ĐƯỜNG THI – CHỦ ĐỀ BIÊN TÁI
(Kì 11)
Nguyễn Ngọc Kiên chọn dịch và giới thiệu thơ
NHÀ THƠ VƯƠNG BỘT
Vương Bột 王勃 (649-675) tự Tử An 子安, người đất Long Môn. Sáu tuổi đã biết làm văn. Mười sáu, mười bảy tuổi nổi danh hạ bút nên vần.
Vương có thói quen, mỗi khi làm văn, mài mực sửa soạn nghiên bút rồi nằm đắp chăn ngủ. Khi tỉnh dậy, cầm ngay bút viết. Vương nổi tiếng là một thi sĩ cao danh thời Sơ Đường (618-713).
Khoảng 675-676, lúc 27-28 tuổi, Vương Bột bị đắm thuyền, chết đuối ở biển Nam Hải trên đường sang Giao Chỉ thăm cha.
思歸 - 王勃
長江悲已滯,
萬里念將歸。
況屬高風晚,
山山黃葉飛。
Phiên âm:
TƯ QUI – VƯƠNG BỘT
Trường Giang bi dĩ trệ,
Vạn lý niệm tương quy.
Huống thuộc cao phong vãn,
Sơn sơn hoàng diệp phi.
Dịch nghĩa:
NGHĨ TRỞ VỀ - VƯƠNG BỘT
Nỗi thương đau đã lắng đọng trên sông Trường Giang,
Ở nơi xa muôn dặm mong nhớ lúc trở về.
Huống hồ đương lúc cuối thu,
Lá vàng tung bay trên núi non trùng điệp.
Dịch thơ:
NGHĨ TRỞ VỀ _ VƯƠNG BỘT
Trường Giang nỗi sầu đọng
Muôn dặm mong trở về
Huống gió chiều cao lộng
Núi lá vàng bốn bề.
送杜少府之任蜀州 - 王勃
城闕輔三秦,
風煙望五津。
與君離別意,
同是宦遊人。
海內存知己,
天涯若比鄰。
無為在歧路,
兒女共沾巾。
Phiên âm:
TỐNG ĐỖ THIẾU PHỦ CHI NHẬM THỤC CHÂU – VƯƠNG BỘT
Thành khuyết phụ ,
Phong yên vọng .
Dữ quân ly biệt ý,
Ðồng thị hoạn du nhân.
Hải nội tồn tri kỷ,
Thiên nhai nhược tỉ lân.
Vô vi tại kỳ lộ,
Nhi nữ cộng triêm cân.
Dịch nghĩa:
TIỄN ĐỖ THIẾU PHỦ ĐI NHẬM CHỨC Ở THỤC CHÂU – VƯƠNG BỘT
Tường thành bảo vệ đất Tam Tần
Nhìn vọng qua gió thổi những làn khói có thể thấy năm bến sông Thục
Cùng cảm thông với bạn nỗi xa cách
Bởi đôi ta đều là những kẻ làm quan nơi xa
Trong đất liền này ta cũng còn người là tri kỷ
(Cho nên) có ở ven trời góc biển vẫn coi như là bên cạnh
Hai ta xin đừng đứng ở ngã rẻ đường
Khóc lóc như tuồng nhi nữ
Dịch thơ:
TIỄN ĐỖ THIẾU PHỦ ĐI NHẬM CHỨC Ở THỤC CHÂU – VƯƠNG BỘT
Tường thành hộ Tam Tần
Bến sông Thục là năm
Cùng bạn bao xa cách
Chúng ta đều làm quan
Đất này còn tri kỉ
Nơi chân trời góc bể
Mà chẳng thấy dặm ngàn
Xin đừng ở ngã rẽ
Tựa nhi nữ khóc than.
