ĐƯỜNG THI – CHỦ ĐỀ BIÊN TÁI
(Kì 7)
TS. Nguyễn Ngọc Kiên chọn dịch và giới thiệu thơ
胡風略地燒連山,
碎葉孤城未下關。
山頭烽子聲聲叫,
知是將軍夜獵還。
Phiên âm:
TÁI THƯỢNG KHÚC - NHUNG DỤC
Hồ phong lược địa thiêu Liên Sơn,
cô thành vị hạ quan.
Sơn đầu phong tử thanh thanh khiếu,
Tri thị tướng quân dạ liệp hoàn.
Dịch nghĩa:
KHÚC HÁT NGOÀI BIÊN ẢI – NHUNG DỤC
Gió Hồ thổi vào đài phong hoả ở Liên Sơn
Thành Toái Diệp trơ vơ cửa chưa đóng
Tiếng ngọn lửa ở đài phong hoả đầu núi đang reo phần phật
Biết rằng đó là lúc tướng quân đi săn về
Dịch thơ:
KHÚC HÁT NGOÀI BIÊN ẢI – NHUNG DỤC
Gió Hồ thổi Liên Sơn phong đài
Toái Diệp cô thành cửa vẫn cài
Phần phật lửa reo nơi đầu núi
Biết tướng đi săn về đấy thôi.
塞上曲 - 周朴
一陣風來一陣沙
有人行處沒人家
黃河九曲冰先合
紫塞三春不見花
Phiên âm:
TÁI THƯỢNG KHÚC – CHU PHÁC
Nhất trận phong lai nhất trận sa
Hữu nhân hành xứ, một nhân gia
Hoàng hà cửu khúc băng tiên hợp
Tử tái tam xuân bất kiến hoa
Chú thích: 1/ Hoàng hà cửu khúc, quan ải đóng trên thượng nguồn sông Hoàng hà, khi đó mới là chin con suối nhỏ. 2/ tử tái, quan ải đời Tần khởi xây bằng gạch màu tía, đời Đường vẫn giữ như vậy.
Dịch nghĩa:
KHÚC HÁT NGOÀI BIÊN ẢI – CHU PHÁC
Mỗi trận gió tới là một trận bão cát.
Chỉ có người tới [bổ sung quân số] quan ải chứ không có người được về nhà,
Chín khúc suối [thượng nguồn] sông Hoàng hà đã đóng băng,
Đã ba năm nay ở quan ải màu tía này chưa có hoa nở.
Dịch thơ:
KHÚC HÁT NGOÀI BIÊN ẢI (KÌ I)
Bão cát cùng mỗi trận phong ba
Người đi quan ải, chẳng về nhà
Hoàng hà chín khúc băng đông đặc
Ải tía ba năm chẳng nở hoa.
塞上曲其一 李白
大漢無中策,
匈奴犯渭橋。
五原秋草綠,
胡馬一何驕。
Phiên âm:
TÁI THƯỢNG KHÚC KÌ I – LÍ BẠCH
Đại Hán vô trung sách,
Hung Nô phạm .
thu thảo lục,
Hồ mã nhất hà kiêu.
Dịch nghĩa:
KHÚC HÁT NGOÀI BIÊN ẢI (KÌ I) – LÍ BẠCH
Nhà Đại Hán mưu chước không giỏi
Quân Hung Nô phạm đến Vị Kiều
Gò Ngũ Nguyên cỏ thu xanh
Ngựa rợ Hồ sao hung hăng quá thế.
Dịch nghĩa:
KHÚC HÁT NGOÀI BIÊN ẢI (KÌ I)
Đại Hán không mưu lược
Hung Nô chiếm Vị Kiều
Ngũ Nguyên cỏ thu biếc
Ngựa Hồ sao quá kiêu!
Hán quân không chước giỏi
Cầu Vị rợp Hung Nô
Thu thảo năm gò biếc
Kiêu hùng thay ngựa Hồ
Nguồn: Đỗ Bằng Đoàn, Bùi Khánh Đản, Đường thi trích dịch, Trung tâm nghiên cứu Quốc học, NXB Văn học, 2006
Khi bạn so găng với cuộc đời, cuộc đời luôn luôn thắng (Andrew Matthews)
Đại Hán không còn chước,
Hung Nô đánh Vị Kiều.
Ngũ nguyên thu cỏ biếc,
Hồ mã sao mà kiêu!
Quân Hán thiếu chước hay,
Hung Nô vượt cầu ngay.
Ngũ Nguyên cỏ thu biếc,
Ngựa Hồ hung hãn thay.
Hán gia mưu chước không hay,
Hung Nô đã tiến vào ngay Vị Thành.
Ngũ Nguyên sắc cỏ thu xanh,
Ngựa Hồ sao lại hoành hành thế ru?
