(Kì 17)
TS. Nguyễn Ngọc Kiên chọn dịch và giới thiệu thơ
NHÀ THƠ LÍ ÍCH – 李益 – Trung Đường
Lý Ích 李益 (748-829) tự Quân Ngu 君虞, người Cổ Tang, Lũng Tây (nay thuộc huyện Vũ Uy, tỉnh Cam Túc), thi nhân đời Trung Đường.
回樂峰前沙似雪,
受降城外月如霜。
不知何處吹蘆管,
一夜征人盡望鄉。
Phiên âm:
Dạ thướng Thụ Hàng thành
văn địch (I) – Lí Ích
phong tiền sa tự tuyết
thành ngoại nguyệt như sương
Bất tri hà xứ xuy lô quản
Nhất dạ chinh nhân tận vọng hương.
Dịch nghĩa:
Đêm lên thành Thụ Hàng,
nghe tiếng sáo (1) – Lí Ích
Trước núi Hồi Nhạc cát trắng như tuyết
Ngoài thành Thụ Hàng ánh trăng như sương
Không biết tiếng sáo lau thổi ở nơi nào
Làm một đêm nay tất cả các kẻ chinh nhân đều nhớ về quê nhà.
Dịch thơ:
Đêm lên thành Thụ Hàng,
nghe tiếng sáo (1)
Bản dịch 1:
Trước Hồi Nhạc cát bay như tuyết
Ngoài Thụ Hàng ánh nguyệt như sương
Tiếng sáo lau cứ vấn vương
Làm chinh nhân nhớ cố hương đêm rày.
Bản dịch 2:
Trước Hồi Nhạc cát trắng tựa tuyết
Ngoài Thụ Hàng trăng sáng như sương
Tiếng sáo lau từ đâu dìu dặt
Chinh nhân đêm ấy nhớ cố hương.
行人夜上西城宿,
聽唱梁州雙管逐。
此時秋月滿關山,
何處關山無此曲。
Phiên âm:
Dạ thướng Tây Thành thính
Lương Châu khúc kỳ 1
Hành nhân dạ thượng Tây Thành túc,
Thính xướng Lương Châu song quản trục.
Thử thời thu nguyệt mãn quan san,
Hà xứ quan san vô thử khúc.
Dịch thơ:
ĐÊM LÊN TÂY THÀNH NGHE
KHÚC LƯƠNG CHÂU (KÌ 1)
Hành nhân đêm ngủ Tây Thành
Bỗng nghe song quản bài hành Lương Châu
Trăng thu soi sáng một màu
Tiếng tiêu văng vẳng dãi dầu quan san.
鴻雁新從北地來,
聞聲一半卻飛回。
金河戍客腸應斷,
更在秋風百尺臺。
Phiên âm:
Dạ thướng Tây Thành thính
Lương Châu khúc kỳ 2 – Lí Ích
Hồng nhạn tân tòng bắc địa lai,
Văn thanh nhất bán khước phi hồi.
Kim hà thú khách trường ưng đoạn,
Cánh tại thu phong bách xích đài.
Dịch thơ:
ĐÊM LÊN TÂY THÀNH NGHE KHÚC LƯƠNG CHÂU (KÌ 2)
Nhạn hồng mới từ bắc đến thôi
Mới nghe nửa khúc đã bay rồi
Sông Kim khách thú lòng như đứt
Chỉ tại gió thu trăm thước đài
NHÀ THƠ SẦM THAM
Sầm Tham 岑參 (715-770) tổ tiên ở Nam Dương sau di cư tới Giang Lăng, dòng dõi của tể tướng Sầm Văn Bản 岑文本 (595-645), thi nhân đời Đường đại biểu cho thơ biên tái cùng với Cao Thích 高適. Tác phẩm có "Sầm Gia Châu thi tập" 岑嘉州詩集.
漢將承恩西破戎,
捷書先奏未央宮。
天子預開麟閣待,
只今誰數貳師功。
Phiên âm:
Hiến Phong đại phu phá Bá Tiên
khải ca kỳ 1 – Sầm Tham
Hán tướng thừa ân tây phá Nhung,
Tiệp thư tiên tấu Vị Ương cung.
Thiên tử dự khai lân các đãi,
Chỉ kim thuỳ sổ công.
