Chương 8
Rời khỏi kinh thành
Nguyễn Trãi thấy lòng chua xót quá
Nghĩ tuổi già, thôn dã yên thân
Chỉ mong đi cuối đường trần
Trọn lòng cùng chúa, cùng dân, cùng nhà
Sớm lo lắng cung ngà lục viện
Thương Ngọc Dao quyền biến chưa thông
Hồn như viên ngọc trắng trong
Chưa vương màu đỏ, chưa lồng màu đen
Một đêm trăng bên đèn chợp mắt
Thấy tiên đồng khuông mặt xinh tươi
Mắt đen má thắm môi cười
Vâng lời Thượng Đế dạo chơi cõi trần
Xuống trái đất làm thân quyền quý
Bước vào đời cung hỉ Khánh Phương (45)
Giật mình tỉnh giấc hoàn lương
Ngọc Dao mừng rở đốt hương khẩn cầu
Trước Thượng Đế dập đầu khấn lạy
Phù hộ con, trẻ dại thơ ngây
Đưa con qua khỏi nạn tai
(720) Vượt bao nghịch cảnh, giúp Ngài thành công (46)
Quá sung sướng mở lòng bày giải
Cùng cung nhân kể lại mộng lành
Nghĩ rằng gió mát trăng thanh
Sẽ đem no ấm yên lành khắp nơi
Nàng nào biết tai khơi nạn mở
Tiếng đồn vang thấu ở cung đình
Thị Anh nghe nói giật mình
Sợ Hoàng Tử đổ, sợ tình mình nguy
Sanh quý tử Dao phi sẽ chiếm
Trọn lòng vua cùng tiếm uy quyền
Thế là muôn sự đảo điên
Phải tìm mọi cách cho thuyền không lay
Gọi khẩn cấp chân tay nhóm hoạn
Xước, Huệ, Đăng, Đình Thắng họp bàn (47)
Bày mưu tính kế rõ ràng
Ngọc Dao hãm hại Tử Hoàng ốm đau
Trước Đức vua nàng gào nàng khóc
Bảo Ngọc Dao tàn độc hơn người
Con tôi sắp chết đến nơi
(740) Cầu xin Thượng Đế cứu người nguy nan
Con tôi sống không màng ngôi báu
Không như người tàn bạo vô lương
Thánh hoàng xin nhủ lòng thương
Trả thù con trẻ, tan xương voi dày (48)
Được như thế lòng này mới thỏa
Để ngăn ngừa lòng dạ hiểm sâu
Những người bụng chứa gươm đao
Sợ không dám trổ tài cao hại người
Ngồi ngẫm nghĩ, nực cười nhân thế
Biết làm sao cội rễ nguồn cơn
Những người gây oán gây hờn
Lại là những kẻ kéo đờn kêu ca
Vua suy nghĩ chưa ra quyết định
Nguyễn Trãi đà suy tính thiệt hơn
Tãu trình xin chúa ghi ơn
Cứu tra suy xét nguồn cơn rõ ràng
Vua ra lệnh truyền ban thầy thuốc
Rán tận tình phục dược Bang Cơ
Nhân sâm cộng với thủ ô
(760) Uống vô sẽ hết dật dờ mê man
Nguyễn Trãi muốn luận bàn cùng vợ
Không thể nào để ở chung nhau
Phải đành ngừa trước tránh sau
Phải đem người yếu bôn đào xa xôi
Nguyễn thị Lộ cho người dẩn dắt
Đưa Ngọc Dao nẻo tắt đường ngang
Tránh xa cho khỏi Trường An
Đến chùa quy ẩn, hạt tràng lần xoay (49)
Thế Sạn đạo chờ ngày khởi phát (50)
Tránh cho nàng tan tác đời hoa
Lại còn vương thể ngọc ngà
Trui rèn thể chất chan hòa thương yêu
Tóc đã bạc lại nhiều nghiệp dĩ
Nguyễn Trãi mong về nghỉ Côn sơn
Từ nay ân nghĩa đã tròn
Mong vua cứu xét để còn suy tư
Vua khôn lớn biết hư biết thực
Biết Ức Trai đáng bậc tài ba
Mong người vui hưởng tuổi già
(780) Cho xây chùa Phật để mà tỉnh tu
Nhưng dặn kỷ khi vua cần triệu
Phải tức thời lên kiệu về cung
Mau mau hội kiến cữu trùng
Để cùng bàn việc chỉnh trung nước nhà
Nghe lời phán chan hòa cởi mở
Hoa sen lòng vội nở trong tim
Côn Sơn tùng cúc vẫn tìm
Về xây Tư Phúc, trọn niềm chờ mong (51)
Khi từ biệt Thái Tông căn dặn
Hẹn sang năm lo chuẩn kỳ thi
Là mùa Tiến sĩ chính quy
Nhân tài sẽ chọn đường đi lối về
Các bạn hữu tỉ tê đưa tiễn (52)
Cùng vợ hiền đến bến Phả Lai
Để rồi tay lại cầm tay
Bạn hiền, vợ mến chia hai nẻo đường
Ông tức cảnh ngâm vang một khúc (53)
Để tỏ lòng rạo rực chờ mong
Từ đây trở lại dòng sông
(800) Khơi đầy kỷ niệm, thỏa lòng cố nhân
Xin mời các bạn đón xem chương kế tiếp: Bí mật Thâm Cung
(45) Cung Khánh Phương là cung của Tiệp Dư Ngọc Dao
(46) mong sao con mình thành công trên bước đường dựng nước
(47) Nguyễn Thị Anh cùng nhóm hoạn quan tìm cách du cáo Ngọc Dao hảm hại Tử Hoàng
(48) Thị Anh xin vua xử tội voi dày Ngọc Dao
(49) Ngọc Dao trốn ở chùa Huy Vân
(50) Sạn Đạo, chỗ Lưu Ban dưỡng quân chờ thời
(51) Chùa Tư Phúc ở Côn Sơn, Nguyễn Trãi về tu bổ để nhà vua đến nghỉ ngơi
