|
PhúVăn Tế Tướng Sĩ Trận Vong
#1 |
* đăng lúc 03:50:40 PM, Jun 09, 2017 * Số lần xem: 534
Văn Tế Tướng Sĩ Trận Vong
|
Giáo Sư Dương Quảng Hàm viết:
Bài Văn tế Văn tế tướng sĩ trận vong của quan Tiền quân Nguyễn Văn Thành đọc khi tế các tướng sĩ đã chết trận trong hồi theo vua Gia Long đánh dẹp các nơi. Trong bài, lấy cái cảm tình của một ông võ tướng mà dãi bày công trạng anh hùng của kẻ đã qua, thổ lộ tấm lòng thương tiếc của người còn lại, lời văn thống thiết, giọng văn hùng hồn, thật là một bài văn tế rất hay.
Văn tế Trận Vong Tướng Sĩ là một bài văn tế khác biệt hẳn các bài văn tế theo lề lối tán tụng ở điểm lòng thành thực, mối tình cảm của người viết đồng thời chính là người chủ động các công việc được kể đến trong bài.
***
Than ôi!
Trời Đông Phố vận ra sóc cảnh, trải bao phen gian hiểm mới có ngày nay;
Nước Lô Hà chảy xuống Lương Giang, nghĩ mấy kẻ điêu linh từ thuở nọ.
Cho hay sinh là ký mà tử là quy;
Mới biết mạng ấy yểu mà danh ấy thọ.
Xót thay!
Tình dưới viên mao;
Phận trong giới trụ.
Ba nghìn họp con em đất Bái, cung tên ngang dọc chí nam nhi;
Hai trăm vây bờ cõi non Kỳ, cơm áo nặng dày ơn cựu chủ.
Dấn thân cho nước, son sắt một lòng;
Nối nghĩa cùng thầy, tuyết sương mấy độ.
Kẻ thời theo cơ đích chạy sang miền khách địa, hăm hở mài nanh giũa vuốt chỉ non Tây thề chẳng đội trời chung;
Kẻ thời đón việt mao trở lại chốn sa cơ, dập dìu vén cánh dương vây, trong cõi Bắc quyết thu về đất cũ.
Nằm gai nếm mật chung nỗi ân ưu;
Mở suối bắc cầu riêng phần lao khổ.
Trước từng trải Xiêm La, Cao Miên về Gia Định mới dần ra Khánh - Thuận, đã mấy buổi sơn phong hải lễ, trời Cao - Quang soi rõ trí kiên trinh;
Rồi lại từ Đồ Bàn, Nam - Ngãi lấy Phú Xuân mà thẳng tới Thăng Long, biết bao phen vũ pháo vân thê, đất Lũng - Thục lăn vào nơi hiểm cố.
Phận truy tuỳ gẫm lại cũng cơ duyên;
Trường tranh đấu biết đâu là mệnh số?
Kẻ thời chen chân ngựa quyết giựt cờ trong trận, xót lẽ gan vàng mà mạng bạc, nắm lông hồng theo đạn lạc tên bay;
Kẻ thời bắt mui thuyền toan cướp giáo giữa đàng, thương thay phép trọng để thân khinh, phong da ngựa mặc bèo trôi sóng vỗ.
Hồn tráng sĩ biết bao miền minh mạc, mịt mù gió lốc, thổi dấu tha hương;
Mặt chinh phu không vẽ nét gian nan, lấp loé lửa trời soi chừng cổ độ.
Ôi!
Cùng lòng trung nghĩa khác số đoản tu;
Nửa cuộc công danh chia phần kim cổ.
Đoái là tiếc xương đồng da sắt, thanh bảo kiếm đã trăm rèn mới có, nợ áo cơm phải trả đến hình hài;
Những là khen dạ đá gan vàng, bóng bạch câu xem nửa phút như không, ơn dày đội cũng cam trong phế phủ.
Phận dù không gác khói đài mây;
Danh đã ngàn cây nội cỏ.