題苜蓿峰寄家人 - 岑參
苜蓿峰邊逢立春,
胡蘆河上淚沾巾。
閨中只是空相憶,
不見沙場愁殺人。
Phiên âm:
ĐỀ MỤC TÚC PHONG KÍ GIA NHÂN – SẦM THAM
Mục Túc phong biên phùng lập xuân,
Hồ Lô hà thượng lệ triêm cân.
Khuê trung chỉ thị không tương ức,
Bất kiến sa trường sầu sát nhân.
Mục Túc: một trong năm đài phong hoả đặt ngoài ải Ngọc Môn, tỉnh Tân Cương.
Dịch nghĩa:
TRÊN MỤC TÚC GỬI NGƯỜI NHÀ – SẦM THAM
Bên đỉnh Mục Túc gặp mùa xuân
Trên sông Hồ Lô lệ ướt khăn
Trong phòng khuê gặp mãi sầu thương nhớ
Không thấy sa trường sầu chết người.
Dịch thơ:
TRÊN NGỌN MỤC TÚC GỬI NGƯỜI NHÀ – SẦM THAM
Bên đỉnh Mục Túc gặp xuân tươi
Hồ Lô trên bến lệ khăn rơi
Phòng khuê chỉ mãi sầu thương nhớ
Không thấy sa trường sầu chết người.
芙蓉樓送辛漸其一 – VƯƠNG XƯƠNG LINH
寒雨連江夜入吳,
平明送客楚山孤。
洛陽親友如相問,
一片冰心在玉壺。
Phiên âm:
PHÙ DUNG LÂU TỐNG TÂN TIỆM KÌ 1 – VƯƠNG XƯƠNG LINH
Hàn vũ liên giang ,
Bình minh tống khách .
thân hữu như tương vấn,
Nhất phiến băng tâm tại ngọc hồ.
Dịch nghĩa:
TRÊN LẦU PHÙ DUNG TIỄN TÂN TIỆM – VƯƠNG XƯƠNG LINH
Mưa lạnh rơi khắp mặt sông trong đêm vào đất Ngô,
Khi trời sáng tiễn khách chỉ có ngọn núi đất Sở trơ trọi.
Nếu như bạn bè thân thích ở Lạc Dương có hỏi thăm,
(Thì xin đáp rằng lòng tôi đã thành) một mảnh lòng băng giá trong bầu ngọc rồi.
Phù Dung lâu do vua nhà Đông Tấn cho xây và đặt tên ở tại phía tây bắc thành Trấn Nam phủ (nay là tây bắc huyện Đan Dương, tỉnh Giang Tô).
Dịch thơ:
TRÊN LẦU PHÙ DUNG TIỄN TÂN TIỆM – VƯƠNG XƯƠNG LINH
Mưa lạnh sông đêm trên đất Ngô
Bình minh tiễn khách núi Sở trơ
Lạc Dương nếu có người thân hỏi
Một tấm lòng băng tại ngọc hồ.
閨怨 - 王昌齡
閨中少婦不知愁,
春日凝妝上翠樓。
忽見陌頭楊柳色,
悔教夫婿覓封侯。
Phiên âm:
KHUÊ OÁN – VƯƠNG XƯƠNG LINH
Khuê trung thiếu phụ bất tri sầu,
Xuân nhật thướng thuý lâu.
Hốt kiến mạch đầu dương liễu sắc,
Hối giao phu tế mịch phong hầu.
Dịch nghĩa:
NỖI OÁN TRONG PHÒNG THE – VƯƠNG XƯƠNG LINH
Người thiếu phụ nơi phòng khuê không biết buồn,
Ngày xuân trang điểm đẹp đẽ bước lên lầu biếc.
Chợt thấy màu dương liễu tốt tươi ở đầu đường,
Bỗng hối hận đã để chồng đi tòng quân để kiếm phong hầu.
Dịch thơ:
NỖI OÁN TRONG PHÒNG THE – VƯƠNG XƯƠNG LINH
Thiếu phụ phòng the chẳng biết sầu
Ngày xuân trang điểm bước lên lầu
Đầu đường chợt thấy tơ xanh liễu
Tiếc để chàng đi kiếm tước hầu.