(52) Các bạn Lý Tử Tấn, Nguyễn Mộng Tuân, Phan Phu Tiên, Trần thuấn Du... cùng Nguyễn Thị Lộ đã tiễn đưa ông đến ngã ba sông Thiên Đức
(53) Bài ngâm của Nguyễn Trãi trước khi chia tay cùng bạn bè và Nguyễn Thị Lộ theo Truyện Nguyễn Trãi của Bùi văn Nguyên
Ngại ở nhân gian lưới trần
Thời nằm thôn dã miễn yên thân
Trúc mai chẳng phụ lòng quân tử
Viên hạc đà quen bạn dật dân
Hái cúc, ương lan, hương bén áo
Tìm mai, đạp nguyệt, tuyết xâm khăn
Đàn cầm suối, trong tay dõi
Còn một non xanh là cố nhân
Chương 9
Bí mật thâm cung
Nhắc lại mùa thu năm Tân Dậu
Khi sĩ phu theo dấu kinh thành
Quyết đem sức học tài danh
Cùng nhau dự thí để dành tiếng tâm
*
Cũng là lúc thanh âm vang dội
Nơi hoàng cung chói rọi đèn hoa
Lại nghe tiếng khóc oa oa
Bang Cơ Hoàng tử bước ra chào đời
*
Người sung sướng không lời tả được
Trong thâm cung nắm tước quyền cao
Thị Anh giữa chốn ngàn sao
Dự trù, mưu tính ngôi cao quyết dành
*
Theo thông lệ, Tạ Thanh tính đọc
Đếm từ ngày mưa mốc vua ban
Đến nay vừa sáu trăng tàn
Mĩm cười như biết rõ ràng từ đâu
*
Một cơ hội muôn màu muôn sắc
Bí mật nầy giữ chặt về sau
Biết đâu đúng trận mưa rào
(820) Quyền uy, gấm vóc ai vào đây tranh
*
Trong tâm trí hiện rành nẻo tiến
Đặt niềm tin trọn vẹn nơi người
Thoa vành môi thắm nụ cười
Một làn sương mỏng để đời không nghi
*
Rồi lẳng lặng tìm Phi diện kiến
Mừng Nương Nương vinh hiển hơn người
Bang Cơ mở mắt chào đời
Đem hào quang chiếu sáng ngời thâm cung
*
Hồi tưởng lại cuối xuân đêm ấy
Nhạc tưng bừng lộng lẩy xiêm y
Khoan thai điệu vũ Liên trì
Cánh hoa búp nở như ghì lấy thân
Đàn bướm lượn mưa vần mây vũ
Ly rượu nồng quyến rủ hồn say
Lại thêm môi thắm mày ngài
Đẩy đưa vào chốn mộng đài du xuân
*
Vua đắm đuối, non Tần mấy đỉnh
Chiếc thuyền rồng vào vịnh mê cung
Quyết theo sóng nhạc tưng bừng
(840) Trồi lên hụp xuống vẫy vùng dọc ngang
*
Nghe nhắc khéo mùa xuân mưa mốc
Thoáng giật mình cơn lốc nhẹ qua
Nhủ thầm ta phải lo xa
Thị Anh đâu dám dần dà lãng quên
*
Vội vã lấy bạc tiền nhung lụa
Cùng không quên lời hứa ngày sau
Hôm nay đùm bọc lẩn nhau
Ngày mai quyền quý sang giàu xẻ chia
*
Chuyện sổ sách sớm khuya tu chỉnh
Để trong ngoài trước tỉnh sau yên
Mới mong giữ vững mối giềng
Trăng xưa nở nụ cười duyên với đời
*
Quay trở lại khung trời thơ mộng
Đóa hải đường cánh mỏng còn khoe
Sắc tươi nhựa sống tràn trề
Hương theo gió thoảng làm mê muội lòng
*
Bao công tử tình phong tánh nguyệt
Loại bướm ong mải miết đùa hoa
Bay vờn sớm tối lân la
(860) Những mong đem cái hào hoa dụ người
*
Trai phóng đảng giữa thời giao cảm
Lê Nguyên Sơn hơi hám hoàng gia
Tận dùng uy thế ông cha
Để câu danh lợi để lòa giai nhân
*
Lạ gì thói trai tân gái tiến
Chạy theo vòng vận chuyển thời gian
Sợ khi nhan sắc phai tàn
Men nồng chưa hưởng, cung đàn chưa nghe
Một buổi sáng mùa hè rực rở
Đóa hải đường hớn hở khoe hương
Trên đài đọng mấy giọt sương
Kim cương lấp lánh, đò thương bến tình
*
Trong ngày hội cúng đình huyên náo
Gái trai làng quần áo xôn xao
Phất phơ cánh bướm muôn màu
Nhởn nhơ tìm kiếm động đào trong mơ
*
Lê Nguyên Sơn tình cờ gặp gở
Nguyễn thị Anh mặt nở môi cười
Long lanh đôi mắt sáng ngời
(880) Má vừa thắm đỏ mộng đời muốn trao
*
Nàng đang đợi bóng giao cầu chuyển
Một con người quyền biến hào hoa
Trong tay uy thế con nhà
Phong lưu đúng mực, tài ba đúng tầm
*
Như hò hẹn từ trăm năm trước
Cùng ngẩn lên bốn mắt nhìn nhau
Thẹn thùng lẩn trốn trăng sao
Nhưng nguồn rung cảm xuyên vào tủy xương
*
Tiếng trống điểm đèn hương đảnh lễ
Kéo hồn về thực tế hôm nay
Bao mâm cổ cúng sẳn bày
Đàn nhi lễ sĩ sắp ngay thẳng hàng
*
Lễ tạ ơn đình thần linh hiển
Thánh địa nầy không suyển không suy
Cứu dân khỏi bước lâm nguy
Đưa dân đến chốn biên thùy phồn vinh
*