Thiết vì thuở theo cờ trước gió, thân chẳng quản màn sương đêm giá, những chờ xem cao thấp bức cân thường;
Tiếc cho khi lỡ bước giữa dòng, kiếp đã về cõi suối làng mây, nào kịp thấy ít nhiều ơn vũ lộ.
Vàng thượng đức hồi loan tháng trước, đoàn ứng nghĩa dẫu Quảng, Thuận, Nghệ, Thanh cũng vậy, giội ân quang gieo khắp xuống đèo Ngang;
Mà những người thượng trận ngày xưa, lớp tấu công từ Ngọ, Mùi, Thân, Dậu đến giờ, treo tính tự để nằm trong lá số.
Ngọn còi rúc nguyệt, nơi tẻ nơi vui;
Dịp trống phồn hoa, chốn tươi chốn ủ.
Đã biết rằng anh hùng thì chẳng quản, trăm trận một trường oanh liệt, cái sinh không, cái tử cũng là không;
Nhưng tiếc cho tạo hoá khéo vô tình, ngàn năm một hội tao phùng, phận thuỷ có, phận chung sao chẳng có?
Bản chức nay:
Vâng việc biên phòng;
Chánh miền viễn thú.
Dưới trướng nức mùi chung đỉnh, sực nhớ khi chén rượu rót đầu ghềnh;
Trong nhà rõ vẽ áo xiêm, chạnh nghĩ buổi tấm cừu vung trước gió.
Bâng khuâng kẻ khuất với người còn;
Tưởng tượng thầy đâu thì tớ đó.
Nền phủ định tới đây còn xốc nổi, vụ lòng một lễ, chén rượu thoi vàng;
Chữ tương đồng ngẫm lại vốn đinh ninh, khắp mặt ba quân, cờ đào nón đỏ.
Có cảm thông thì đến đó khuyên mời;
Dù linh thính hãy nghe lời dặn dỗ.
Buổi chinh chiến hoặc còn oan hay chẳng, cũng chớ nề kẻ trước người sau, hàng trên lên dưới, khen thưởng rồi sẽ tấu biểu chương cho;
Hội thăng bình đừng nghĩ rằng không, dù ai còn cha già mẹ yếu vợ goá con côi, an tập hết, cũng ban tồn tuất đủ.
Hồn phách đâu đều ngày tháng Thuấn, Nghiêu;
Hài cốt đó cũng nước non Thang, Vũ.
Cơ huyền diệu hoặc thăng trầm chưa rõ, thiêng thời về cố quận, để hương thơm lửa sáng, kiếp tái sinh lại nhận cửa tiền quân;
Niềm tôn thân dù sinh tử chớ nề, linh thì hộ cho Hoàng triều bể lặng sông trong, duy vạn kỷ chửa dời ngôi bảo tộ.
Thượng hưởng !
|
|
Ý kiến bạn đọcVui lòng login để gởi ý kiến. Nếu chưa có account, xin ghi danh. Văn Tế Tướng Sĩ Trận Vong Cổ Văn Việt Nam Văn tế tướng sĩ trận vong (năm 1802)
của Nguyễn Văn Thành
Văn tế tướng sĩ trận vong là một bài văn tế, tương truyền do Tiền Quân Nguyễn Văn Thành soạn và đọc trong buổi lễ truy điệu các tướng sĩ của mình đã mất trong cuộc chiến với quân Tây Sơn trong lịch sử Việt Nam [1].
Văn Tế Tướng Sĩ Trận Vong
Than ôi! Trời Đông Phố vận ra Sóc Cảnh [2], trải bao phen gian hiểm mới có ngày nay;
Nước Lô hà chảy xuống Lương giang [3], nghĩ mấy kẻ điêu linh [4] những từ thuở nọ,
Cho hay sinh là ký mà tử là quy;
Mới biết mệnh ấy yểu mà danh ấy thọ.
Xót thay! Tình dưới viên mao [5],
Phận trong giới trụ [6].
