Baby Yar chưa có đài tưởng niệm.
Bờ dốc đứng, như bia mộ dạng thô.
Tôi thấy sợ.
Ngày hôm nay tuổi tôi
bằng với tuổi nhân dân Do thái.
Tôi cảm thấy-
giờ tôi là tín đồ Do thái giáo
Thì tôi đang hành hương trên đất Ai cập cổ xưa.
Và giờ đây bị treo trên thánh giá, tôi chết dần,
đến lúc này trên người tôi đinh còn đầy vết.
Tôi cảm tưởng
tôi cũng là Đrâyphút.
Đám tiểu thị dân là người trình báo và quan toà.
Tôi ngồi sau song sắt.
Tôi bị bắt giam.
Bị đầu độc,
bị vu oan,
bị phỉ nhổ.
Các quý bà mặc áo nẹp đăng ten,
miệng rin rít, tay chọc cán ô lên mặt tôi.
Có cảm tưởng
tôi là cậu bé ở Beloxtôc.
Máu đang chảy tràn ra sàn loang khắp.
Chủ quán rượu đang nháo nhác lộng hành
mùi vốt ca chộn pha với mùi hành.
Tôi bất lực bị giày đá văng nằm một góc.
Cầu cứu kẻ tàn ác chỉ hoài công tốn sức.
Trong tiếng gào
“ Hãy giết bọn Giứt, hãy cứu giúp nước Nga!”
chủ cửa hàng đồ khô đang cưỡng hiếp mẹ tôi.
Ôi nhân dân Nga của tôi! - Tôi biết rồi,
Người có tinh thần quốc tế,
Nhưng những kẻ tay không sạch sẽ
thường mang tên Người không tì vết ra múa may.
Tôi biết đất nước Người hay tốt bụng.
Thật đểu cáng những người bài Do thái
không run tay đặt tên lấy rõ kêu
họ gọi họ là “Liên minh nhân dân Nga”!
Tôi tưởng rằng
tôi là Anna Frănk.
Như cành lá, tháng tư, trông trong suốt.
Và tôi yêu.
Không cần mất nhiều lời.
Cái tôi cần
ta được nhìn vào mắt nhau thôi.
Có thể thấy, có thể cảm nhận thật là ít.
Ta không được ngắm lá cành
và bầu trời- không được hưởng.
Nhưng nhiều điều có thể - thật tuyệt vời
khi được ôm nhau ở nơi phòng tối.
Có người đến?
Đừng sợ - đấy là tiếng
rộn ràng của mùa xuân đang tới.
Nào lại đây.
Hãy ghé môi cho anh hôn.
Có tiếng phá cửa?
Không – đấy là tiếng băng trôi…
Tiếng cỏ dại trong khe Baby Iar nghe xao xác.
Rừng cây đứng nhìn dữ tợn,
như quan toà nghiêm khắc.
Mọi thứ đều kêu thét trong lặng im.
Cởi mũ ra,
tôi thấy tóc tôi chuyển bạc từ từ.
Và chính tôi
như tiếng kêu nghẹn ngào vang mãi
bay trên ngàn vạn nấm mồ.
Tôi chính là
mỗi người già bị xử bắn nằm đây.
Tôi chính là
mỗi em bé bị bắn chết nằm đây.
Không cái gì
trong tôi sẽ lãng quên ngay chuyện đó!
Hãy vang lên bài “Quốc tế ca”,
khi người bài Do thái cuối cùng trên trái đất này
sẽ được chôn vĩnh viễn ở đây.
Trong dòng máu của tôi
không có giọt nào dân Do thái.
Nhưng tất cả những người bài Do thái,
đều hận tôi với nỗi hận thâm căn,
họ coi tôi là dân Do thái
và còn bởi
tôi là người Nga chân chính!
Tháng Tám 1961
Kiep
Tùng Cương dịch
БАБИЙ ЯР
Над Бабьим Яром памятников нет.
Крутой обрыв,
как грубое надгробье.
Мне страшно.
Мне сегодня столько лет,
как самому еврейскому народу.