Sau buổi lễ thâm tình gắn bó
Rồi hẹn hò trăng tỏ vườn khuya
Sóng tình rào rạt song thưa
(900) Hòa cùng men rượu đẩy đưa bến bờ
*
Thuyền ân ái dật dờ bến lạ
Thói trăng hoa biết ngã phương nao
Tình theo sóng gió rạt rào
Đẩy đưa vào chốn mộng đào ước mơ
Chợt thức tỉnh, đến giờ đưa tiễn
Nguyễn Thị Anh trúng tuyển vào cung
Từ đây gặp hội vẫy vùng
Sau lưng bỏ lại gió rừng vi vu
*
Thuyền giữa bến âm u vắng vẻ
Bước lên xe pháo nổ cờ bay
Đi vào cung điện mơ say
Thấy như ánh sáng dệt ngày vinh quang
Xin mời các bạn nhớ đón xem kỳ tới Âm Mưu Thâm Ðộc
Chương 10
Âm mưu thâm độc
Trời vừa hé ánh quang mờ chiếu
Soi dịu dàng ngọn liểu cành dương
Lập lòe muôn hạt kim cương
Điểm tô phong cảnh ngàn sương gợi hồn
Giữa yên tỉnh sóng cồn nổi dậy
Cung nhân buồn không thấy Ngọc Dao
Tưởng như biển động ba đào
(920) Lắc lư thuyền nhỏ tạt vào đảo hoang
Chưa thức tỉnh, hoạn quan bẩm cáo
Cánh chim non đã tháo sổ lồng
Từ nay vượt khỏi trời đông
Tìm đâu cho thấy cánh hồng bay xa
Thị Anh tức, hét la cay đắng
Ra lệnh tìm cho đặng Ngọc Dao
Một thân đơn độc tại đào
Nghĩ ra chắc có kẻ nào nhúng tay
Còn ai nữa Ức Trai ghê gớm
Một con người can đảm có thừa
Được lòng tin cậy đức vua
Lại thêm Thị Lộ chẳng vừa gì đâu
Trong với ngoài vừa khâu vừa khít
Họ cùng nhau chằng chịt giăng ta
Cũng may Nguyễn Trãi cáo già
Buồn lòng quay trở lại nhà Côn Sơn
Ta phải tính thiệt hơn cặn kẻ
Phải làm sao chia rẻ hai người
Phải cho Nguyễn Trãi hận đời
(940) Rằng người yêu trẻ không rời đức vua
Vua đã thích đã ưa Thị Lộ
Đã dẫn nàng đến chổ mê cung
Từng đêm ngụp lặn vẫy vùng
Đã quên hết chuyện tôi trung vợ hiền
Tiếng đồn tránh không truyền đến chúa
Cố làm sao vây bủa Ức Trai
Để làm nhủng chí anh tài
Để gây xa cách chia hai nẻo đường
Nơi quê ngoại Côn Sơn lặng lẽ
Sống êm đềm trước vẻ thiên nhiên
Ngâm thơ thưởng nguyệt bên hiên
Viết văn đọc sách gởi niềm riêng tư
Một buổi sáng mùa thu lạnh lẽo
Nghe tiếng đồn từ nẻo kinh thành
Người thân tín của Tạ Thanh
Đã đem tin đến truyền nhanh khắp vùng
Nguyễn Trãi trước nhìn chung thời thế
Xét suy nhiều cội rể nguồn tin
Nếu theo quan điểm của mình
(960) Theo lòng trung hậu tính tình người yêu
Thì chuyện ấy đặt điều nói dối
Không thể nào phạm lỗi gia cang
Ác thay những tiếng đồn vang
Lay niềm tin tưởng, khơi ngàn khổ đau
Cảm thấy tiếc mái đầu tóc bạc
Tuổi thanh xuân đã lạc mất rồi
Niềm yêu, sức lực một thời
Chỉ còn giữ lại những lời tiễn đưa
Nhiều lúc muốn đội mưa lướt gió
Trở về kinh cho rõ ngọn ngành
Hỏi người tóc vẫn còn xanh
Có còn nhớ mảnh chiếu lành Triều Đông (54)
Nhưng không dám vì không được lệnh
Của đức vua triệu thỉnh về cung
Đành mang tâm sự lạnh lùng
Tỏ cùng sương sớm, bày cùng trăng khuya
Không chịu nỗi tình chia hai nẻo
Viết vài hàng nhắc khéo người yêu
Những khi nắng sớm mưa chiều
(980) Đôi vần thi họa chiếm nhiều tâm tư
Thuyền khuất bóng sương mù Đông Hãi (55)
Cánh chim trời sau giãi Nam Sơn
Cách chia vì bởi sóng cồn
Nhưng tình khắng khít keo sơn suốt đời
Dầu hiểu vậy một lời cũng hỏi
Sáng trưa chiều có đợi có trông
Có còn trở lại dòng sông
Để cùng ngắm ánh nắng hồng hoàng hôn
Lời thề nguyện Nam Sơn tồn tại
Câu hẹn hò Đông Hãi còn ghi
Lòng anh bất dịch bất di
Chắc nàng cũng chẳng có gì đổi thay ?
Nhận được thư vừa cay vừa thỏa
Cay vì chồng chẳng rỏ đục trong
Chưa chi bỏ lục thêm hồng
Đắng cay rồi lại tỏ lòng nghi nan
Vui vì biết tình chàng chẳng đổi
Vẫn yêu thương giận dỗi vì ghen
Xa nhau vì bởi ngọn đèn
(1000) Chớ đâu do bởi chuyện đen trắng lòng
Vội lấy bút viết dòng tâm sự
Để trả lời từng chữ từng câu
Những điều ý hợp tâm đầu
Những trang liệt nữ ghi sâu suốt đời
Vầng trăng khuyết, tình tôi không khuyết (56)
Sông dù vơi, ý thiếp không vơi
Hỏi ai đi suốt cuộc đời
Sao không thấu hiểu tình người chung chăn ?