Ba nghìn họp con em đất Bái [7], cung tên ngang dọc chí nam nhi;
Hai trăm vây cờ cõi non Kỳ [8], cơm áo nặng dầy ơn cựu chủ.
Dấn thân cho nước, son sắt một lòng;
Nối nghĩa cùng thầy, tuyết sơn mấy độ.
Kẻ thời theo cơ đích [9] chạy sang miền khách địa, hăm hở mài nanh giũa vuốt, chỉ non Tây thề chẳng đội trời chung;
Kẻ thời đón việt mao [10] trở lại chốn sa cơ, dập dìu vén cánh nương vây, trông cõi Bắc quyết thu về đất cũ.
Nằm gai nếm mật [11],chung nỗi ân ưu;
Mở suối bắc cầu, riêng phần lao khổ.
Trước từng trải Xiêm La, Cao Miên về Gia Định mới dần ra Khánh, Thuận [12], đã mấy buổi sơn phong hải lễ [13], trời Cao, Quang [14] soi tỏ tấm kiên trinh,
Rồi lai từ Đồn Bàn, Nam, Ngãi lấy Phú Xuân mà thẳng tới Thăng Long [15], biết bao phen vũ pháo vân thê [16], đất Lũng, Thục [17] lăn vào nơi hiểm cố.
Phận truy tùy, ngẫm lại cũng cơ duyên; trường tranh đấu biết đâu là mệnh số.
Kẻ thời chen chân ngựa quyết giật cờ trong trận, xót lẽ gan vàng mà mệnh bạc, nắm lông hồng [18] theo đạn lạc tên bay;
Kẻ thời bắt mũi thuyền toan cướp giáo giữa dòng, thương thay phép trọng để thân khinh, phong da ngựa [19] mặc bèo trôi sóng vỗ.
Hồn tráng sĩ biết đâu miền minh mạc [20], mịt mù gió lốc, thổi dấu tha hương [21];
Mặt chinh phụ khôn vẽ nét gian nan, lập lòe lửa trời, soi chừng cổ độ [22].
Ôi! Cùng lòng trung nghĩa, khác số đoản tu [23], nửa cuộc công danh, chia phần kim cổ [24].
Đoái là tiếc xương đồng da sắt, thanh bảo kiếm đã trăm rèn mới có, nợ áo cơm phải trả đến hình hài;
Những là khen dạ đá gan vàng, bóng bạch câu [25] xem nửa phút như không, ơn dầy đội cũng cam trong phế phủ [26].
Phận dù không gác khói đài mây [27];
Danh đã dậy ngàn cây nội cỏ.
Thiết vì thuở theo cờ trước gió, thân chả quản ngàn sương đệm giá, những chờ xem cao thấp bức cân thường [28];
Tiếc cho khi lỡ bước giữa dòng, kiếp đã về cõi suối làng mây, nào kịp thấy ít nhiều ơn Vũ lộ [29].
Vâng thượng đức hồi loan [30] tháng trước, đoàn ứng nghĩa dẫn Quảng, Thuận, Nghệ, Thanh [31] cũng vậy, giội ân quang gieo khắp xuống đèo Ngang;
Mà những người từng thượng trận ngày xưa, dắp tấu công tự ngọ, vị, thân, dậu [32] đến giờ, treo tính tự để nằm trong lá số.
Ngọn còi rúc nguyệt, nơi tẻ nơi vui;
Dịp trống dồn hoa; chốn tươi chốn ủ.
Đã biết rằng anh hùng thì chẳng quản, trăm trận một trường oanh liệt, cái sinh không, cái tử cũng là không;
Nhưng tiếc cho tạo hóa khéo vô tình, ngàn năm một hội tao phùng, phân thủy có phận chung sao không có [33].
Bản chức nay,
vâng việc biên phòng,
Chạnh lòng niềm viễn thú.