Chùm thơ này được viết năm 754. Bá Tiên tức trấn Bá Tiên, thành Thả Mạc cũ, nay là thành Xa Nhĩ, huyện Thả Mạt, Tân Cương, nằm phía bắc sông Hoàng Hà. Phong đại phu tức tướng Phong Thường Thanh 封常清. Tác giả làm việc dưới quyền ông này, đã đi theo hành quân tại Cam Túc, Tân Cương nhiều lần.
Dịch thơ:
Bài ca chiến thắng kính tặng Phong
đại phu phá giặc ở Bá Tiên kỳ 1 – Sầm Tham
Tướng Hán thừa ân tây phá Nhung
Thắng trận tin loan trước Vị cung.
Vua định mở Kỳ Lân tiếp đãi
Bằng tướng Nhị Sư để thưởng công.
官軍西出過樓蘭,
營幕傍臨月窟寒。
蒲海曉霜凝馬尾,
蔥山夜雪撲旌竿。
Hiến Phong đại phu phá
Bá Tiên khải ca kỳ 2 – Sầm Tham
Quan quân tây xuất quá ,
Doanh mạc bàng lâm nguyệt quật hàn.
hiểu sương ngưng mã vĩ,
dạ tuyết phác tinh can.
Dịch nghĩa:
Bài ca chiến thắng kính tặng Phong
đại phu phá giặc ở Bá Tiên kỳ 2 – Sầm Tham
Quan quân đi về phía tây qua khỏi Lâu Lan,
Trăng lên hạ trại gần một cái hang, trời lạnh.
Sương sớm bên hồ Bồ đọng trên lông đuôi ngựa,
Tuyết đêm trên núi Thông treo trên cột cờ.
Dịch thơ:
Bài ca chiến thắng kính tặng Phong
đại phu phá giặc ở Bá Tiên kỳ 2 – Sầm Tham
Về Tây, quan lính khỏi Lâu Lan
Trời lạnh trăng lên trại cạnh hang
Sương đọng hồ Bồ trên đuôi ngựa
Đêm cột cờ Thông tuyết đóng băng
鳴笳疊鼓擁回軍,
破國平蕃昔未聞。
丈夫鵲印搖邊月,
大將龍旗掣海雲。
Hiến Phong đại phu phá
Bá Tiên khải ca kỳ 3 – Sầm Tham
Minh già điệp cổ ủng hồi quân,
Phá quốc bình Phiên tích vị văn.
Trượng phu dao biên nguyệt,
Đại tướng long kỳ xiết hải vân.
Dịch nghĩa:
Bài ca chiến thắng kính tặng Phong
đại phu phá giặc ở Bá Tiên kỳ 3 – Sầm Tham
Kèn trống vang lừng đón tiếp đoàn quân chiến thắng trở về,
Tiêu diệt nước nhỏ, bình định nước ngoài, từ xưa chưa từng nghe.
Ấn tín của người hùng lung lay cả mặt trăng nơi biên ải,
Cờ hiệu của đại tướng như kéo cả mây biển đi theo.
Dịch nghĩa:
Bài ca chiến thắng kính tặng Phong
đại phu phá giặc ở Bá Tiên kỳ 3 – Sầm Tham
Kèn trống lừng vang đón quân về
Diệt tan nước nhỏ chửa từng nghe
Ấn người hùng lay trăng biên ải
Cờ hiệu đại tướng kéo mây che
日落轅門鼓角鳴,
千群面縛出蕃城。
洗兵魚海雲迎陣,
秣馬龍堆月照營。
Phiên âm:
Hiến Phong đại phu phá
Bá Tiên khải ca kỳ 4 – Sầm Tham
Nhật lạc viên môn cổ giốc minh,
Thiên quần diện phọc xuất Phiên thành.
Tẩy binh vân nghênh trận,
Mạt mã nguyệt chiếu doanh.
Dịch nghĩa
Bài ca chiến thắng kính tặng Phong
đại phu phá giặc ở Bá Tiên kỳ 4 – Sầm Tham
Buổi chiều trống thúc tù và thổi trước cổng doanh trại,
Ngàn tù binh bị dẫn ra khỏi thành người Phiên.
Quân sĩ tập trận bên đầm Ngư Hải bao la mây trời.
Trăng chiếu cảnh ngựa ăn trong doanh trại trên gò Long Đôi.
Dịch thơ:
Bài ca chiến thắng kính tặng Phong
đại phu phá giặc ở Bá Tiên kỳ 4 – Sầm Tham
Chiều trống thúc, tiếng tù trước trại
Ngàn tù binh dẫn khỏi thành Phiên
Quân đầm Ngư nước mây liền
Trăng thanh ngựa gặm cỏ trên đất gò.