Thế mới biết băn khoăn suy nghĩ
Là những khi định trí chưa xong
Cớ sao lòng chẳng hỏi lòng
Tình yêu chưa hẳn như dòng thời gian
Chàng đã đáp tình chan chứa mộng
Như bến yêu trải rộng sông dài
Lạ gì những chuyện ngoài tai
Vợ chàng chỉ nghĩ đến ngày đoàn viên
Xin các bạn nhớ đón xem phần 11 Thiền môn ẩn náu
(54) Đông Triều
(55) Trong bức thư của Nguyễn Trãi gởi cho Thị Lộ viết bằng Hán văn, trong quyển Tích Kháng đường phổ ký của chi họ Nguyễn Nhữ Soạn, anh em cùng cha khác mẹ của Nguyễn Trãi, do Vân Trình dịch, có những câu như sau :
Lời thề khắc Nam Sơn, sừng sững Nam Sơn còn đó
Lời nguyền ghi Đông Hãi, bao la Đông Hãi còn đây
Lòng ta đã không sờn
Chí nàng chắc không đổi
và
Trời cao đất thấp, bốn mùa thành,
Đáng trách ai kia đạo chẳng minh
Mặt kính tuy trong bụi đã nhiểm
Lòng nhân vừa nhóm, dục còn ganh
Đời Chu bắt chước lòng trung hậu
Thuở Hán nên theo nghĩa trọn tình
May gặp trời, người cung giúp rập
Kìa xem xã tắc lại xuân sinh
(56) Bức thư trả lời của Nguyễn Thị Lộ cho Nguyễn Trãi viết bằng Hán văn, cũng do Vân Trình dịch, gồm những câu chánh sau đây :
Mói tình muộn màng nào quên,, núi tuy khuyết mà lòng thiếp không khuyết
Lời thề đinh ninh khó nhạt, sông dù vơi mà ý thiếp không vơi
Còn gì liệu đáng băn khoăn
Phải chăng tự mình chuốc lấy....
và
Lòng son khẩn khoản việc mau thành
Ai bảo cương thường đạo chẳng minh !
Ngày nắng lo chi mây chút gợn
Cây cao há phụ sắn bìm tranh
Anh hùng gắng sức anh hùng chí
Phận gái đào tơ, phận gái tình
Phúc đượm duyên trời cầm sắt hợp
Nguyện sinh con cháu thánh hiền sinh...
Chương 11
Thiền môn ẩn náu
Ngôi chùa thấp, khuôn viên nho nhỏ
Sống quạnh hiu, sớm mỏ chiều kinh
Sư cô, sư tiểu chí tình
(1020) Một đem kinh Phật, luyện mình răn nhau
Hai cùng phải tưới rau trồng trọt
Bao nhiêu ngày mặn ngọt muối dưa
Dọn cây, phát cỏ, sơn chùa
Tạo nơi thờ Phật, nương nhờ thập phương
Một buởi sớm mùa đông Tân Dậu
Vầng Thái Dương còn dấu chưa lên
Xa xa mờ thấy ngọn đèn
Bóng người thấp thoáng đến bên hiên chùa
Vào tận cổng trình thưa sư nữ
Người đàn bà, mệnh phụ nghiêm trang
Bảo cùng hai cháu lỡ đàng
Xin nhờ cửa Phật náu nương đôi ngày
Rồi nhỏ nhẹ trình hai cháu gái
Một hiền từ sắc thái đoan trang
Nghe trong tiếng nói dịu dàng
Vươn niềm hy vọng chức chan thâm tình
Nét mệt mỏi hiện rành trên mặt
Đi khó khăn, phảng phất mang thai
Thoáng buồn nhưng chẳng nhạt phai
(1040) Ít lời nhưng lại làm ai ấm lòng
Người kế đến mặt trông từa tựa
Khuôn viên đầy, hương lửa đã qua
Đúng là chị biết lo xa
Theo em để giúp việc nhà êm xuôi
Người đứng tuổi thốt lời căn dặn
Bạch Sư thầy, may mắn nhờ ơn
Xin Thầy cứu giúp qua cơn
Giữ gìn tuyệt đối không đờn không dây
Khi qua khỏi những ngày cơ ngặt
Trở về đây để dắt cháu đi
Gởi Thầy nén bạc khắc ghi
Công kia biết lấy được gì đền ơn
Nơi cửa Phật không còn nghĩ tới
Phúc đức nào dám đợi dám trông
Nhà chùa chỉ biết tấm lòng
Cầu mong thí chủ khỏi vòng tai ương
Con xin phép cúng dường Đức Phật
Mua đèn nhang sáng thắp chiều chong
Đêm đêm nung đúc cõi lòng
(1060) Giữ tròn đức hạnh bên trong bên ngoài
Người thiếu phụ, ngoài ai ...Thị Lộ
Hai cháu ngoan chứng tỏ Ngọc Dao
Ngọc Xuân theo bước bôn đào
Cùng em gắng chịu mưa rào gió giông
Thương phận liễu mùa đông gió lạnh
Chốn thiền môn trốn tránh ba đào
Thỉnh cầu sư nữ chí cao
Nhũ lòng cho phép cánh đào về đây
Nàng theo nếp, vui vầy kinh kệ
Áo nâu sòng sớm thệ chiều tu
Ngọc Dao trong lớp sương mù
Đã quên kiếp sống nhàn du kinh thành
Quên tất cả, chỉ dành tâm tưởng
Một cõi lòng chẳng vướng đam mê
Ân sâu đức nặng, câu thề
Lo tròn đạo cả, vẹn bề nghĩa nhân
Cùng nung đúc tinh thần chịu đựng
Trong gian nan giữ vững niềm tin
Đối nhau bằng một chữ tình
(1080) Đừng bao giờ nghĩ đến mình mà thôi
Nàng còn muốn kim tôi lửa luyện
Từ bào thai đang chuyển vào đời
Đứa con yêu dấu tuyệt vời
Sẽ noi gương tốt của người đời xưa
Nàng kiên nhẩn, sáng trưa chiều tối
Trước tụng kinh, tìm lối đào sinh
Lời ăn tiếng nói giữ gìn
Sống trong khuôn khổ biết nhìn nhận xa
Biết kính trọng người già kẻ yếu
Biết mĩm cười hiền dịu khoan dung
Biết thương những kẻ khốn cùng
Biết lo lắng đến người chung một thuyền
Trăng đã khuyết đã lên mấy lượt
Gió theo trăng cùng nước đợi chờ
Rồng thiêng xuất bến xa bờ
Chịu đày xuống thế, dương cờ phát huy
Xin mời các bạn đón xem Phần 12: Hội Đình Nhâm Tuất
Chương 12
Hội Đình Nhâm Tuất :
Nay nhắc lại mùa thi Tân Dậu (57)
Ngày thi Hương để dấu muôn đời
Sĩ phu huyện phủ khắp nơi
(1100) Tranh tài gắng sức góp thời tạo danh
Bảy năm qua, học hành chờ đợi (58)
Mùa thu nầy phấn khởi tranh đua
Chỉ mong mưa gió thuận mùa
Căng buồm, lướt sóng, thuyền đưa đến bờ
Đường rộng mở đón chờ sĩ tử
Chịu thiệt thòi, phụ nữ giả trai
Mong sao tỏ được chí tài
Để so hiểu biết, để xoay cuộc cờ
Ai biết được trước thơ cùng phú
Gái hay trai dùng chữ hơn người
Cớ sao phải chịu thiệt thòi ?
