Đường Thi - Chủ Đề Biên Tái 3 -
ĐƯỜNG THI – CHỦ ĐỀ BIÊN TÁI
(Kì 5)
TS. Nguyễn Ngọc Kiên chọn dịch và giới thiệu thơ
Lí Bạch
塞下曲其四
白馬黃金塞,
雲砂繞夢思。
那堪愁苦節,
遠憶邊城兒。
螢飛秋窗滿,
月度霜閨遲。
摧殘梧桐葉,
蕭颯沙棠枝。
無時獨不見,
淚流空自知。
Phiên âm:
TÁI HẠ KHÚC KÌ 4 – Lí Bạch
Bạch mã Hoàng Kim tái,
Vân sa nhiễu mộng tư.
Na kham sầu khổ tiết,
Viễn ức biên thành nhi.
Huỳnh phi thu song mãn,
Nguyệt độ sương khuê trì.
Tồi tàn ngô đồng diệp,
Tiêu táp sa đường chi.
Vô thời độc bất kiến,
Lệ lưu không tự tri.
Dịch nghĩa:
TÁI HẠ KHÚC KÌ 4
Ngựa trắng phi trên ải Hoàng Kim
Mây cát cuốn theo giấc mộng
Sá kể chi nỗi đau khổ
Xa nhớ trẻ ngoài biên cương
Mùa thu, đom đóm bay đầu cửa sổ
Sương lạnh, trăng chầm chậm qua buồng the
Lá ngô đồng tàn rụng
Cành sa đường xác xơ
Trông ngóng luôn nhưng nào có thấy
Một mình tuôn lệ âm thầm
Dịch thơ:
KHÚC HÁT DƯỚI ẢI (KÌ 4)
Ngựa trắng phi Hoàng ải
Giấc mộng theo cát mây
Sá kể gì đau khổ
Nhớ trẻ biên ải này
Thu, đóm qua cửa sổ
Sương lạnh trăng qua đây
Lá ngô đồng tàn rụng
Cành sa đường lá bay
Trông ngóng nào có thấy
Một mình lệ tuôn đầy!
塞虜乘秋下,
天兵出漢家。
將軍分虎竹,
戰士臥龍沙。
邊月隨弓影,
胡霜拂劍花。
玉關殊未入,
少婦莫長嗟。
Dịch thơ:
TÁI HẠ KHÚC KÌ 5
Tái lỗ thừa thu há,
Thiên binh xuất Hán gia.
Tướng quân phân hổ trúc,
Chiến sĩ ngọa Long Sa.
Biên nguyệt tùy cung ảnh,
Hồ sương phất kiếm hoa.
Ngọc Quan thù vị nhập,
Thiếu phụ mạc trường ta.
Dịch nghĩa:
KHÚC HÁT DƯỚI ẢI (KÌ 5)
Gặp tiết thu giặc ngoài ải tràn xuống
Binh trời ra từ nhà Hán
Tướng quân chi ấn hổ trúc
Binh sĩ nằm lăn trên bãi Bạch Lonh Đôi
Trăng ngoài ải theo lẩn bóng cung
Sương đất Hồ thấm ướt lưỡi kiếm
Ngọc Quan chưa vào được
Vợ trẻ chớ nên than dài
Dịch thơ:
KHÚC HÁT DƯỚI ẢI
Thu giặc tràn xuống ải
Nhà Hán xuất binh trời
Tướng nhận ấn hổ trúc
Chiến sĩ nằm Long Đôi
Trăng ải, cung theo ảnh
Sương Hồ ướt kiếm thôi
Ngọc Quan chưa vào được
Thiếu phụ chớ than dài.
烽火動沙漠,
連照甘泉雲。
漢皇按劍起,
還召李將軍。
兵氣天上合,
鼓聲隴底聞。
橫行負勇氣,
一戰靜妖氛。
Phiên âm:
HẠ TÁI KHÚC KÌ 6
Phong hoả động sa mạc,
Liên chiếu Cam Tuyền vân.
Hán hoàng án kiếm khởi,
Hoàn triệu Lý tướng quân.
Binh khí thiên thượng hợp,
Cổ thanh lũng để văn.
Hoành hành phụ dũng khí,
Nhất chiếm tĩnh yêu phân.