Мне кажется сейчас -
я иудей.
Вот я бреду по древнему Египту.
А вот я, на кресте распятый, гибну,
и до сих пор на мне - следы гвоздей.
Мне кажется что Дрейфут -
это я.
Мещанство -
мой доносчик и судья.
Я эа рещёткой.
Я попал в кольцо.
Затравленный,
оплеванный,
оболганный.
И дамочки с брюссельскими оборками,
Визжа, зонтами тычут мне в лицо.
Мне кажется -
я мальчик в Белостоке.
Кровь льётся растекаясь по полам.
Безчинствуют вожди трактирной стойки
и пахнут водкой с луком пополам.
Я, сапогом отброшенный, бессилен.
Напрасно я погромщиков молю.
Под гогот:
“Бей жидов спасай Россию!”
насилует лабазник мать мою.
О, русский мой народ !-
Я знаю -
по сущности интернационален.
Но часто те, чьи руки нечисты,
твоим чистейшим именем бряцали.
Я знаю доброту твоей земли.
Как подло,
Что, и жилочкой не дрогнув ,
антисемиты пышно нарекли
себя “Союзом русского народа”!
Мне кажется -
Я - это Анна Франк ,
Прозрачная,
как ветка в апреле.
И я люблю.
И мне не надо фраз.
Мне надо,
чтоб друг в друга мы смотрели.
Как мало можно видеть,
oбонять!
Нельзя нам листьев
и нельзя нам неба.
Но можно очень много -
это нежно
друг друга в тёмной комнате обнять.
Сюда идут?
Не бойся - это гулы
самой весны -
она сюда идёт.
Иди ко мне .
Дай мне скорее губы.
Ломают дверь?
Нет - это ледоход…
Над Бабьим Яром шелест диких трав.
Деревья смотрят грозно,
Посудейски.
Всё молча здесь кричит
И, шапку сняв,
я чувствую ,
как медленно седею.
И сам я,
как сплошной беззвучный крик
над тысячами тысяч погребенных.
Я -
каждый здесь расстрелянный старик.
Я -
каждый здесь расстрелянный ребёнок.
Ничто во мне про это не забудет!
“Интернационал”
пусть погремит,
когда навеки похоронен будет
последний на земле антисемит.
Еврейской крови нет в крови моей .
Но ненавистен злобой заскорузлой
я всем антисемитам,
как еврей ,
и потому -
я настоящий русский!
Август 1961
Киев
XIN CHIA TAY LÁ CỜ ĐỎ CỦA TA
Xin chia tay lá cờ đỏ của ta…
Từ trên tháp Kremli,
cờ bò xuống
không giống khi cờ được vác lên cao,
lụa thủng rách
dáng tự hào
khôn khéo
trong tiếng đạn nổ réo
liên hồi
trên nóc nhà Quốc hội Đức, khói lửa còn leo lét,
dù rằng ngay lúc đó
bám quanh cờ là đám gian manh.
Xin chia tay lá cờ đỏ của ta…
Cờ là anh em và kẻ thù của ta nữa.
Cờ là bạn đứng chung một chiến hào,
là hy vọng cả Châu Âu cùng chờ đợi,
nhưng như tấm bình phong đỏ chói,
cờ che đi bao nhà tù, bao trại tập trung,
bao thân phận khổ đau trong bộ áo tù nhân rách nát.
Xin chia tay lá cờ đỏ của ta.
Cờ hãy nghỉ đi,
hãy nằm chơi đây đã,
còn chúng ta sẽ giẫm nát
tất những ai không thể đứng dậy dưới mồ
Cờ đã dắt bao người bị lừa dối
vào lò sát sinh
vào cối xay thịt.
Nhưng cờ sẽ bị giẫm đạp
vì chính cờ cũng bị gạt lừa.
Xin chia tay lá cờ đỏ của ta.
Cờ không đem lại cho ta bất kì điều hay nào hết.
Cờ nhuốm máu
và chúng ta
dùng máu để cướp cờ về.
Đó là lí do vì sao giờ đây
nước mắt ta không thể rơi một giọt
cờ dã man đập vạt cờ đỏ quật mắt ta.