蕃軍遙見漢家營,
滿谷連山遍哭聲。
萬箭千刀一夜殺,
平明流血浸空城。
Phiên âm:
Hiến Phong đại phu phá Bá Tiên khải ca kỳ 5 – Sầm Tham
Phiên quân dao kiến Hán gia doanh,
Mãn cốc liên sơn biến khốc thanh.
Vạn tiễn thiên đao nhất dạ sát,
Bình minh lưu huyết tẩm không thành.
Dịch thơ:
Bài ca chiến thắng kính tặng Phong
đại phu phá giặc ở Bá Tiên kỳ 5 – Sầm Tham
Trại Hán quân Phiên ở xa trông
Khắp rừng đầy lũng tiếng khóc ròng
Vạn tên, dao một đêm giết sạch
Sáng ra máu đổ với thành không.
暮雨旌旗濕未幹,
胡煙白草日光寒。
昨夜將軍連曉戰,
蕃軍只見馬空鞍。
Hiến Phong đại phu phá Bá Tiên khải ca kỳ 6 – Sầm Tham
Mộ vũ tinh kì thấp vị can,
Hồ yên bạch thảo nhật quang hàn.
Tạc dạ tướng quân liên hiểu chiến,
Phiên quân chỉ kiến mã không an.
Dịch thơ:
Bài ca chiến thắng kính tặng Phong
đại phu phá giặc ở Bá Tiên kỳ 5 – Sầm Tham
Mưa chiều ướt đẫm lá cờ hồng
Cỏ trắng khói hồ ánh nhật quang
Quân tướng đánh đêm liền tới sáng
Quân Phiên chỉ thấy ngựa không cương
風恬日煖蕩春光,
戲蝶遊蜂亂入房。
數枝門柳低衣桁,
一片山花落筆床。
Sơn phòng xuân sự kỳ 1 – sầm Tham
Phong điềm nhật noãn đãng xuân quang,
Hí điệp du phong loạn nhập phòng.
Sổ chi môn liễu đê y hành,
Nhất phiến sơn hoa lạc bút sàng.
Dịch nghĩa:
Nét xuân ở nhà trong núi (kỳ 1) – sầm Tham
Gió yên, tiết trời ấm áp, nắng xuân nhảy múa,
Bướm nhởn nhơ, ong lãng đãng bay loạn vào phòng.
Vài cành của cây liễu trồng trước cửa rủ xuống mắc áo,
Một cánh hoa rơi trên cái giá gác bút.
Dịch thơ:
Nét xuân ở nhà trong núi (kỳ 1) – Sầm Tham
Bản dịch 1:
Gió yên, trời ấm, nắng vui đùa
Ong lượn vào phòng bướm nhởn nhơ
Cành liễu rủ vờn trêu mắc áo
Một cánh hoa rơi gác bút xưa.
Bản dịch 2:
Gió yên, trời ấm, nắng đầy
Bướm nhởn nhơ, ong lãng đãng bay vào phòng
Liễu rủ mắc áo như thường
Giá bút kia đóa hoa vương một nhành.
梁園日暮亂飛鴉,
极目蕭條三兩家。
庭樹不知人去盡,
春來還發舊時花。
Phiên âm:
Sơn phòng xuân sự kỳ 2 – Sầm Tham
nhật mộ loạn phi nha,
Cực mục tiêu điều tam lưỡng gia.
Đình thụ bất tri nhân khứ tận,
Xuân lai hoàn phát cựu thì hoa.
Dịch nghĩa:
Nét xuân ở nhà trong núi kỳ 2 – Sầm Tham
Trong vườn Lương, lúc chiều tà những con quạ bay hỗn loạn
Cố trông hết tầm mắt cũng chỉ thấy vài ba nhà tiêu điều
Cây trong sân không biết rằng người ta đà đi hết
Xuân về lại nở những bông hoa thời xa xưa.
Dịch thơ:
Nét xuân ở nhà trong núi (kỳ 2) – Sầm Tham
Bản dịch 1:
Quạ loạn vườn Lương buổi chiều tà
Xa trông xơ xác chỉ mấy nhà
Cây sân không biết người đi hết
Xuân đến như xưa …. vẫn nở hoa
Bản dịch 2:
Vườn Lương quạ náo chiều tà
Xa trông chỉ thấy mấy nhà xác xơ
Cây sân người vắng bao giờ
Xuân về hoa tự thưở xưa nở bừng.