Lý Hạ - 李賀 (Quỷ Thi Lý Hạ)
THƠ LÍ HẠ
Nguyễn Ngọc Kiên dịch thơ
蝴蝶舞
楊花撲帳春雲熱,
龜甲屏風醉眼纈。
東家蝴蝶西家飛,
白騎少年今日歸。
PHIÊN ÂM:
HỒ ĐIỆP VŨ
Dương hoa phác trướng xuân vân nhiệt,
Quy giáp bình phong tuý nhãn hiệt.
Đông gia hồ điệp tây gia phi,
Bạch kỵ thiếu niên kim nhật quy.
Dịch nghĩa:
BƯƠM BƯỚM MÚA
Hoa liễu phất phơ ngoài rèm, những đám mây xuân ấm bay tới,
Trước bình phong ghép bằng mai rùa, nhạt nhoà nước mắt.
Đàn bướm ở nhà bên đông bay qua nhà bên tây,
Hôm nay, chàng trẻ tuổi cưỡi ngựa trắng trở về.
DỊCH THƠ:
BƯƠM BƯỚM MÚA
Mây ấm bay liễu hoa phơ phất
Trước bình phong nước mắt nhạt nhòa
Nhà đông đàn bướm tây qua
Chàng cưỡi ngựa trắng về nhà hôm nay.
馬詩其四
此馬非凡馬,
房星本是星。
向前敲瘦骨,
猶自帶銅聲。
PHIÊN ÂM
MÃ THI KÌ 4
Thử mã phi phàm mã,
Phòng tinh bản thị tinh.
Hướng tiền xao sấu cốt,
Do tự đới đồng thanh.
DỊCH NGHĨA:
THƠ VỀ NGỰA
Ngựa này không giống ngựa trong cõi trần gian,
Nó nguyên là sao Nhân Mã trên trời bị giáng xuống.
Cứ đứng trước nó mà gõ vào xương nhỏ nhắn của nó,
Sẽ nghe thấy tiếng đồng phát ra tự chỗ ấy.
DỊCH THƠ:
THƠ VỀ NGỰA (KÌ 4)
Ngựa này chẳng giống ngựa nhân gian
Nhân Mã sao trời giáng xuống trần
Cứ gõ vào bộ xương nhỏ nhắn
Tiếng đồng phát ra như tự thân
Lý Hạ sinh năm Canh Ngọ (740), cầm tinh con ngựa, nên thơ vịnh ngựa của ông ngụ ý vịnh chính đời ông. Ông dòng dõi Trịnh vương là tôn thất đương triều, khi còn nhỏ tuổi nhưng tài văn thơ đã sớm nổi tiếng, hiềm vì tên cha của ông lại trùng với huý của vua đang chấp chánh, nên ông không được thi tiến sĩ. Cha mất sớm, gia cảnh nghèo túng khiến ông phẫn chí, nên mượn thơ để ký thác tâm sự của mình.
馬詩其五
大漠沙如雪,
燕山月似鉤。
何當金絡腦,
快走踏清秋?
PHIÊN ÂM:
MÃ THI KÌ 5
Đại mạc sa như tuyết,
Yên sơn nguyệt tự câu.
Hà đương kim lạc não,
Khoái tẩu đạp thanh thu?
DỊCH NGHĨA:
THƠ VỀ NGỰA (KÌ 5)
Sa mạc mênh mông đầy cát trắng như tuyết,
Trăng hình móc câu trên núi Yên Nhiên.
Đến bao giờ mới được đeo cái rọ mõm thếp vàng,
Và được phi nhanh trong cảnh trời quang mây tạnh?
DỊCH THƠ:
THƠ VỀ NGỰA (KÌ 5)
Sa mạc mênh mông cát tựa tuyết
Hình móc câu bóng nguyệt Yên Sơn
Bao giờ mới rọ thếp vàng
Phi nhanh trong cảnh trời quang mây nhàn.