Xin chia tay lá cờ đỏ của ta…
Bước đầu tiên tới tự do, chúng ta bước
trong lòng giận dữ với chính cờ của ta,
ta căm giận chính ta
đã trở nên tàn độc trong tranh đấu.
Ước mong sao
Giưvagô không bị giập vùi thêm một lần nữa.
Xin chia tay lá cờ đỏ của ta…
Cờ hãy tự gỡ khỏi bàn tay lại đang xiết chặt cờ,
họ đe doạ một cuộc chiến tương tàn huynh đệ,
khi xông tới nắm cán cờ
là bầy trộm cướp,
hay những người đói rách
bị u mê trước những lời hoa mỹ tuyên truyền.
Xin chia tay lá cờ đỏ của ta…
Cờ sẽ trôi vào bao giấc mộng,
chỉ còn là một dải màu
trên lá cờ của Nga tam sắc.
Nằm trong tay dải trắng,
cùng với dải màu xanh
là dải đỏ, có thể, máu đã được gột sạch rồi.
Xin chia tay lá cờ đỏ của ta…
Ôi lá cờ tam sắc của ta,
Hãy cẩn thận đừng cho người đời dùng cờ để trộm cắp!
Không có lẽ, cả lá cờ tam sắc
cũng nhận cùng một mức án chung
khi đạn người ngoài cùng đạn người mình
đã bắn thủng làm cờ thành rách nát?
Xin chia tay lá cờ đỏ của ta…
Từ năm tháng ngây thơ, nhỏ tuổi,
ta chơi trò đánh trận hồng quân
và ta cho bạch vệ bao đòn đau.
Ta sinh ra ở đất nước
giờ phút này còn tồn tại nữa đâu.
Nhưng chính ở Átlantiđa đó,
ta từng có tình yêu,
ta từng sống.
Lá cờ đỏ của ta
đang bầy giữa chợ Izmailôvô, mở rộng
Họ bán tống cờ đi
để nhận về mấy tờ đô.
Tôi không đánh chiếm Cung điện Mùa Đông,
Tôi không tấn công nhà Quốc hội Đức.
Tôi không thuộc về “cộng gốc”.
Nhưng tôi vẫn vuốt ve cờ
và giờ tôi khóc chia tay.
22 tháng sáu 1992
Irkutxk
Tùng Cương dịch
Đỏ và Đen
EVGENHI EVTUSHENKO
Ở Brianshina có một ngôi làng nhỏ
xưa gọi theo tên cũ là làng Đen
rồi chính quyền dưới thời Lê nin
ra mệnh lệnh bắt đổi tên thành Đỏ.
Đang bay lượn con gì? Chim ưng đỏ.
Mũi dân say rượu củ cải đỏ rồi,
áo người làng thắm đỏ máu rơi,
nhưng chúng tôi không ai đỏ mặt vì xấu hổ.
Có phải cái giá của máu đổ
là say sưa khổ nhục trần đời,
nó cưỡng bức lịch sử của chúng tôi
được gọi cơn cuồng đổi tên tất cả.
Giờ, tôi đang ở làng Đỏ.
Ở đây vui vẻ ít thôi,
nhưng tôi thấy buồn cả người,
ngồi nhai dưa chuột kêu rau ráu.
Vẫn như trước, làng tối đen, tối quá,
trong cửa hàng, người làng, toàn là thứ ăn vay,
người là người của thế giới thứ ba.
Chúng ta là thế giới thứ tư. Từ thứ ba – ta rớt hạng.
Đã đổ xụp xuống cái bệ đỡ
cho tượng xe tam mã phóng nhanh như chim của Gôgôn,
cũng đổ nghả đổ nghiêng
đám tượng ngựa đang bị đói.
Làng Đỏ suốt ngày huyên náo
đàn ngỗng nháo nhác, gầy còm,
ngồi ghế dài, chuyện trò lai rai
là mấy mẹ, mấy bà đầu bạc trắng.
Đầu họ một màu tóc trắng
nỗi đau dai dẳng, dằng dai.