Dịch nghĩa
KHÚC HÁT DƯỚI ẢI (KÌ 6)
Khói lửa rung động ngoài sa mạc
Soi đến tận mây Cam Tuyền
Vua Hán chống kiếm dậy
Lại vời Lý tướng quân
Khí quân tụ cả trên trời
Tiếng trống vang dậy ngoài cõi
Tung hoành đầy khí thế
Yêu quái một trận dẹp tan
Dịch thơ:
KHÚC HÁT DƯỚI ẢI (KÌ 6)
Khói lửa rung sa mạc
Soi mây Cam Tuyền lan
Vua Hán chống kiếm dậy
Lại vời Lý tướng quân
Trên trời khí quân tụ
Ngoài cõi tiếng trống vang
Tung hoành đầy khí thế
Yêu quái một trận tan.
SẦM THAM (715-770)
Sầm Tham là người Nam Dương, tỉnh Hà Nam (Trung Quốc). Cha ông từng làm Thứ sử (hai lần), và đã qua đời lúc Sầm Tham còn nhỏ.
Nhà nghèo, ông phải tìm cách tự học. Năm 744 đời Đường Huyền Tông (ở ngôi: 712-756), Sầm Tham thi đỗ Tiến sĩ lúc 29 tuổi, được bổ làm một chức quan nhỏ là Binh tào Tham quân.
Năm 749, ông theo tướng Cao Tiên Chi đến An Tây (ra biên ải lần thứ nhất), nhưng chẳng bao lâu lại trở về kinh đô Trường An.
Năm 754, ông ra biên ải lần thứ hai, làm Phán quan cho Tiết độ sứ An Tây là Phong Thường Thanh. Thời kỳ này, ông sáng tác rất nhiều thơ về chủ đề "biên tái".
Sau loạn An Sử (755-763), từ Tửu Tuyền (nay thuộc Cam Túc), Sầm Tham đến Phượng Tường (nay thuộc Bảo Kê, Thiểm Tây) là nơi Đường Túc Tông (ở ngôi: 756-762) đang ở. Được bạn thân là nhà thơ Đỗ Phủ và Phòng Quân tiến cử, ông được giữ chức Hữu bổ khuyết.
Thời Đường Đại Tông (ở ngôi: 762-779), Sầm Tham lại ra biên ải (lần thứ ba). Năm 766, ông được bổ làm Thứ sử Gia Châu (nên ông xưng là Sầm Gia Châu), nhưng sau đó bị bãi chức .
Lâm cảnh đói nghèo, năm 770, Sầm Tham mất trong quán trọ tại Thành Đô (nay là tỉnh lỵ tỉnh Tứ Xuyên) lúc 55 tuổi.
Tác phẩm của ông để lại có Sầm Gia Châu thi tập (Tập thơ của họ Sầm ở Gia Châu) gồm 8 quyển.
(Theo Từ điển mở Kiwipedia tiếng Việt)
走馬西來欲到天,
辭家見月兩回圓。
今夜不知何處宿,
平沙萬里絕人煙。
Phiên âm:
THÍCH TRUNG TÁC
tây lai dục đáo thiên,
Từ gia kiến nguyệt lưỡng hồi viên.
Kim dạ bất tri hà xứ túc,
Bình sa vạn lý tuyệt nhân yên.
Dịch nghĩa:
VIẾT TRONG SA MẠC
Giục ngựa chạy về phía Tây, muốn đến tận chân trời
Rời nhà ra đi, đã thấy trăng hai lần tròn
Đêm nay không biết ngủ ở đâu
Trên sa mạc muôn dặm, tuyệt không thấy bóng người và khói bếp.
Dịch thơ:
CẢM TÁC TRONG SA MẠC
Ngựa sải về Tây muốn tới trời
Xa nhà chốc đã hai mùa rồi
Đêm nay chẳng biết tìm đâu ngủ
Vạn dặm cát xa chẳng khói, người.
見渭水思秦川
渭水東流去,
何時到雍州.
憑添兩行淚,
寄向故園流.
Phiên âm:
KIẾN VỊ THỦY TƯ TẦN XUYÊN
Vị thuỷ đông như khứ,
Hà thời đáo Ung Châu.