Dưới trướng nức mùi chung đỉnh, sực nhớ khi chén rượu rót đầu ghềnh; trong nhà rõ vẻ áo xiêm, chạnh nghĩ buổi tấm cừu vung trước gió.
Bâng khuâng kẻ khuất với người còn;
tưởng tượng thầy đâu thì tớ đó.
Nền phủ định [34] tới đây còn xốc nỗi, vu lòng một lễ, chén rượu thoi vàng;
Chữ tương đồng ngẫm lại vốn đinh ninh, khắp mặt ba quân, cờ đào nón đỏ,
Có cảm thông thì tới đó khuyên mời;
Cù linh thinh hãy nghe lời dặn dỗ.
Buổi chinh chiến hoặc oan hay chẳng, cũng chớ nề kẻ trước người sau, hàng trên lớp dưới, khao thưởng rồi sẽ tấu biểu dương cho;
Hội thăng bình đừng có nghĩ rằng không, dù ai còn cha già, mẹ yếu, vợ góa, con côi, an tập hết, cũng ban tồn tuất đủ.
Hồn phách đâu đều ngày tháng Thuấn, Nghiêu [35];
Hài cốt đó cũng nước non Thang, Vũ [36].
Cơ huyền diệu [37] hoặc thâm trầm chưa rõ, thiêng thời về cố quận, để hương thơm lửa sáng, kiếp tái sinh lại nhận cửa tiền quân [38];
Niềm tôn thân dù sinh tử chớ nề, linh thời hộ Hoàng triều cho bể lặng sóng trong, duy vạn kỷ chửa dời ngôi bảo tộ [39].
Nguyễn Văn Thành
***
Chú thích cuối trang
▲ Có ý kiến cho rằng bài này do Nguyễn Huy Lượng viết, có ý kiến cho là của Đặng Đức Siêu, nhưng đều chưa có bằng chứng xác đáng (Hợp tuyển thơ văn Việt Nam tập III, Nxb Văn học, 1978, tr.592).
▲ Đông Phố là tên cũ thành Gia Định; Sóc Cảnh là cõi Bắc; ý nói từ Gia Định ra tới Bắc Hà (Hà Nội).
▲ Lô hà nhất danh là sông Tuyên, chẩy qua Tuyên Quang, rồi đổ xuống sông Nhị hà. Lương giang tức là Phú Lương giang tên cũ sông Nhị hà.
▲ Điêu linh là tàn rụng, chỉ những người chẳng may chết trận.
▲ Viên là viên môn, cửa dinh (doanh) quan đại tướng; mao là cờ tiết mao, hiệu lệnh trong quân.
▲ Giới trụ là áo giáp, mũ trụ của tướng sĩ.
▲ Vua Hán Cao Tổ ở bên Tàu khi khởi binh ở ấp Bái, họp con em ba nghìn người; đây ví những nguời theo đức Gia Long cũng khảng khái như bọn quan sĩ vua Hán Cao Tổ vậy.
▲ Tên núi ở tỉnh Thiểm Tây bên Tàu, có tiếng là hiểm trở, chỉ hai trăm người địch nổi hai nghìn người; vua Văn Vương nhà Chu sáng nghiệp ở đấy; đây sánh những người theo vua Gia Long cũng hăng hái như bọn quân sĩ vua Chu Văn Vương vậy.
▲ Cơ đích là hàm thiếc dây cương, ý nói theo vua giữ ngựa. Đây là nói hồi vua Gia Long bị quân Tây Sơn đánh thua phải trốn sang Xiêm La.
▲ Việt mao là cái phủ Việt và cờ tiết mao. Đây là nói hồi vua Gia Long từ Xiêm về thu phục được thành Gia Định.
▲ Điển cũ; vua Câu Tiễn nước Việt khi mất nước thường nằm trên gai, nếm mật đắng để nghĩ kế khôi phục; ý nói chịu nổi khổ sở.
▲ Là Thanh Hóa và Bình Thuận.