NHÀ THƠ LÍ KÌ
Lý Kỳ là người quận Triệu (nay thuộc huyện Triệu, tỉnh Hà Bắc, Trung Quốc), về sau sống tại Dĩnh Dương (nay thuộc Đăng Phong, tỉnh Hà Nam, Trung Quốc) .
Năm 735 đời Đường Huyền Tông (ở ngôi: 712-756), ông thi đỗ Tiến sĩ, từng giữ chức Tân Hương úy, nhưng mãi về sau vẫn không được thăng chức.
Về già, ông từ quan trở về vườn cũ ở Đông Xuyên ẩn cư.
Lý Kỳ mất khoảng năm 751, thọ khoảng 61 tuổi.
Sinh thời, Lý Kỳ thường giao du với các thi nhân như Vương Xương Linh, Vương Duy, Cao Thích và các nhà sư nổi tiếng. Ngoài vai trò là một nhà thơ [3], ông còn là một "hiệp khách thích đạo thuật, học luyện đan, và hay bàn đạo lý nhà Phật (điểm này hơi giống Vương Duy)". Và dưới con mắt ông, "các nhân vật anh hùng thường là hiệp khách; và kẻ sĩ là người không bị gò bó, có phong cách khải khái, hào phóng (điểm này hơi giống Lý Bạch)"[1].
Sự nghiệp văn chương
Do giao du với các nhà sư, nên Lý Kỳ hay bàn đạo lý nhà Phật trong thơ. Ông cũng có làm thơ về biên tái, tuy ít, nhưng rất được lưu truyền. Đó là vì thơ ông lưu loát, phóng túng, khẳng khái, thê lương, và phát huy được đặc điểm của thể ca hành . Đáng chú ý có bài "Cổ ý" (Ý xưa), "Cổ tòng quân hành" (Bài hành về việc tòng quân ngày xưa)...Lý Kỳ còn giỏi dùng cổ thi năm chữ và bảy chữ để gửi gắm tình cảm và xây dựng hình tượng nhân vật. Như các bài "Tặng Trương Húc", "Biệt Lương Hoàng", "Tống Trần Chương Phủ", "Tống Lưu Thập"... Trước khi tiểu thuyết Trung Quốc phát triển, những bài thơ phác họa nhân vật như thế, quả là rất đặc sắc và có ý nghĩa .
古意 – 李頎
男兒事長征,
少小幽燕客。
賭勝馬蹄下,
由來輕七尺。
殺人莫敢前,
鬚如蝟毛磔。
黃雲隴底白雪飛,
未得報恩不能歸。
遼東小婦年十五,
慣彈琵琶解歌舞。
今為羌笛出塞聲,
使我三軍淚如雨。
Phiên âm:
C Ổ Ý – LÍ KÌ (THỊNH ĐƯỜNG)
Nam nhi sự trường chinh,
Thiếu tiểu U Yên khách.
Đổ thắng mã đề hạ,
Do lai khinh thất xích.
Sát nhân mạc cảm tiền,
Tu như vị mao trách.
Hoàng vân lũng để bạch tuyết phi,
Vị đắc báo ân bất năng quy.
Liêu Đông tiểu phụ niên thập ngũ,
Quán đàn tỳ bà giải ca vũ.
Kim vi Khương địch xuất tái thanh,
Sử ngã tam quân lệ như vũ.
Dịch nghĩa:
Ý XƯA – LÍ KÌ
Nam nhi phụng sự chiến trường dài hạn;
là các người trẻ tuổi ở U, Yên.
Liều thắng hạ địch thủ nằm dưới vó ngựa,
do coi nhẹ tấm thân bảy thước của mình.
Giết người [bình thường, là điều] trước kia không dám,
râu ria [lúc hăng dựng lên] như lông dím.
