Việc nhân-nghĩa cốt ở yên dân,
Quân điếu-phạt chỉ vì khứ bạo,
Như nước Việt ta từ trước,
Vốn xưng văn-hiến đã lâu,
Sơn-hà cương-vực đã chia,
Phong-tục bắc nam cũng khác.
Từ Đinh, Lê, Lý, Trần, gây nền độc-lập,
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên, hùng-cứ một phương,
Dẫu cường nhược có lúc khác nhau,
Song hào-kiệt đời nào cũng có.
Vậy nên
Lưu Cung sợ uy mất vía,
Triệu Tiết nghe tiếng giật mình,
Cửa Hàm-tử giết tươi Toa Đô,
Sông Bạch-đằng bắt sống Ô Mã,
Xét xem cổ-tích,
Đả có minh-trưng,
Vừa rồi
Vì họ Hồ chính-sự phiền-hà,
Để trong nước nhân-dân oán bạn,
Quân cường Minh đã thừa-cơ tứ ngược,
Bọn gian-tà còn bán nước cầu vinh,
Nướng dân đen trên ngọn lửa hung-tàn,
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai-vạ.
Chước dối đủ muôn nghìn khoé,
Ác chứa ngót hai mươi năm.
Bại nhân-nghĩa nát cả càn-khôn,
Nặng khóa-liễm vét không sơn-trạch
Nào lên rừng đào mỏ, nào xuống bể mò châu,
Nào hố bẫy hươu đen, nào lưới dò chim trả,
Tàn-hại cả côn-trùng thảo-mộc,
Nheo-nhóc thay! quan quả điên liên
Kẻ há miệng, đứa nhe răng, máu mỡ bấy! no-nê chưa chán,
Nay xây nhà, mai đắp đất, chân tay nào phục-dịch cho vừa,
Nặng-nề về những nỗi phu-phen,
Bắt-bớ mất cả nghề canh-cửi.
Độc-ác thay! trúc rừng không ghi hết tội,
Dơ-bẩn thay! nước bể khôn rửa sạch mùi,
Lẽ nào trời đất tha cho,
Ai bảo thần-nhân nhịn được.
Ta đây:
Núi Lam-sơn dấy nghĩa,
Chốn hoang-dã nương mình,
Ngắm non sông căm nổi thế thù,
Thề sống chết cùng quân nghịch-tặc,
Đau lòng nhức óc, chốc là mười mấy nắng mưa,
Nếm mật nằm gai, há phải một hai sớm tối,
Quên ăn vì giận, sách lược-thao suy-xét đã tinh,
Ngẫm trước đến nay, lẽ hưng-phế đắn-đo càng kỹ.
Những trằn-trọc trong cơn mộng-mị,
Chỉ băn-khoăn một nỗi đồ hồi.
Vừa khi cờ nghĩa dấy lên,
Chính lúc qnân thù đang thịnh.
Lại ngặt vì:
Tuấn-kiệt như sao buổi sớm,
Nhân-tài như lá mùa thu,
Việc bôn-tẩu thiếu kẻ đỡ-đần,
Nơi duy ác hiếm người bàn-bạc.
Đôi phen vùng-vẫy, vẫn đăm-đăm con mắt dục đông
Mấy thủa đợi chờ, luống đằng-đẵng cỗ xe hư-tả,
Thế mà trông người, người càng vắng ngắt, vẫn mịt-mù như kẻ vọng dương,
Thế mà tự ta, ta phải lo toan, thêm vội-vã như kh chửng nịch,
Phần thì giận hung-đồ ngang-dọc,
Phần thì lo quốc-bộ khó-khăn,
Khi Linh-sơn lương hết mấy tuần,
Khi Khôi-huyện quân không một đội,
Có lẽ trời muốn trao cho gánh nặng, bắt trải qua bách chiết thiên ma,
Cho nên ta cố gắng gan bền, chấp hết cả nhất sinh thập tử.
Múa đầu gậy ngọn cờ phất-phới, ngóng vân-nghê bốn cõi đan hồ,
Mở tiệc quân chén rượu ngọt-ngào, khắp tướng-sĩ một lòng phụ-tử.
Thế giặc mạnh, ta yếu mà ta địch nổi,
Quân giặc nhiều, ta ít mà ta được luôn.
Dọn hay:
Đem đại nghĩa để thắng hung-tàn,
Lấy chí nhân mà thay cường-bạo.
Trận Bồ-đằng sấm vang sét dậy,
Miền Trà-lân trúc phá tro bay,
Sĩ-khí đã hăng,
Quân-thanh càng mạnh.