Tại sao cố giữ suốt đời độc tôn ?
Trước khí thế quốc hồn quốc túy
Bốn trăm người tích lủy tài danh
Cử nhân giấc mộng đạt thành (59)
Đường mây còn đợi còn dành năm sau
Cành mai thắm đón chào xuân đến
Bao vợ hiền trìu mến tiễn đưa
Chỏng lều che nắng che mưa
(1120) Trên đường tấp nập theo mùa Hội thi
Xuân Nhâm Tuất đến kỳ khoa cử
Thật tưng bừng sĩ tử khắp nơi
Ngày vui của một kiếp người
Mong sao để tiếng muôn đời tài danh
Đổ về nẻo kinh thành hội tụ
Xe dập dìu tài tử giai nhân
Hoa khoe hương sắc vô ngần
Sĩ phu trau chuốt mấy vần thơ hay
Một bãi đất rộng dài ngàn thước
Lều chõng giăng kẻ trước người sau
Trường thi trong lối ngăn rào
Thí sinh cô đọng ý trào văn tuôn
Ngồi chòm hỏm, nằm luôn dưới đất
Cố khơi ra ý bật lời bay
Trăm năm mấy dịp thử tài
Mấy phen chờ đợi một ngày vinh quang
Kỳ thứ nhứt luận bàn kinh nghĩa
Trong Tứ thư rút tỉa điều hay (60)
Trên ba trăm chữ trọn bài
(1140) Kết tròn đạo lý, góp đầy nghĩa nhân
Vừa kết thúc được phần thứ nhứt
Ban chấm thi tổ chức kỳ hai
Chiếu, chế, biểu, đủ ba bài
Văn chương lưu loát thử tài kỳ ba
Ai xuất sắc tài hoa nổi bật
Sẽ hiện ra ở nấc thang nầy
Một bài thi phú hăng say
Cỗ kim, cận đại tùy tài xét suy
Thơ Đường luật có quy có tắc
Phải gọn gàn xếp đặt căn nguyên
Văn lưu như nước đưa thuyền
Như mây theo gió đến miền thiên thai
Nhìn Tiên nữ gót hài uyển chuyển
Trông sáo diều bay lượn trên không
Tâm tư hòa khúc tơ đồng
Dư âm trầm bổng xuôi dòng thời gian
Xin quý vị nhớ đón xem tiếp phấn 13: Trạng, Bãng, Thám năm Nhâm Tuất sẽ được đăng vào kỳ tới
(57) Năm Tân Dậu (1441) thi Hương
(58) Kỳ thi Hương lần trước được tổ chức năm 1434
(59) Đổ cao trong kỳ thi Hương, được bằng Cử nhân, còn thấp hơn đậu Tú Tài
(60) Tứ Thư gồm Đại học, Trung Dung, Luận ngữ và Mạnh Tử
Chương 13
Trạng, Bảng, Thám năm Nhâm Tuất
Nay trở lại non ngàn bến đổ
Dùng văn chương thổ lộ nguồn cơn
Ngậm ngùi sóng nước Côn Sơn
(1160) Ức Trai nào tỏ nỗi buồn thiên thu
Một buổi sáng âm u gió lạnh
Được lệnh vua hồi chánh tham gia
Vào ban Hội khảo kỳ ba
Mà người Chánh khảo chính là Văn Linh (61)
Lòng phấn khởi trước tình tôi chúa
Nghĩ vua hiền đã rỏ đục trong
Thấu cho những kẻ một lòng
Đem tài, đem sức gánh gồng nước non
Vội viết biểu tạ ơn Thánh thượng
Đã đem lòng rộng lượng xét suy
Biết dùng tài trí ai bì
Đúng nơi đúng chổ, đáng ghi công đầu
Bẩm Thánh thượng, ơn sâu thầm nhớ (62)
Nghĩ cho mình trí nhỏ tài sơ
Tay run, đôi mắt đã lờ
Tóc râu đã bạc, được nhờ ơn trên
Lòng còn muốn đem niềm hoài bão
Trí vẫn mơ khoác áo tạ đời
Dầu cho vật đổi sao dời
(1180) Quyết không phai lạt nghĩa Trời ơn Vua...
Mù sương sớm vui đùa trong nắng
Tiễn người rời sớm vắng hồi kinh
Trong tâm còn một chữ tình
Rồi đây sẽ gặp người mình thương yêu
Đường tuy vắng cây nhiều cảnh đẹp
Cánh lan thơm khép nép chào xuân
Lòng vui rộn rã tưng bừng
Mong mau tay bắt mặt mừng người yêu
Nguyễn Thị Lộ mỹ miều đón rước
Sớm hàn huyên chuyện trước chuyện sau
Bao nhiêu tình nghĩa rạt rào
Thương yêu như sóng ba đào cuộn dâng
Đời cách trở bao lần muốn gặp
Dạ hoài nghi còn lấp niềm đau
Hôm nay hiểu phận má đào
Thương người tiết liệt, khóa rào chờ ai
Để khen thưởng cành mai khoe sắc
Vẫn giữ lòng, khóa chặt rào sâu
Cùng nhau đưa đến giang đầu
(1200) Đỉnh cao tình ái, qua cầu yêu đương
Đêm trăng sáng mây nhường lối mộng
Cạn chén quỳnh lắng đọng tâm tư
Hỏi chồng rành rẻ ngôn từ
Tại sao Đình Hội loại trừ nữ nhi ?
Thiếp vẫn biết phú, thi sắc sảo
Định rõ ràng tâm não thí sinh
Tứ thư, chiếu, biểu... trung bình
Chăm lo học tập tiến trình vượt qua
Muốn học hỏi tài ba Tiến sĩ
Những phú, thi tuyệt mỹ cao vời
Nhờ chàng sử dụng đôi lời
Mượn dùm cho thiếp suốt đời không quên
Nguyễn Trãi biết vợ hiền tài giỏi
Sẽ chờ thời thuận lợi phân qua
Đêm nay thưởng nguyệt ngắm hoa
Tận dùng thời khắc chan hòa thương yêu...