Bằng thiêm lưỡng hàng lệ,
Ký hướng cố viên lưu.
Dịch nghĩa:
THẤY SÔNG VỊ NHỚ TẦN XUYÊN
Song Vị chảy về đông
Bao giờ tới châu Ung
Nếu chở thêm được hai dòng lệ
Xin gửi đưa giùm về quê hương
Dịch thơ:
THẤY SÔNG VỊ NHỚ TẦN XUYÊN
Sông Vị chảy về Đông
Bao giờ tới châu Ung
Nếu thêm đôi dòng lệ
Xin gửi về cố hương.
故園東望路漫漫,
雙袖龍鐘淚不乾。
馬上相逢無紙筆,
憑君傳語報平安。
Phiên âm:
PHÙNG NHẬP KINH SỨ
Cố viên đông vọng lộ man man,
Song tụ Long Chung (1) lệ bất can.
Mã thượng tương phùng vô chỉ bút,
Bằng quân truyền ngữ báo bình an.
Dịch nghĩa:
GẶP SỨ GIẢ VÀO KINH
Ngóng về hướng đông nơi quê nhà, đường dài hun hút
Hai tay áo thõng, nước mắt không cạn
Ở trên lưng ngựa gặp nhau, không có bút trong tay
Nhờ anh gửi lời nhắn tin báo rằng tôi vẫn được bình yên.
Dịch thơ:
GẶP SỨ GIẢ VÀO KINH
Đông ngóng quê nhà, chốn mênh mang
Hai tay áo thõng, nước mắt giàn
Gặp trên lưng ngựa không giấy bút
Nhắn hộ rằng tôi vẫn bình an.
(Kì 6)
TS. Nguyễn Ngọc Kiên chọn dịch và giới thiệu thơ
Số trước chúng tôi đã giới thiệu một số bài TÁI THƯỢNG KHÚC và TÁI HẠ KHÚC (KHÚC HÁT NƠI BIÊN TÁI) của Lí Bạch, Vương Xương Linh. Số này chúng tôi tiếp tục giới thiệu chùm bốn bài TÁI HẠ KHÚC của Lư Luân (Trung Đường).
Lư Luân 盧綸 (748-800) tự Doãn Ngôn 允言, người Hà Trung (nay là tỉnh Sơn Tây). Trong thời Đại Lịch, đời Đường Đại Tông, thi nhiều lần không đậu, sau có người tiến cử ra làm quan chức uý tại Văn Khanh, lần lần thăng đến chức Hộ bộ lang trung, giám sát ngự sử. Tham gia quân đội nhiều năm, thơ ông phóng khoáng, quan tâm nhiều đến đời sống nhân dân.
Lư Luân là một trong mười tài tử thời Đại Lịch (chín người kia là Cát Trung Phu, Hàn Hoành, Tiền Khởi, Tư Không Thự, Miêu Phát, Thôi Động, Cảnh Vi, Hạ Hầu Thẩm, Lư Đoan).
塞 下 曲 四 首 之 一 - 盧 綸
鷲 翎 金 僕 姑
燕 尾 繡 蝥 弧
獨 立 揚 新 令
千 營 共 一 呼
TÁI HẠ KHÚC (BỐN BÀI KÌ I)– LƯ LUÂN
Thứu linh kim bộc cô
Yến vĩ tú miêu hồ
Độc lập dương tân lệnh
Thiên doanh cộng nhất hô
Dịch nghĩa :
KHÚC HÁT MIỀN BIÊN TÁI (KÌ 1)– LƯ LUÂN
Đầu tiên là phát lệnh, kế tiếp là lập công, kế nữa là thoái địch, cuối cùng là ca khúc khải hoàn.