“Chuyển lời cho Matxcơva nhé, con ơi
tất cả dân làng bị bỏ rơi hồi bé,
đã bỏ sức vào nơi hầm mỏ
vậy mà ai đó ở trung ương về
cuỗm sạch tiền than chuồn đi đâu.
Gửi tặng cho làng đây, từ Mỹ,
tiền cứu tế, giúp dân.
Hỏi tiền nhân đạo đâu rồi?
Tiền đã hoá thành phân chuồng hết.
Thôi được, dân làng sẽ khắc vượt
tiền gửi là tiền nước ngoài,
nhưng nửa năm trời, đợi hoài
đồng tiền của ta là giấy lộn (tiền gỗ).
Quê hương đâu có là mẹ.
Quê hương chỉ đáng hạng con.
Chuyện trên biết hiểu ra sao?
Với người ở đây, vùng đồi nhỏ.
Nghĩa là cuộc chơi vô bổ
lấy đỏ thay cho tên đen?
Theo mưu điều ác, nên khắp nơi,
ở đâu cũng lòi cái đen tối.
Có thể chính tôi là một phần tội lỗi?
Đã sống quen xu nịnh, quen hèn?
Làm sao còn dám nhìn mặt các mẹ, các bà đây,
các bà mẹ già nua, đầu bạc trắng
xấu hổ ghê, xấu hổ lắm
mà đường đi cấm chẳng thấy đâu.
Chính người làng đã bị bỏ rơi,
nhà nào cũng họ Matrenhin,
vẫn nghe tiếng lương hưu của họ
đang quay tít vòng trong nhà băng đấy.
Chính người làng đã đè nén nhau
không tiên đoán được điều gì, ngoài tối đen,
xuyên qua lớp đất đồi đỏ ngoèn, lép nhép
chui lên chỉ thấy tối đen, tối quá.
Không thể làm ngơ đâu, Brianshina ơi,
kiểu lao dịch nào theo sắc màu,
và nếu họ lại chơi ba màu sắc
thì đấy đúng là điềm gở chắc.
Lịch sử mà lặp lại là nguy nan.
Thì từ xưa, sách vở vẫn nói luôn:
“Trên đầu ta, nỗi nhục tam sắc
phơ phất lá cờ đói nghèo”.
(Lời trích rút từ G.Ađammôvich
như vết thương xưa nhức nhối đau.
Nước Nga lại thấy bóng đêm trước rạng đông.
Liệu có ngày, một sâu rượu, tay không,
ở cái làng đã đổi tên Tam sắc
vẫn không chịu đọc Đgioixơ dù bị tra tấn.
Bọn nhíp chào đón hả hê
nhạc pôp xanh - đỏ -nâu,
thôi chẳng kiếm tìm mua Bêlinxky và Gôgôn nữa,
chỉ tha chở về toàn Marinhina cả.
Bằng gót chân, cảm nhận có cục nghẹn chặn ngang
của quê hương đất mẹ đã gắn bó thân quen,
tôi đem chiếu cho đám cao bồi ở Ôklahôma xem đấy
phim “Đàn sếu bay qua”, tôi thấy phát khóc.
Mọi việc đã làm đều không phải mưu mô,
mà chính là thất bại của ngay chúng ta,
khiến ta cảm giác ông Xakharôp
chưa hề sống ở nước Nga nữa.
I xaievich là bậc kỳ tài
mà chịu cảnh làm người ngoài ở ngay nước mình.
Xtalin thì từ lâu đã chết
lại hiện hữu hơn Xôngienhisưn đang sống.
Phải chăng tất cả những người tử vì đạo của ta
đều ngây thơ chết trong cuộc đấu tranh
và chúng ta không cần cho ai cả
mà tôi nghĩ, chính ta chả cần ta nữa.
Đành cam phận, ta sống vui vẻ, nhát hèn,
chính ta phản bội một điều lớn lao.
Ta đã đặt mọi thứ vào tên “đỏ”,
hoá ra tất cả chỉ là “đen tối”.
Tùng Cương dịch