Ban Giám khảo đặt nhiều tin tưởng
Với đề tài ảnh hưởng quốc gia
Xuân Đài Hội phú kỳ ba
(1220) Mộng Tuân muốn chỉ nước nhà yên vui
Sĩ tử được chọn thời cận đại
Hay dựa vào sách dạy cổ xưa
Miển sao lý dẩn có thừa
Văn chương như sóng nước đùa thuyền xa
Theo Chu Lễ có ba đài tượng
Chốn Linh Đài, Hoàng Thượng vái van
Cầu Trời khẩn Phật chiêu an
Nước non trù phú, dân gian thanh bình
Thời Đài dựng để dành chư chúa (63)
Đến lễ đài cầu gió cầu mưa
Cầu cho dân chúng được mùa
Hăng say xây đắp, tranh đua học hành
Phố Đài để dân lành thưởng ngoạn
Xem mây trời tản mạn bay xa
Ngẩn ngơ theo mấy cành hoa
Hân hoan theo tiếng oanh ca ngọt ngào
Với Nguyễn Trực mưa rào vướng víu (64)
Núi non còn phải chịu chào thua
Vững bền, cao mấy cũng thừa
(1240) Nếu không xây dựng cho vừa lòng dân
Xuân Đài chắc, non Tần kém thế
Xuân Đài cao, ngạo nghể dương oai
Xuân Đài bền vững thới lai
Do dân xây đấp mỗi ngày một hơn
Dân sung sướng, đài sơn đài phết
Dân yên lành, đài kết đài giăng
Nếu dân đau khổ nhọc nhằn
Đài nghiêng theo gió, đài hoằng theo giông
Phú Nguyễn Trực chiếm lòng giám khảo
Chấm đổ đầu Hội cảo kỳ ba
Nhưng người được điểm thuận hòa
Nguyễn Như Đỗ mới chính là Hội nguyên
Vì Như Đỗ gom thuyền ba hội
Ưu với bình vang dội mấy phen
Bỏ công sắm sửa sách đèn
Trau dồi kinh sử, luyện rèn phú thi
Hội chấm dứt, đáng ghi đáng thưởng
Ban chấm thi, đọc quyển chung lòng
Cùng nhau cầm chén rượu nồng
(1260) Để đem sức sống khơi dòng hăng say
Tháng giêng hết, mùng hai tổ chức
Điện Hội Anh sáng rực đèn hoa
Trầm hương nghi ngút chan hòa
Điện tiền mở rộng, chính tòa vinh quang
Ban giám khảo, hân hoan tề tựu
Đã sẵn sàng sĩ tử đứng chờ
Các quan Lễ bộ đợi giờ
Hồi chuông thứ nhứt, xếp cờ vào dinh
Khác thi Hội, thi Đình trong điện
Ban chấm thi, cùng tiến vào chầu
Hai bên Lễ Bộ đứng hầu
Y quang, phẩm phục, sắc màu đẹp tươi
Chuông kế tiếp, đón mời vua tới
Mũ xung thiêng, ngọc đới bên hông
Hoàng bào nệm ngọc thêu rồng
Ngai vàng chểm chệ, hương đồng nghiêm trang
Cùng phủ phục, các quan bái vọng
Lớp sĩ phu, xúc động tiến vào
Hân hoan như được đón chào
(1280) Đường mây rộng mở, cẩm bào thêu hoa
Viên chấp sự xướng qua tên họ
Trao thí sinh mực lọ bút nghiên
Dâng vua Văn sách thánh hiền
Xét xong thủ tục vua truyền đề thi
Các sĩ tử cúi quỳ bái nhận
Lui trở về địa phận của mình
Mỗi người bàn ghế xinh xinh
Không còn lều chỏng, đất xình giữa sân
Lễ kết thúc, Vua, thần trở gót
Các thí sinh moi óc tìm văn
Êm đềm Tìên nữ cung Hằng
Oai phong tiếng sóng Bạch Đằng vang danh
Đến chiều tối mới thành được quyển
Ban giám thi chấm tuyển người tài
Ba mươi ba, trúng văn bài (65)
Chia làm ba hạng, đủ đầy sắc sâu
Nhóm thứ nhứt, đứng đầu Nguyễn Trực
Đậu Trạng Nguyên chính thức năm nầy
Hội nguyên Như Đỗ thứ hai
(1300) Trở thành Bảng Nhãn, trí tài hiền lương
Người thứ ba là Lương Nhữ Hộc
Đậu Thám Hoa, chính tộc con nhà
Quyết đem sức học tài ba
Dạy dân in sách đúng là cha ông (66)
Đem tài trí đẹp lòng tiên tổ
Quả rỏ ràng chẳng hổ danh người
Tiến sĩ cặp đệ nhứt đời (67)
Sắc trong tô đậm, hương ngoài lan xa
Tòa Văn Miếu, gấm hoa thêu đệt
Thần rùa linh, đã kết linh bài
Từ năm mười bốn bốn hai
Ai người tiến sĩ danh tài đề tên
Nơi lịch sữ, đấp nền văn hiến
Tạo niềm tin, đường tiến mai sau
Vì dân vì nước tự hào
Quyết không để giọt lệ trào can qua
Xin mời quý vị nhớ đón xem kỳ tới nói về Bốn Hung thần thời đại
(61) Lê văn Linh, Đề điệu (Chánh chủ khảo), Triệu Thái làm Phó chủ khảo, Nguyễn Trãi, Trưởng ban Đọc quyển, gồm các bạn mới và cũ như Lý Tử Tấn, Nguyễn Mộng Tuân, Trần Thuấn Dư...
(62)Sau đây dài dòng trích dẫn tờ biểu của Nguyễn Trãi dâng vua Lê Thái Tông (theo Truyện Nguyễn Trãi của Bùi văn Nguyên) :
Thần trộm nghĩ niên tân sáu chục
Chốn triều đình chức tước ban thêm
Chín trùng lồng lộng ơn trên
Nghĩ mình thêm thẹn nỗi niềm vinh quang...