Mủi tên làm bằng lông con chim thứu
Cây cờ thêu bằng đuôi con yến
Đứng oai nghi lẫm lẫm ra hiệu lệnh
Ngàn doanh trại cùng dạ rân
Dịch thơ:
KHÚC HÁT MIỀN BIÊN TÁI (KÌ 1)– LƯ LUÂN
Tên Kim Bộc lông thứu
Cờ đuôi én rõ ràng
Một mình truyền lệnh mới
Nghìn trại cùng hô vang
塞 下 曲 四 首 之 二 - 盧 綸
林 暗 草 驚 風
將 軍 夜 引 弓
平 明 尋 白 羽
沒 在 石 稜 中
TÁI HẠ KHÚC KÌ 2 – LƯ LUÂN
Lâm ám thảo kinh phong
Tướng quân dạ dẫn cung
Bình minh tầm bạch vũ
Một tại thạch lăng trung
Dịch nghĩa:
KHÚC HÁT MIỀN BIÊN TÁI (KÌ 2)– LƯ LUÂN
Trong rừng u ám cỏ lay động theo chiều gió
Tướng quân đêm tối dương cung bắn ra
Bình minh đi tìm dấu tên lạc
Tên ngập sâu vào góc đá tới tận chuôi
Dịch THƠ:
KHÚC HÁT MIỀN BIÊN TÁI (KÌ 2)– LƯ LUÂN
Rừng xám gió lay cỏ hải hùng
Tướng quân đêm tối vội giương cung .
Bình minh tìm dấu tên bay lạc
Ngập tới tận chuôi đá lạnh lùng
塞 下 曲 四 首 之 三 - 盧 綸
月 黑 雁 飛 高
單 于 夜 遁 逃
欲 將 輕 騎 逐
大 雪 滿 弓 刀
Phiên âm:
TÁI HẠ KHÚC KÌ 3 – LƯ LUÂN
Nguyệt hắc nhạn phi cao
Thiền vu dạ thuẫn đào
Dục tướng khinh kỵ trục
Đại tuyết mãn cung đao
Dịch nghĩa:
KHÚC HÁT MIỀN BIÊN TÁI (KÌ 3)– LƯ LUÂN
Trăng lờ mờ nhạn bay trên cao
Vua Hung nô ban đêm phải bỏ chạy trốn
(Tướng quân) muốn cưỡi khoái mã rượt theo
(Mà) cơn bão tuyết xuống rớt đầy cả cung đao
Dịch thơ :
KHÚC HÁT MIỀN BIÊN TÁI (KÌ 3)– LƯ LUÂN
Trăng mờ nhạn lượn tít trên cao
Vua Hung Nô đêm trốn vượt rào
Tướng quân muốn cưỡi ngựa rượt đuổi
Baõ tuyết rớt đầy cả cung đao.
塞 下 曲 四 首 之 四 - 盧 綸
野 幕 蔽 瓊 筵
羌 戎 賀 勞 旋
醉 和 金 甲 舞
雷 鼓 動 山 川
Phiên âm:
TÁI HẠ KHÚC KÌ 4 – LƯ LUÂN
Dã mạc tế quỳnh diên
Khương nhung hạ lao tuyền
Tuý hoà kim giáp vũ
Lôi cổ động sơn xuyên
Dịch nghĩa:
KHÚC HÁT MIỀN BIÊN TÁI (KÌ 4)– LƯ LUÂN
Ngoài hoang dã bày đầy những thức trân quý
Chúc mừng chiến công đuổi rợ Khương Nhung
Say xong để nguyên áo giáp nhảy múa
Tiếng trống vang dậy cả sông núi
Dịch thơ:
KHÚC HÁT MIỀN BIÊN TÁI (KÌ 4)– LƯ LUÂN
Thức quý bày ra khắp cánh đồng
Tiệc mừng chiến thắng bọn Khương Nhung
Uống say nguyên giáp cùng nhảy múa
Tiếng trống rền vang dậy núi sông.
Chú thích :
Tái hạ khúc: tên bản Nhạc Phủ, ca khúc ở miền biên tái
Kim Bộc Cô: tên tiễn
Miêu hồ: tên cờ
Thảo kinh phong: cỏ bị gió lay động
Bạch vũ: chỉ tiễn (cây tên)
Thạch lăng: góc hòn đá. Lý Quảng tướng đời Hán, đi săn thấy viên đá trong cỏ, tưởng cọp, bắn, ngập tận chuôi, nhìn lại là đá
Thiền vu: tên của người Hung nô gọi vua
Khinh kỵ: ngựa chạy mau
Quỳnh đình: đình tiệc trân quý
Khương Nhung: rợ tây Nhung bộ lạc Khương
Lạo tuyền: khao lạo, ca khải hoàn
Kim giáp: chiến bào