Tác giả tả cảnh sa mạc cát trắng mênh mông vùng biên giới tây bắc ngụ ý mong được vẫy vùng thoả chí và hình ảnh trăng lưỡi liềm treo trên núi Yên Nhiên ngụ ý mong được tin dùng để lập chiến công.
馬詩其六
飢臥骨查牙,
粗毛刺破花。
鬣焦朱色落,
髮斷鋸長麻。
PHIÊN ÂM:
MÃ THI KÌ 6
Cơ ngoạ cốt tra nha,
Thô mao thích phá hoa.
Liệp tiêu chu sắc lạc,
Phát đoạn cứ trường ma.
DỊCH NGHĨA:
THƠ VỀ NGỰA (KÌ 6)
Đói quá nên ngã lăn ra, các đầu xương nhô lên cao,
Bộ lông thô kệch mất hẳn các hoa văn.
Lông bờm trên gáy đỏ ánh như lửa đã rụng,
Lông bờm trên trán như cỏ đay cao bị xén bớt.
DỊCH THƠ:
THƠ VỀ NGỰA (KÌ 6)
Đói ngã lăn ra xương nhô cao
Hoa văn chẳng thấy như thuở nào
Lông bờm đỏ rực như lửa rụng
Trên trán như cỏ bị xén cao.
Bài này ngụ ý tả nếp sống cơ cực tác giả đang phải chịu đựng.
馬詩其七
西母酒將闌,
東王飯已乾。
君王若燕去,
誰為拽車轅。
PHIÊN ÂM:
MÃ THI KÌ 7
Tây Mẫu tửu tương lan,
Đông vương phạn dĩ can.
Quân vương nhược yến khứ,
Thuỳ vị duệ xa viên.
DỊCH NGHĨA:
THƠ VỀ NGỰA (KÌ 7)
Tiệc rượu của Tây Vương Mẫu ban đã sắp tàn,
Mâm cơm của vua phương đông dùng đã vơi.
Nếu hoàng thượng muốn đến đó kịp dự tiệc,
Thì ngựa nào đủ sức để kéo đoàn xe lên cõi tiên?
DỊCH THƠ:
THƠ VỀ NGỰA (KÌ 7)
Tiệc rượu Tây Vương Mẫu sắp tàn
Vua phương Đông mâm cơm sắp tan
Thượng hoàng nếu muốn lên dự tiệc
Ngựa có đủ sức kéo cả đoàn?
馬詩其十
催榜渡烏江,
神騅泣嚮風。
君王今解劍,
何處逐英雄。
MÃ THI KÌ 10
Thôi bảng độ Ô Giang,
Thần truy khấp hướng phong.
Quân vương kim giải kiếm,
Hà xứ trục anh hùng.
Dịch nghĩa:
THƠ VỀ NGỰA (KÌ 10)
Giục đẩy thuyền qua sông Ô Giang
Con ngựa thần truy hướng về ngọn gió mà khóc
Quân vương nay đã cởi kiếm
Còn biết đuổi theo anh hùng ở nơi nào ?
Dịch thơ:
THƠ VỀ NGỰA (KÌ 10)
Giục đẩy thuyền qua sông Ô
Ngựa thần truy hướng về mô khóc ròng
Quân vương nay cởi kiếm xong
Thử còn theo đuổi anh hùng nơi nao?
馬詩其十五
不從桓公獵,
何能伏虎威。
一朝溝隴出,
看取拂雲飛。
MÃ THI KÌ 15
Bất tòng Hoàn Công liệp,
Hà năng phục hổ uy.
Nhất triêu câu lũng xuất,
Khán thủ phất vân phi.
Dịch nghĩa:
THƠ VỀ NGỰA (KÌ 15)
Không được theo Tề Hoàn Công đi săn,
Thì sao có đủ uy để đối đầu với hổ.
Sẽ có ngày, ta ra khỏi nơi ngòi nhò gò thấp này,
Xoải vó phi nhanh như mây bay.
Dịch thơ:
THƠ VỀ NGỰA (KÌ 15)
Không theo Hoàn Công đi săn
Sao đủ uy đấu với hổ
Có ngày ra khỏi gò này
Phi nhanh như mây, vó xoải.
