Nguyễn Ngọc Kiên dịch thơ
Mạnh Giao 孟郊 (751-814) tự Đông Dã 東野, người Vũ Khang, Hồ Châu (nay là huyện Vũ Khang, tỉnh Chiết Giang) thời Trung Đường, cùng thời với Bạch Cư Dị, Hàn Dũ, Giả Đảo, Thường Kiến, Thôi Hộ... Ông công danh khá lận đận, đi thi nhiều lần không đỗ, mãi đến năm 46 tuổi mới đỗ tiến sĩ và năm 50 tuổi mới được bổ làm huyện uý Lật Dương (tỉnh Giang Tô), một chức quan nhỏ mà ông không màng tha thiết. Cảnh nhà nghèo túng quẫn, cuộc đời không lấy gì vui, nên thơ của ông thường châm biếm chê bai giới quý tộc quan liêu, lột tả nỗi niềm ta oán của giới trí thức không gặp thời như cảnh ngộ của ông, hoặc nỗi bất công của những người dân nghèo lao động tay lấm chân bùn.
Tác phẩm của ông còn lưu truyền cho hậu thế là Mạnh Đông Dã gồm 2 quyển. Thơ của ông gồm khoảng hơn bốn trăm bài nhạc phủ và cổ thi…
Theo thivien.net
欲別牽郎衣,
郎今到何處。
不恨歸來遲,
莫向臨邛去。
Phiên âm:
CỔ BIỆT LI
Dục biệt khiên lang y,
Lang kim đáo hà xứ.
Bất hận quy lai trì,
Mạc hướng khứ.
Dịch nghĩa:
BIỆT LI XƯA
Sắp chia tay, níu áo chàng,
(Hỏi) chàng giờ đi đến nơi nào.
Em không giận anh về muộn,
(Chỉ xin chàng) đừng đi đến đất Lâm Cùng.
Dịch thơ:
BIỆT LI XƯA
Lúc chia tay níu áo chàng
Hỏi chàng giờ sắp đi sang nơi nào?
Về muộn nàng chẳng giận sao,
Lâm Cùng đất ấy chớ vào chàng ơi!
颯颯秋風生,
愁人怨離別。
含情兩相向,
欲語氣先咽。
心曲千萬端,
悲來卻難說。
別後惟所思,
天涯共明月。
Phiên âm:
CỔ OÁN BIỆT
Táp táp thu phong sinh,
Sầu nhân oán ly biệt.
Hàm tình lưỡng tương hướng,
Dục ngữ khí tiên yết.
Tâm khúc thiên vạn đoan,
Bi lai khước nan thuyết.
Biệt hậu duy sở tư,
Thiên nhai cộng minh nguyệt.
Dịch nghĩa:
NÔI OÁN BIỆT LI XƯA
Gió thu nổi gấp gấp
Người buồn oán hờn vì ly biệt.
Chan chứa tình khi đối diện nhau,
Muốn nói đã nghẹn lời.
Lòng cuộn ngàn muôn mối,
Buồn khổ mà khó nói thành lời.
Chia tay rồi chỉ còn nỗi nhớ,
Hai phương trời cùng chung một ánh trăng.
Trong "100 bài thơ tình Trung Hoa" có ghi bài này của tác giả Trương Tịch, nhưng trong các tài liệu của Trung Quốc, bao gồm cả "Toàn Đường thi", đều ghi bài thơ này của Mạnh Giao, còn có tên "Cổ biệt khúc".
Dịch nghĩa:
NÔI OÁN BIỆT LI XƯA
Gió thu thổi thê thiết
Người buồn oán li biệt
Nhìn nhau tình chứa chan
Mà nghẹn ngào khôn xiết
Lòng trăm mối tơ vò
Nói sao lúc li biệt
Chia tay lòng nhớ nhung.
Chỉ chung vầng trăng khuyết.
慈母手中線,
遊子身上衣。
臨行密密縫,
意恐遲遲歸。
誰言寸草心,
報得三春暉。
Phiên âm:
DU TỬ NGÂM
Từ mẫu thủ trung tuyến,
Du tử thân thượng y.
Lâm hành mật mật phùng,
Ý khủng trì trì quy.
Thuỳ ngôn thốn thảo tâm,
Báo đắc .
Dịch nghĩa:
KHÚC NGÂM CỦA ĐỨA CON ĐI XA
Sợi chỉ trong tay mẹ hiền,
Nay đang ở trên áo người đi xa.
Lúc mới lên đường, mẹ khâu kỹ càng,
Có ý sợ con chậm trễ trở về.
Ai dám nói rằng tấm lòng của một tấc cỏ,
Lại có thể báo đáp được ánh nắng của ba xuân?
Dịch thơ:
KHÚC NGÂM CỦA ĐỨA CON ĐI XA
Mẹ hiền sợi chỉ trong tay
Đang mang trên áo con nay xa rồi
Lên đường khâu kĩ con ơi
Sợ con về trễ mẹ thời lo âu
Dám rằng một tấc cỏ rầu
Làm sao báo đáp nắng đầu ba xuân!
昔日齷齪不足誇,
今朝放蕩思無涯。
春風得意馬蹄疾,
一日看盡長安花。
Phiên âm:
ĐĂNG KHOA HẬU
Tích nhật ác xúc bất túc khoa,
Kim triêu phóng đãng tứ vô nhai.
Xuân phong đắc ý mã đề tật,
Nhất nhật khán tận Trường An hoa.