Trần Trí, Sơn Thọ, mất vía chạy tan.
Phương Chính, Quí An tìm đường trốn-tránh.
Đánh Tây-kinh phá tan thế giặc.
Lấy Đông-đô thu lại cõi xưa,
Dưới Ninh-kiều máu chảy thành sông,
Bến Tụy-động xác đầy ngoài nội.
Trần Hiệp đã thiệt mạng,
Lý Lương lại phơi thây.
Vương Thông hết cấp lo-lường,
Mã Anh khôn đường cứu-đỡ
Nó đã trí cùng lực kiệt, bó tay không biết tính sao,
Ta đây mưu phạt tâm công, chẳng đánh mà người chịu khuất.
Tưởng nó đã thay lòng đổi dạ, biết lẽ tới lui,
Ngờ đâu còn kiếm kế tìm phương, gây mầm tội-nghiệt.
Cậy mình là phải, chỉ quen đổ vạ cho người,
Tham công một thời, chẳng bỏ bày trò dở-duốc.
Đến nỗi đứa trẻ con như Tuyên-đức, nhàm võ không thôi.
Lại sai đồ nhút-nhát như Thạnh, Thăng đem đầu chữa cháy.
Năm Đinh-mùi tháng chín,
Liễu Thăng tự Khâu-ôn tiến sang,[1]
Mộc Thạnh tự Vân-nam kéo đến.
Ta đã điều binh thủ hiểm, để ngăn lối Bắc-quân,
Ta lại sai tướng chẹn ngang, để tuyệt đường lương-đạo.
Mười-tám, Liễu Thăng thua ở Chi-lăng,[2]
Hai-mươi, Liễu Thăng chết ở Mã-yên,
Hai-mươi-lăm, Lương Minh trận vong,
Hai-mươi-tám, Lý Khánh tự vẫn,
Lưỡi dao ta đang sắc,
Ngọn giáo giặc phải lùi,
Lại thêm quân bốn mặt vây thành
Hẹn đến rằm tháng mười diệt tặc.
Sĩ-tốt ra oai tì-hổ,
Thần-thứ đủ mặt trảo nha.
Gươm mài đá, đá núi cũng mòn,
Voi uống nước, nước sông phải cạn.
Đánh một trận sạch không kinh-ngạc.
Đánh hai trận tan-tác chim-muông.
Cơn gió to trút sạch lá khô,
Tổ kiến hổng sụt toang đê cũ.
Thôi Tụ phải quì mà xin lỗi,
Hoàng Phúc tự trói để hàng.
Lạng-giang, Lạng-sơn, thây chất đầy đồng,
Xương-giang, Bình-than, máu trôi đỏ nước.
Ghê-gớm thay! sắc phong-vân phải đổi,
Thảm-đạm thay! sáng nhật-nguyệt phải mờ.
Binh Vân-nam nghẻn ở Lê-hoa, sợ mà mất mật.
Quân Mộc Thạnh tan chưng Cần-trạm, chạy để thoát thân,
Suối máu Lãnh-câu, nước sông rền-rĩ,
Thành xương Đan-xá, cỏ nội đầm-đìa.
Hai mặt cứu-binh, cắm đầu trốn chạy,
Các thành cùng khấu, cởi giáp xuống đầu.
Bắt tướng giặc mang về, nó đã vẫy đuôi phục tội,
Thể lòng trời bất sát, ta cũng mở đường hiếu sinh.
Mã Kỳ, Phương Chính, cấp cho năm trăm chiếc thuyền, ra đến bể chưa thôi trống ngực,
Vương Thông, Mã Anh, phát cho vài nghìn cỗ ngựa, về đến Tàu còn đổ mồ-hôi.
Nó đã sợ chết cầu hòa, mở lòng thú-phục,
Ta muốn toàn quân làm cốt, cả nước nghỉ-ngơi.
Thế mới là mưu-kế thật khôn,
Vả lại suốt xưa nay chưa có.
Giang-san từ đây mở mặt,
Xã-tắc từ đây vững-bền.
Nhất-nguyệt hối mà lại minh,
Kiền-khôn bĩ mà lại thái.
Nền vạn thế xây nên chăn-chắn.
Thẹn ngìn thu rửa sạch làu-làu.
Thế là nhờ trời đất tổ-tông khôn-thiêng giúp-đỡ cho nước ta vậy.
Than ôi!
Vẫy-vùng một mảnh nhung-y, nên công đại định.
Phẳng-lặng bốn bề thái-vũ, mở hội vĩnh-thanh,
Bá cáo xa gần,
Ngỏ cùng nghe biết.