(63) vua chúa các nước chư hầu
(64) Nguyễn Trực, con cư sĩ Nguyễn Thì Trung, đã mở đầu tả đài bằng những câu : theo Bùi văn Nguyên
Vón đài nầy :
Không nền không móng
Không dựng không xây
Chẳng cần đến trăm nghìn công lao nện đắp
Chẳng phí đến muôn vàn của cải tiền tài
Chỉ cần lễ nghĩa tạo hướng đi cho mưu lược
Chỉ cần đạo đức làm cơ sở để tài bồi
Vì muôn dân cùng kéo đến
Ắt trăm họ được đón mời
Không đắp cao mà cao vút đến tận mây biếc
Không bồi lớn mà lớn, lan đến tận biển khơi
(65) Trong 33 người Tiến sĩ gồm 3 người Cặp đệ, 7 Tiến sĩ bảng chánh mà người đứng đầu là Trần Văn Huy và 23 người Tiến sĩ bảng phụ mà người đứng đầu là Ngô Sĩ Liên, chuyên về lịch sử
(66) Theo Việt Nam Danh nhân Từ điển của Nguyễn Huyền Anh, Lương Nhữ Hộc là ông tổ ở VN về in sách. Ông đã hai lần đi sứ ở Tàu và học lén được nghề in ở đấy
(67) Tiến Sĩ Cặp đệ gồm ba người : Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa
Chương 14
Luận về Tứ Hung thời đại
Ngoài áo mũ lời ca tiếng hát
Thật tưng bừng lễ phát cân đai
Thủ khoa, Cập đệ trí tài
(1320) Từ đây hôm sớm miệt mài giúp vua
*
Lễ chấm dứt, lòng chưa muốn dứt
Ban chấm thi tổ chức rượu trà
Cùng nhau nâng chén ngâm nga
Bảo người Thường Tín thua nhà Ứng Thiên (67)
*
Mộng Tuân hỏi đề chuyên Văn sách
Có phải người phụ trách, Ức Trai ?
Vừa hay vừa quá thâm cay
Phải người trí rộng ý dài mới thông
*
Nguyễn Trãi bảo do lòng Thánh thượng
Chỉ rõ ràng ảnh hưởng người xưa
Gợi thêm vài chữ giúp vua
Miễn sao cân nhắc cho vừa bề trên
*
Bài Nguyễn Trực nói lên khác biệt
Giữa Tứ Hung, hào kiệt đương thời
Ngoài ra phân tích tuyệt vời
Lòng gian Hãn, Xão tách rời Sát, Ngân
*
Hãn, Xão chỉ có phần gian ý
Sớm về hưu, đã nghĩ đến mình
Không lo đề cử hiền minh
(1340) Hết lòng giúp nước, tận tình giúp vua
*
Khi khởi nghĩa, tranh đua gắng sức
Trong hiểm nguy tận lực hy sinh
Đến khi đất nước thái bình
Không lo kiến thiết, riêng mình cầu an
*
Còn Sát, Ngân, lòng gian ý ác
Chức Tư Đồ lấn át quyền vua
Thích làm bạn với a dua
Ghét ghen tài đức, thương ưa nịnh thần
*
Lê Xuân Chủ, mệnh thân tan tác
Chiếc lá vàng rải rác đường đi
Để người xiểm nịnh gian phi
Giẫm lên thân xác, tiếc gì công lao
*
Chúng chỉ thích ngọt ngào đường mật
Chúng chỉ mê giọng hát lời ca
Những người liêm khiết tài ba
Không chung đường nghĩ, không hòa đường suy
*
Đều phải chọn bên đi bên ở
Không chung đường ngăn trở dèm pha
Hết đời một giấc Nam kha
(1360) Đầu thân hai ngả, danh tà còn lưu
*
Càng ngẫm nghĩ lời hư lẽ thực
Bài học xưa quyền lực còn đây
Xét người, ngẫm lại hôm nay
Ai người cậy thế, yểm tài tôi trung
*
Ai dám định Tứ Hung hiện đại ?
Ai xét người tranh cãi lợi danh ?
Biết ai đem hết tài mình
Giúp dân giúp nước, công danh chẳng màng ?
*
Càng tham luận thấy càng sôi nổi
Sợ đêm tàn, tiếng dội tiếng vang
Ức Trai đành phải bàn ngang
Ta cùng nâng chén đón vầng trăng lên
*
Ánh trăng sáng gi"a nền trời thẳm
Xuyên cây cành lấm tấm kim cương
Ngàn sao trong sáng lạ thường
Như cùng đánh dấu Đình trường năm nay
*
Nguyễn Trãi muốn cùng say với bạn
Giữa đêm khuya trăng sáng vui vầy
Ngày mai rồi sẽ chia tay
(1380) Biết còn thấy lại những ngày vui tươi ?