Dịch nghĩa:
SAU KHI THI ĐỖ
Ngày trước biết bao cay đắng không sao nói hết,
Sáng nay ưu phiền tan biến, tâm tư không còn gì câu thúc.
Ngọn gió xuân mát rượi, leo lên ngựa phóng đi,
Trong ngày đi xem tất cả các vườn hoa trong Trường An.
Tác giả thi hỏng 2 lần, lần thứ 3 năm 796 đỗ tiến sĩ.
Dịch thơ:
SAU KHI THI ĐỖ
Cay đắng ngày xưa chẳng nói ra
Sáng nay thỏa chí nức lòng ta
Gió xuân rười rượi lên phi ngựa
Ngày ở Trường An xem hết hoa
蓮子不可得,
蓮花生水中。
猶勝道傍柳,
無事蕩東風。
Phiên âm:
Hí tặng Lục đại phu thập nhị trượng kỳ 1
Liên tử bất khả đắc,
Liên hoa sinh thuỷ trung.
Do thắng đạo bàng liễu,
Vô sự đãng đông phong.
Dịch nghĩa:
BỠN TẶNG ĐAI PHU HỌ LỤC THỨ MƯỜI HAI KÌ 1
Quả sen không lấy được,
Dù hoa sen trong nước mọc ra.
Còn hơn hoa liễu bên đường,
Cứ vô tư lay động trong gió đông.
Tiêu đề có bản chép thêm hai chữ “Nhạc phủ” ở trước. Lục đại phu thập nhị trượng tức Lục Trường Nguyên (?-799), tự Vịnh, quê Ngô Quận, là cháu nội của Lục Dư Khánh - cả hai được ghi tiểu sử trong Đường thư.
Lục Trường Nguyện đáp lại bài này:
Phù dung sơ xuất thuỷ,
Hạm đạm lộ trung hoa.
Phong xuy trước khô mộc,
Vô nại trị không tra.
Nguồn: Toàn Đường tuyệt cú tuyển thích, Lý Trường Lộ, Bắc Kinh xuất bản xã, 1995
Dịch thơ:
BỠN TẶNG ĐAI PHU HỌ LỤC THỨ MƯỜI HAI KÌ 1
Quả sen ngon mà không lấy được
Dù hoa sen trong nước trồi ra
Hơn bên đường liễu những hoa
Vô tư lay động trước là gió đông.
蓮葉未開時,
苦心終日卷。
春水徒蕩漾,
荷花未開展。
Phiên âm:
Hí tặng Lục đại phu thập nhị trượng kỳ 3
Liên diệp vị khai thì,
Khổ tâm chung nhật quyển.
Xuân thuỷ đồ đãng dạng,
Hà hoa vị khai triển.
Dịch nghĩa:
BỠN TẶNG ĐAI PHU HỌ LỤC THỨ MƯỜI HAI KÌ 3
Lá sen lúc chưa mở,
Cả ngày khổ tâm vì bị cuốn lại.
Nước xuân nổi sóng,
Mà hoa sen vẫn chưa nở.
Nguồn: Toàn Đường tuyệt cú tuyển thích, Lý Trường Lộ, Bắc Kinh xuất bản xã, 1995
Dịch thơ:
BỠN TẶNG ĐẠI PHU HỌ LỤC THỨ MƯỜI HAI KÌ 3
Lá sen lúc chưa mở,
Ngày khổ tâm bị cuốn.
Nước xuân đã nổi sóng,
Mà sen vẫn chưa nở
梧桐相待老,
鴛鴦會雙死。
貞女貴徇夫,
舍生亦如此。
波瀾誓不起,
妾心井中水。
Phiên âm:
LIỆT NỮ THÁO
Ngô đồng tương đãi lão,
Uyên ương hội song tử.
Trinh phụ quý tuẫn phu,
Xả sinh diệc như thử.
Ba lan thệ bất khởi,
Thiếp tâm tỉnh trung thuỷ.
Dịch nghĩa:
TIẾT THÁO CỦA NGƯỜI LIỆT NỮ
Cây ngô đồng chờ đợi nhau đến già.
Chim uyên ương chết cũng chung đôi.
Người trinh phụ quý trọng việc chết theo chồng,
Cũng có thể hy sinh mạng sống của mình như thế.
Thề rằng lòng em không nổi sóng,
Cũng như nước trong giếng kia.
Dịch thơ:
TIẾT THÁO CỦA NGƯỜI LIỆT NỮ
Ngô đồng đợi nhau đến già
Uyên ương đến chết cũng là chung đôi
Trinh phụ đến chết chẳng rời
Theo chồng đến thế thì thôi quên mình
Lòng em chẳng nổi sóng duềnh
Cũng như nước mát trong lành giếng khơi!
河邊織女星,
河畔牽牛郎。
未得渡清淺,
相對遙相望。
Phiên âm:
CỔ Ý
Hà biên Chức Nữ tinh,
Hà bạn khiên Ngưu Lang.
Vị đắc độ thanh thiển,
Tương đối dao tương vọng.
Dịch nghĩa:
Ý XƯA
Chức Nữ ở bên này bờ sông,
Ngưu Lang bị dẫn dắt ở bờ bên kia.
Họ chưa qua được dòng sông trong và cạn này,
Tương đối, họ phải ngóng nhau từ khá xa.
Dịch thơ:
Ý XƯA
Chức Nữ ở bên kia sông
Ngưu Lang bị dẫn mà trông bên này.
Họ chưa qua được sông gầy
Tương đối họ phải từ rày ngóng nhau!