▲ Sơn phong là gió núi; khi đức Gia Long đóng ở đảo Côn Lôn, quân Tây Sơn chợt đến vây nguy cấp lắm, bỗng dưng trời nổi bão tố, thuyền Tây Sơn đắm cả, vua mới thoát vây. Hải lễ là nước ngọt ở bể; khi vua Gia Long đương phải chạy trốn ở ngoài bể, hết cả nước ngọt uống, vua mới khấn trời, chợt thấy ở dưới bể có dòng nước ngọt, múc nước uống mới khỏi khát.
▲ Đây ví vua Gia Long cũng như vua Hán Cao Tổ và Hán Quang Vũ là hai ông vua sáng nghiệp trung hưng ở bên Tàu.
▲ Đồn Bàn là kinh đô cũ của người Chiêm Thành, tức là thành Bình Định, Nam, Ngãi là Quảng Nam và Quảng Ngãi, Phú Xuân là Huế, Thăng Long là Hà Nội.
▲ Là đạn nhiều như mưa, thang cao giáp mây.
▲ Đây ví các thành tỉnh ấy cũng hiểm cố như đất Lũng là Lũng Tây (ở tỉnh Thiểm Tây) và đất Thục là Tứ Xuyên ở bên Tàu.
▲ Điển cũ: Lời Tư Mã Thiên nói: “Người ta ai cũng chết mà cái chết có người nặng như núi Thái, cũng có người nhẹ như nắm lông hồng”
▲ Điển cũ: Lời Mã Viện nói: “Đấng tài trai nên chết ở nơi chiến trận lấy da ngựa bọc thây”; ý nói chết ở chiến trường.
▲ Là nói tối tăm mênh mang.
▲ Là nơi đất khách quê người.
▲ Là chỗ bến đò ngày xưa.
▲ Đoản là ngắn, tu là dài, ý nói kẻ chết non người sống lâu.
▲ Kim là người đời nay, người còn sống, cổ là người đời xưa, người đã chết.
▲ Bóng bạch câu: Điển cũ: đời người thấm thoát như bóng ngựa trắng chạy qua cửa sổ thoáng mắt đã mất; ý nói số mệnh các tướng sĩ ngắn ngủi.
▲ Phế phủ là buồng phổi và phủ tạng trong người.
▲ Điển cũ: vua Đường Thái Tôn bên Tàu vẽ hình công thần treo ở Yên các (gác khói), vua Hán Minh Đế vẽ tranh công thần treo ở Vân đài (đài mây); ý nói tuy không được vinh dự như các bực công hầu danh tướng.
▲ Có công được thêu tên vào cờ cân cờ thường.
▲ Là ơn vua ví như mưa móc thấm nhuần.
▲ Nói xe vua trở về; đây nói vua Gia Long khi đã lấy Bắc Hà rồi trở về Phú Xuân.
▲ Là bốn tỉnh Quảng (Quảng Bình, Quảng Trị, Quảng Nam, Quảng Ngãi). Thuận Hóa, Nghệ An và Thanh Hóa.
▲ Từ năm 1798 đến năm 1801.
▲ Thủy là lúc đầu, chung là lúc cuối. Ý nói lúc hoạn nạn thì còn sống mà đến lúc thái bình thì đã thác rồi.
▲ Theo chữ (can qua phủ định) việc đánh dẹp vừa yên.
▲ Là vua Nghiêu vua Thuấn bên Tàu, hai đời vua thái bình sánh với đời vua Gia Long.
▲ Là vua Thang vua Vũ hai đời vua thịnh trị bên Tàu sánh với đời vua Gia Long.
▲ Máy trời đất xoay vần bí mật và thần diệu.
▲ Ý nói: Nếu sống lại kiếp sau thì nên đến cửa dinh tiền quân mà nhận.
▲ Ý nói: nếu có khôn thiêng thì nên phù hộ nhà vua được thái bình để ngôi vua (ngôi bảo tộ) truyền mãi đến muôn đời về sau.
|
|