*
Quý những lúc lòng cười mắt thốt
Giữa những người cùng một tâm hồn
Cùng đi chung một khoảng đường
Cùng chia sẻ nỗi đoạn trường khổ đau
Nguyễn Gia Linh
Sau lần tổ chức thành công cuộc thi Đình năm Nhâm Tuất thành công, với bia Tiến sĩ còn lưu lại ở Hà Nội, nếu muốn biết cuộc đời của Nguyễn Trãi và Nguyễn Thị Lộ biến chuyển như thế nào, xin mời quý vị đón xem Lệ Chi Hận sử-Phần 15: Trở lại Côn Sơn
(67) Thường Tín là quê hương của Nguyễn Như Đỗ cũng là quê hương của Nguyễn Trãi và Lý Tử Tấn. Ứng Thiên là quê hương của Nguyễn Trực
Chương 15
Trở lại Côn Sơn
Nay trở lại rượu bầu thơ túi
Vùng Côn Sơn nhiều núi nhiều non
Về đây rèn luyện sắt son
Đấp xây giấc mộng, vuông tròn nghĩa nhân
*
Cùng Thị Lộ bao lần mong đ(r)i
Lặng ngắm nhìn dòng suối trong xanh
Hương hoa đồng nội yên lành
Hồn thơ phảng phất, mái tranh nhịp nhàng
*
Cầu Thấu Ngọc, mơ màng huyền ảo
Tháp Huyền Quang, lối đạo soi đường
Thần tiên trong cảnh khói sương
Đất trời mở rộng, tình thương dạt dào
*
Thanh Hư động xanh xao hoa lá
Bàn cờ tiên bậc đá mấy trăm
Đường ven tiếng suối rì rầm (68)
(1400) Thạch bàn uốn khúc quanh năm mơ huyền
*
Khu đất rộng, ba hiên vách lá (69)
Nền Ức Trai sỏi đá chen hoa
Trong nhà đưa mắt nhìn xa
Bốn phương gió thổi, mấy tòa thanh tao
*
Suối róc rách, ngọt ngào âm hưởng
Thông vi vu, ngất ngưởng trời cao
Gò tre, bụi trúc lao xao
Nước non xanh biếc, tiêu dao tháng ngày
*
Khó phối hợp, hăng say hoạt động
Cùng yên vui trong mộng nhàn du
Ức Trai sang sửa bổ tu
Bạch Vân am động, sương mù vây quanh
*
Cùng xây cất nhà tranh mái lá
Để làm nơi dạy dỗ trẻ thơ
Hoặc say mê với cuộc cờ
Chung trà chén rượu, bài thơ ân tình
*
Vui đắm đuối ba sinh hương lửa
Bỏ những khi, trước cửa thẩn thờ
Nỗi buồn phảng phất vu vơ
(1420) Nỗi ghen nh"ng kẻ nghi ngờ người yêu
*
Sóng đã lặng, hương kiều bên cạnh
Cành hoa thơm trong ánh bình minh
Giọt sương lóng lánh lung linh
Sắc màu hòa nhịp, sóng tình chứa chan
*
Song song bước giữa ngàn hoa mộng
Lặng lặng nhìn trước cổng am vân
Thiên thai trong cõi hồng trần
Ai người hưởng được mấy lần phù sinh ?
*
Đêm huyền ảo, thơ bình kinh cứu
Cùng để lòng ấp ủ lời hay
Văn chương như áng sương bay
Nhẹ nhàng mờ ảo vượt ngoài dậm xa
*
Giọng thánh thót cung ngà lả lướt
Xuôi thời gian và vượt không gian
Thoát xa ra khỏi non ngàn
Đến vùng biển rộng ngập tràn thương yêu
*
Lòng hăng say bước đều theo nhịp
Trống hành quân đuổi kịp sóng cồn
Đoàn quân chân bước dập dồn
(1440) Hào hùng tiếng hịch, lướt đồn đạp chông
*
Rơi nước mắt khi lòng tan tác
Theo lời ca giọng hát nỉ non
Tiếng ngân xé nát tâm hồn
Tiễn người bất hạnh về nguồn trầm luân
*
Tiết tháng bảy mây vần mưa vũ
Trong hồ sen hoa rủ cánh tàn
Hoa buồn sắc thảm mênh mang
Đến mùa báo hiếu Vu Lan đợi chờ
*
Tình cha mẹ tôn thờ trọn kiếp
Nghĩa đức dày nối tiếp cha ông
Xử sao cho trọn tấm lòng
Cho thương yêu vẫn chờ mong tháng ngày
*
Cha dạy dỗ lời ngay lẽ phải
Chỉ rỏ đường ngang trái phong ba
Biết đâu là lẽ chánh tà
Học người trung nghĩa, tránh xa tôi loàn
*
Mẹ chăm sóc miếng cơm manh áo
Mẹ lắng lo giông bão gió sương
Ôm con ấp ủ tình thương
(1460) Nắng mưa cũng chịu, đoạn trường cũng cam
*
Rằm tháng bảy thành tâm khẩn nguyện
Cầu Phật Trời gió chuyển mây đưa
Hộ phò Tiên cảnh muối dưa
Mẹ Cha hồn lạc, sớm trưa vui vầy
*
Cùng phổ độ rày đây mai đó
Những cô hồn tránh gió đụt mưa
Giải trừ oan nghiệp xa xưa
Tụng kinh gỏ mỏ, muối dưa tu hành
*
Chùa rộng mở sẳn dành công đức
Cho những người tránh tục tìm siêu
Luyện hồn thanh thoát tiêu diêu
Xây tâm tĩnh lạc, tránh điều trầm luân
*
Sau cuộc lễ tin mừng đưa đến
Rằng Quân vương tham diển miền đông
Trước lo quân lính một lòng
Tận tình xây đấp non sông vững bền
*
Sau sẽ viếng thăm miền thôn dã
Cùng cựu thần chí cả Côn Sơn
Niềm vui cao tận núi non
(1480) Mấy ai hưởng được công ơn biển trời
*
Một nghĩa cử sáng đời chân chúa
Trước lo dân sau dựa lòng người
Kính tôn những kẻ đức tài
Phát uy đạo cả trong ngoài noi gương
*
Tin kế tiếp cung vương mở rộng
Tiếng hài nhi sống động Huy Vân (70)
Ngọc Dao giấc mộng linh thần
Hạ sanh Hoàng Tử theo vầng hào quang
*
Nguyễn Trãi trước lo toan tiếp rước
Sau cho người kịp bước đến chùa
Chu toàn săn sóc con vua
Dẩn đi lánh nạn để ngừa trầm luân
Sau khi tổ chức thành công Hội Đình năm Nhâm Tuất (1442), Nguyễn Trãi và sau đó Nguyễn Thị Lộ về an nghỉ ở Côn Sơn, quý vị muốn biết cuộc sống và sự an nguy của Hoàng phi Ngô Thị Ngọc Giao và Hoàng tử Tư Thành như thế nào, xin đón xem Lệ Chị Hận sử , chương 15 : An Bang lánh nạn
(68) Đường lên bàn cờ tiên gồm 600 bậc đá
Côn Sơn suối chảy rì rầm
Ta nghe như tiếng Đàn cầm bên tai (Nguyễn Trãi)
(69) Nguyễn Mộng Tuân, một người bạn đồng khoa đã mô tả nhà Nguyễn Trãi như sau :
Nhà trí Tam quan lạnh lẽo như dòng nước
Bốn vách trống trải xác xơ chỉ có sách là giàu
(70) Chùa Huy Vân, ngoại ô kinh thành
Nguyễn Gia Linh