Phi ngựa [đuổi địch] nơi thung lũng, dưới mây vàng, tuyết đổ;
chưa báo đáp được ơn vua [thề] chưa trở về.
Có một cô bé tuổi vừa mười lăm ở Liêu Đông,
gảy đàn tỳ bà hay, ca múa giỏi.
Hôm nay thổi sáo Khương bài “Xuất tái”,
làm ba quân chúng tôi rơi lệ như mưa.
Dịch thơ:
Ý XƯA – LÍ KÌ
Nam chinh chiến góp phần
Khách U Yên tuổi trẻ
Dưới ngựa thắng bao lần
Tính mạng thường coi nhẹ
Giết người ai dám đây
Râu như lông nhím khoẻ
Núi vàng, mây trắng bay
Chưa đền ơn, chửa về ngay
Cô gái Liêu Đông mười lăm tuổi
Thạo tì bà, đều giỏi múa ca
Nay thổi sáo Khương bài “Xuất tái”
Khiến ba quân lệ tựa mưa sa.
白日登山望烽火,
黃昏飲馬傍交河。
行人刁斗風沙暗,
公主琵琶幽怨多。
野雲萬里無城郭,
雨雪紛紛連大漠。
胡雁哀鳴夜夜飛,
胡兒眼淚雙雙落。
聞道玉門猶被遮,
應將性命逐輕車。
年年戰骨埋荒外,
空見葡萄入漢家。
Phiên âm:
CỔ TÒNG QUÂN HÀNH – LÍ KÌ
Bạch nhật đăng sơn vọng phong hoả
Hoàng hôn ẩm mã bàng Giao hà
Hành nhân điêu đẩu phong sa ám
Công chúa tỳ bà u oán đa!
Dã doanh vạn lý vô thành quách
Vũ tuyết phân phân liên đại mạc
Hồ nhạn ai minh dạ dạ phi
Hồ nhi nhãn lệ song song lạc.
Văn đạo Ngọc Môn do bị già
Ứng tương tính mệnh tống Khinh xa
Niên niên chiến cốt mai hoang ngoại
Không kiến bồ đào nhập Hán gia.
Dịch nghĩa:
BÀI CA HÀNH QUÂN – LÍ KÌ
Ban ngày lên núi nhìn ngọn lửa báo hiệu,
Hoàng hôn thì cho ngựa uống nước bên bờ sông Giao hà.
Người đi nghe tiếng mõ khua trong gió cát mịt mờ.
U oán thay tiếng đàn tỳ bà của nàng công chúa!
Doanh trại ở nơi hoang dã nghìn dặm không có thành quách.
Mưa tuyết ùn ùn bao phủ khắp miền sa mạc rộng lớn.
Chim nhạn đất Hồ đêm đêm bay kêu lên bi thảm,
Người đất Hồ đôi mắt lệ chảy hai hàng.
Nghe nói ải Ngọc Môn quan vẫn còn bị vây khốn.
Có lẽ phải bỏ tính mệnh mà đi theo tướng Khinh xa.
Năm này qua năm khác, xương chiến sĩ vẫn chôn vùi ở ngoài nơi hoang dã,
Chỉ thấy những trái nho đem về cho nhà Hán mà thôi.
Dịch thơ:
BÀI CA HÀNH QUÂN – LÍ KÌ
Ban ngày lên núi nhìn lửa hiệu
Hoàng hôn ngựa uống nước Giao Hà
Người đi tiếng mõ trong cát bụi
U oán thay tiếng đàn tì bà
Doanh trại nghìn dặm không thành quách
Mưa tuyết ùn sa mạc bao la
Nhạn đất Hồ đêm kêu bi thảm
Người Hồ đôi mắt lệ tuôn sa
Nghe nói Ngọc Môn bị vây hãm
Đành bỏ mạng theo tướng Khinh xa
Xương chiến sĩ vùi nơi hoang dã
Trái nho đem về cho Hán gia.