寒上曲 二首其一 - 戴叔倫
漢家旌幟滿陰山
不遣胡兒匹馬還
愿得此身長報國
何須生入玉門關
TÁI THƯỢNG KHÚC KÌ I – ĐỚI THÚC LUÂN
Hán gia tinh xí mãn Âm sơn
Bất khiển Hồ nhi thất mã hoàn
Nguyện đắc thử thân trường báo quốc
Hà tu sinh nhập Ngọc Môn quan
Chú thích: 1/ Âm sơn, tên núi, nay ở trung bộ Nội Mông. 2/ Ngọc Môn quan, tên cửa ải trọng yếu trên đường buôn bán tơ lụa sang các nước phía tây nước Tàu, cố chỉ nay tại xã Sa châu, huyện Đôn Hoàng tỉnh Cam Túc. 2/ Hán, thi nhân đời Đường muốn viết về Đường, thường phải nói tránh sang Hán để được yên thân.
Dịch nghĩa:
KHÚC CA NGOÀI BIÊN ẢI (KÌ I) – ĐỚI THÚC LUÂN
Bài 1/2
Cờ xí nhà Hán cắm đầy trên núi Âm,
khiến không một con ngựa nào của người Hồ dám trở lại.
Nếu nguyện đem thân báo đền tổ quốc lâu dài,
thì [nơi đâu chẳng được] đâu cần cứ phải tới Ngọc Môn quan !
Dịch thơ:
KHÚC CA NGOÀI BIÊN ẢI (KÌ I)
Nhà Hán tinh kì rợp Âm Sơn
Ngựa Hồ muốn lại sợ hết hồn
Nếu nguyện đem thân thề báo quốc
Đâu cần phải tới ải Ngọc Môn!
Bản dịch của Nguyễn Minh
Trên núi Âm cắm đầy cờ Hán
Ngựa Hồ đâu còn dám quay vào
Nguyện thân báo quốc nơi nao
Ngọc Môn đâu cứ phải vào mới cam
Bản dịch của Phụng Hà:
Núi Âm cờ Hán cắm đầy
Ngựa Hồ chẳng dám quấy rầy nữa đâu
Nguyện thân báo quốc dài lâu
Lọ cần phải đến địa đầu Ngọc Môn.
Bản dịch của Lâm trung Phú
Cờ Hán núi Âm bay dập dồn
Ngựa Hồ muốn lại sợ bay hồn !
Nguyện dài lâu báo đền ơn nước
Đâu phải cần vào ải Ngọc Môn !!!
Trên núi Âm cắm đầy cờ Hán
Ngựa Hồ đâu còn dám quay vào
Nguyện thân báo quốc nơi nao
Ngọc Môn đâu cứ phải vào mới cam
三戍漁陽再渡遼,
騂弓在臂劍橫腰。
匈奴似若知名姓,
休傍陰山更射雕。
Tái hạ khúc kỳ 1 – Trương Trọng Tố
Tam thú Ngư Dương tái độ Liêu,
Tinh cung tại tí kiếm hoành yêu.
Hung Nô tự nhược tri danh tính,
Hưu bạng Âm Sơn cánh xạ điêu.
Dịch nghĩa
Ba lần đi trấn Ngư Dương, lại theo dòng sông Liêu mà đến,
Cưỡi ngựa lông đỏ, lưng đeo cung, ngang hông đeo kiếm đi tuần.
Giặc Hung Nô có lẽ đã nghe danh tiếng,
Nên chỉ nghỉ ngơi bên mạn bắc núi mà bắn chim điêu chơi.
Ba trấn Ngư Dương ngược sông Liêu
Cưỡi ngựa hồng cung kiếm mang theo
Hung Nô dường đã nghe danh tiếng
Bên bờ mạn bắc bắn chim điêu
Vượt sông Liêu, Ngư Dương đồn cũ
Kiếm ngang lưng cung nỏ trên tay
Hung Nô biết đến tên này
Âm Sơn không dám tụ bầy săn điêu.
Gửi bởi Lâm Xuân Hương ngày 15/02/2016 02:35
Ba lần đóng Ngư Dương, Liêu tới
Cưỡi ngựa hồng, khí giới đeo quanh
Hung Nô dường đã nghe danh
Núp bên bắc núi, thôi đành bắn chim
獵馬千行雁幾雙,
燕然山下碧油幢。
傳聲漠北單于破,
火照旌旗夜受降。
Tái hạ khúc kỳ 2
Liệp mã thiên hàng nhạn kỷ song,
Yên Nhiên sơn hạ bích du tràng.
Truyền thanh Mạc Bắc Thiền Vu phá,
Hoả chiếu tinh kỳ dạ Thụ Hàng.
Nhạn vài đôi vạn bầy ngựa chiến
Núi Yên Nhiên lưu chuyển bích du
Tin truyền bắc phá Thiền Vu
Quân kỳ rực lửa đêm thu Thụ Hàng.
朔雪飄飄開雁門,
平沙曆亂卷蓬根。
功名恥計擒生數,
直斬樓蘭報國恩。
Tái hạ khúc kỳ 3
Sóc tuyết phiêu phiêu khai Nhạn Môn,
Bình sa lịch loạn quyển bồng căn.