馬詩其十八
伯樂向前看,
旋毛在腹間。
只今掊白草,
何日驀青山?
MÃ THI KÌ 18
Bá Nhạc hướng tiền khan,
Toàn mao tại phúc gian.
Chỉ kim bẫu bạch thảo,
Hà nhật mạch thanh san?
Dịch nghĩa:
THƠ VỀ NGỰA (KÌ 18)
Nếu Bá Nhạc đứng đằng trước,
Với cái xoáy ở bụng.
Ngặt cái là nay cỏ khô ta còn bị lấy bớt,
Thì tới ngày nào mới vượt rặng núi xanh?
DỊCH THƠ:
THƠ VỀ NGỰA (KÌ 18)
Nếu Bá Nhạc đứng trước
Với cái xoáy trước mình
Cỏ khô còn lấy bớt
Bao giờ vượt núi xanh?
馬詩其二十二
汗血到王家,
隨鸞撼玉珂。
少君騎海上,
人見是青騾。
MÃ THI KÌ 22
Hãn huyết đáo vương gia,
Tuỳ loan hám ngọc kha.
Thiếu Quân kỵ hải thượng,
Nhân kiến thị thanh la.
DỊCH NGHĨA:
THƠ VỀ NGỰA
Hãn huyết đến vương gia,
Chuông hàm rung ngọc kha.
Thiếu quân cưỡi trên biển,
Trông có khác gì thanh la.
DỊCH THƠ:
THƠ VỀ NGỰA
Hãn huyết tới vương gia,
Chuông hàm rung ngọc kha.
Thiếu quân cưỡi trên biển,
Trông đích thị thanh la.
馬詩其二十三
武帝愛神仙,
燒金得紫煙。
廄中皆肉馬,
不解上青天。
PHIÊN ÂM
MÃ THI KÌ 23
Vũ Đế ái thần tiên,
Thiêu kim đắc tử yên.
Cứu trung giai nhục mã,
Bất giải thướng thanh thiên.
DỊCH NGHĨA:
THƠ VỀ NGỰA (KÌ 23)
Hán Vũ Đế ái mộ thần tiên,
Đốt tiền vàng nhưng được đám khói màu tím.
Trong chuồng ngựa chỉ toàn là ngựa thịt,
Không con nào bay lên trời được.
Dịch thơ:
THƠ VỀ NGỰA (KÌ 23)
Hán Vũ mộ thần tiên
Đốt tiền khói màu kim
Trong chuồng toàn ngựa thịt
Chẳng con nào bay lên
Bài này mượn Hán Vũ Đế để châm biếm việc vua đương thời mê tín.
莫種樹
園中莫種樹,
種樹四時愁。
獨睡南床月,
今秋似去秋。
PHIÊN ÂM:
MẠC CHỦNG THỤ
Viên trung mạc chủng thụ,
Chủng thụ tứ thì sầu.
Độc thuỵ nam sàng nguyệt,
Kim thu tự khứ thu.
Dịch nghĩa:
ĐỪNG TRỒNG CÂY
Trong vườn chớ trồng cây,
Trồng cây bốn mùa sẽ buồn bã.
Một mình ngủ ở giường phía nam dưới ánh trăng,
Thu năm nay không khác gì thu năm ngoái.
Dịch thơ:
ĐỪNG TRỒNG CÂY
Trong vườn chớ có trồng cây
Bốn mùa buồn bã hao gầy biết chăng
Ngủ giường nam dưới ánh trăng
Thu nay đã khác có bằng thu xưa?
走馬引
我有辭鄉劍,
玉鋒堪截雲。
襄陽走馬客,
意氣自生春。
朝嫌劍花淨,
暮嫌劍光冷。
能持劍向人,
不解持照身。
PHIÊN ÂM
TẨU MÃ DẪN
Ngã hữu từ hương kiếm,
Ngọc phong kham tiệt vân.
Tương Dương tẩu mã khách,
Ý khí tự sinh xuân.