Công danh sỉ hử cầm sinh sổ,
Trực trảm Lâu Lan báo quốc ân.
Dịch nghĩa
Tuyết phương bắc rơi xuống ải Nhạn Môn tới tấp,
Cát trên đất bằng bay loạn xạ, cuốn phăng cả gốc cỏ bồng.
Nghĩ tới công danh mà xấu hổ vì bắt nhiều tù binh quá,
Từ nay sẽ chém thật nhiều giăc Lâu Lan để báo đền ơn nước.
Tuyết bay bay Nhạn quan rộng mở
Sa mạc gào bứt rễ ngọn bồng
Công danh thẹn với non sông
Đầu Lâu Lan chém, dâng công nước nhà.
Tuyết bắc rơi dày ải Ngọc Môn
Cát bay loạn xạ cuốn cỏ bồng
Công danh thẹn bắt nhiều binh tướng
Chém hết Lâu Lan để dâng công
Gửi bởi Lâm Xuân Hương ngày 15/02/2016 02:41
Ải Nhạn Môn tuyết rơi tới tấp
Cát đất bằng cuốn gốc cỏ bồng
Buồn vì bắt địch giam cầm
Từ nay chém.sạch Lâu Lan báo đền
隴水潺湲隴樹秋,
征人到此淚雙流。
鄉關萬里無因見,
西戍河源早晚休。
Tái hạ khúc kỳ 4
Lũng thuỷ sàn viên Lũng thụ thu,
Chinh nhân đáo thử lệ song lưu.
Hương quan vạn lý vô nhân kiến,
Tây thú Hà nguyên tảo vãn hưu.
Dịch nghĩa
Ở đất Lũng này, sông chảy lừ đừ, cây cối đã vào thu,
Lính xa nhà ai đến đây cũng buồn rơi hai hàng lệ.
Quê hương xa vạn dặm không cách gì thấy được,
Trấn thủ phương tây đầy kênh rạch này không biết đến bao giờ!
Cây vào thu, Lũng ba róc rách
Chinh nhân qua nước mắt đoanh tròng
Quê nhà vạn dặm xa xăm
Nguồn Hoàng Hà giữ bao năm mõi mòn.
Đất Lũng sông chậm cây đã thu
Lính chiến nhà quê lệ ướt mờ
Cố hương vạn dặm bao xa cách
Trấn thủ phương Tây đến bao giờ.
Gửi bởi Lâm Xuân Hương ngày 15/02/2016 02:46
Lũng nhiều sông, thu về cây uá
Lính đến đây lệ ứa hai hàng
Quê hương vạn dặm quan san
Đóng miền sông nước biết năm nào về
陰磧茫茫塞草肥,
桔槔烽上暮雲飛。
交河北望天連海,
蘇武曾將氣節歸。
Tái hạ khúc kỳ 5
Âm thích mang mang tái thảo phì,
Kết cao phong thượng mộ vân phi.
Giao hà bắc vọng thiên liên hải,
Tô Vũ tằng tương khí tiết quy.
Đất thảo nguyên mênh mông cỏ béo
Ngọn hoả phong gọi réo mây chiều
Sông Giao, trời biển tịch liêu
Tiết cao Tô Vũ quy triều thơm danh.
Thảo nguyên mênh mông cỏ béo phì
Ngọn hoả phong gọi mây chiều đi
Giao hà bắc vọng trời liền biển
Tô Vũ cùng khí tiết về
北海陰風動地來,
明君祠上望龍堆。
髑髏皆是長城卒,
日暮沙場飛作灰。
Tái hạ khúc kỳ 2
Bắc Hải âm phong động địa lai,
Minh quân từ thượng vọng .
Độc lâu giai thị Trường Thành tốt,
Nhật mộ sa trường phi tác khôi.
Gió âm chấn động từ Bắc Hải
Vua thượng đàn vọng mãi Long Đôi
Trường Thành xác chết, đầu lâu
Ngày đêm chiến địa khói tro không ngừng.
出塞其二 – Xuất tái, Vương Xương Linh
騮馬新跨白玉鞍,
戰罷沙場月色寒。
城頭鐵鼓聲猶震,
匣裡金刀血未乾。
Xuất tái kỳ 2
tân khoá bạch ngọc an,
Chiến bãi sa trường nguyệt sắc hàn.
Thành đầu thiết cổ thanh do chấn,
Hạp lý kim đao huyết vị can.
Dịch nghĩa
Ngựa hoa lưu mới cưỡi, yên ngọc trắng,
Sa trường sau cuộc chiến, mặt trăng sắc lạnh lẽo.
Ở đầu thành tiếng trống sắt như còn vang động,
Đao mạ vàng trong bao cò
Gửi bởi Vanachi ngày 30/12/2006 19:12
Yên bạch ngọc ngựa tử lưu
Sa trường ngưng chiến trăng treo lạnh lùng
Đầu thành trống trận còn vang
Máu tươi còn đẫm đao vàng trong bao.
Lộ tòng kim dạ bạch,
Nguyệt thị cố hương minh