Triêu hiềm kiếm hoa tịnh,
Mộ hiềm kiếm quang lãnh.
Năng trì kiếm hướng nhân,
Bất giải trì chiếu thân.
DỊCH NGHĨA:
BÀI HÁT CƯỠI NGỰA HAY
Ta có thanh gươm khi rời bỏ quê hương
Mũi gươm sáng như ngọc có thể cắt đứt cả mây
(Ta như) người cưỡi ngựa chạy ở thành Tương Dương
Ý khí phơi phới như mùa xuân
Buổi sáng không vừa ý vì ánh sáng hoa văn thanh gươm tĩnh lặng
Buổi chiều không vừa ý vì ánh sáng thanh gươm lạnh lẽo
(Ta chỉ) có thể giữ thanh gươm chiếu sáng cho người khác
Chứ không biết giữ thanh gươm chiếu sáng cho chính mình.
DỊCH THƠ:
BÀI HÁT CƯỠI NGỰA HAY
Mang gươm từ biệt quê hương
Mũi sáng như ngọc cắt dường đứt mây
Thành Tương Dương cưỡi ngựa bay
Ý khí phơi phới tràn đầy sắc xuân
Sáng không vừa ý hoa văn
Chiều chẳng vừa ý gươm can lạnh lùng
Gươm cho kẻ khác sáng cùng
Mà không giữ nổi sáng trong cho mình!
Theo Cổ kim chú thì điệu Tẩu mã dẫn do Ngưu Cung sáng tác. Ngưu Cung vì báo thù cha mà phải giết người. Ban đêm có ngựa từ trên trời giáng xuống, vây quanh ngôi nhà Cung mà hí. Ngưu Cung nghe, tưởng quan binh đến bắt, bèn bỏ trốn. Sáng ra thấy dấu chân ngựa, sung sướng tỉnh ngộ mà nói rằng: “Há là chỗ ta ở chăng? Nguy rồi vậy!”. Rồi mang lương thực quần áo trốn vào Nghi đàm, đánh đàn gõ trống giả như tiếng ngựa, mà làm ra điệu Tẩu mã dẫn.
夢天
老兔寒蟾泣天色,
雲樓半開壁斜白。
玉輪軋露濕團光,
鸞佩相逢桂香陌。
黃塵清水三山下,
更變千年如走馬。
遙望齊州九點煙,
一泓海水杯中瀉。
PHIÊN ÂM
MỘNG THIÊN
Lão thố hàn thiềm khấp thiên sắc,
Vân lâu bán khai Bích tà bạch.
Ngọc luân loát lộ thấp đoàn quang,
Loan bội tương phùng quế hương mạch.
Hoàng trần thanh thuỷ tam sơn hạ,
Canh biến thiên niên như tẩu mã.
Dao vọng Tề Châu cửu điểm yên,
Nhất hoằng hải thuỷ bôi trung tả.
DỊCH NGHĨA
MỘNG LÊN TRỜI
Sắc trời là nước mắt của thỏ già và cóc lạnh khóc,
Mây hé một nửa, sao Bích xiên xiên màu trắng.
Bánh xe ngọc đầy móc, làm ánh sáng phát ra như ẩm ướt,
Gặp tiên đeo ngọc hình loan trên con đường thơm hoa quế.
Dưới ba quả núi thần kia có cảnh bụi vàng nước trong,
Một canh trên mặt trăng bằng ngàn năm mau như ngựa phi.
Từ trên cao nhìn về Tề Châu, thấy chín điểm khói,
Nước một biển sâu đựng vừa trong một cái chén.
DỊCH THƠ
MỘNG LÊN TRỜI
Sắc trời – nước mắt thỏ già
Mây hé nửa, sao Bích ngà xiên xiên
Bánh xe đầy móc ở bên
Thơm mùi hoa quế gặp tiên trên đường
Dưới ba quả núi bụi vàng
Một canh như ngựa phi ngàn năm sau
Nhìn chín điểm khói Tề Châu
Biển khơi như rót đầy vào chén con!
|