*************************
Bản Dịch của Ngô Tất Tố
Từng nghe:
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân,
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo;
Như nước đại Việt ta từ trước,
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu,
Nước non bờ cỏi đã chia,
Phong tục Bắc Nam cũng khác;
Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần
bao đời xây nền độc lập;
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên
mỗi bên hùng cứ một phương;
Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau,
Song hào kiệt thời nào cũng có.
Cho nên:
Lưu Cung tham công nên thất bại;
Triệu Tiết chí lớn phải vong thân;
Cửa Hàm tử bắt sống Toa Đô
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã
Việc xưa xem xét.
Chứng cứ còn ghi.
Vừa rồi:
Nhân họ Hồ chính sự phiền hà
Để trong nước lòng dân oán hận
Quân cuồng Minh thưà cơ gây loạn
Bọn gian tà còn bán nước cầu vinh
Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ
Dối trời lừa dân đủ muôn ngàn kế
Gây thù kết oán trải mấy mươi năm
Bại nhân nghĩa nát cả đất trời.
Nặng thuế khóa sạch không đầm núi.
Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc,
ngán thay cá mập thuồng luồng.
Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng,
khốn nỗi rừng sâu nước độc.
Vét sản vật, bắt dò chim sả,
chốn chốn lưới chăng.
Nhiễu nhân dân, bắt bẫy hươu đen,
nơi nơi cạm đặt.
Tàn hại cả giống côn trùng cây cỏ,
Nheo nhóc thay kẻ góa bụa khốn cùng.
Thằng há miệng, đứa nhe răng,
máu mỡ bấy no nê chưa chán,
Nay xây nhà, mai đắp đất,
chân tay nào phục dịch cho vừa ?
Nặng nề những nổi phu phen
Tan tác cả nghề canh cửi.
Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội,
Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi !
Lòng người đều căm giận,
Trời đất chẳng dung tha;
Ta đây:
Núi Lam sơn dấy nghĩa
Chốn hoang dã nương mình
Ngẫm thù lớn há đội trời chung
Căm giặc nước thề không cùng sống
Đau lòng nhức óc, chốc đà mười mấy năm trời
Nếm mật nằm gai, há phải một hai sớm tối.
Quên ăn vì giận, sách lược thao suy xét đã tinh,
Ngẫm trước đến nay, lẽ hưng phế đắn đo càng kỹ.
Những trằn trọc trong cơn mộng mị,
Chỉ băn khoăn một nỗi đồ hồi
Vừa khi cờ nghĩa dấy lên,
Chính lúc quân thù đang ma.nh.
Lại ngặt vì:
Tuấn kiệt như sao buổi sớm,
Nhân tài như lá mùa thu,
Việc bôn tẩu thiếu kẻ đở đần,
Nơi duy ác hiếm người bàn bạc,
Tấm lòng cứu nước,
vẫn đăm đăm muốn tiến về Đông,
Cỗ xe cầu hiền,
thường chăm chắm còn dành phía tả.
Thế mà:
Trông người, người càng vắng bóng,
mịt mù như nhìn chốn bể khơi.
Tự ta, ta phải dốc lòng,
vội vã hơn cứu người chết đói.
Phần vì giận quân thù ngang dọc,
Phần vì lo vận nước khó khăn,
Khi Linh Sơn lương hết mấy tuần,
Lúc Khôi Huyện quân không một đô.i.
Trời thử lòng trao cho mệnh lớn
Ta gắng trí khắc phục gian nan.
Nhân dân bốn cỏi một nhà,
dựng cần trúc ngọn cờ phấp phới
Tướng sĩ một lòng phụ tử,
hòa nước sông chén rượu ngọt ngào.
Thế trận xuất kỳ, lấy yếu chống mạnh,
Dùng quân mai phục, lấy ít địch nhiều.
Trọn hay:
Đem đại nghĩa để thắng hung tàn,
Lấy chí nhân để thay cường ba.o.
Trận Bồ Đằng sấm vang chớp giật,
Miền Trà Lân trúc chẻ tro bay.
Sĩ khí đã hăng
Quân thanh càng ma.nh.
Trần Trí, Sơn Thọ nghe hơi mà mất vía,
Lý An, Phương Chính, nín thở cầu thoát thân.
Thừa thắng đuổi dài, Tây Kinh quân ta chiếm lại,
Tuyển binh tiến đánh, Đông Đô đất cũ thu về.
Ninh Kiều máu chảy thành sông, tanh hôi vạn dặm
Tụy Động thây chất đầy nội, nhơ để ngàn năm.
Phúc tâm quân giặc: Trần Hiệp đã phải bêu đầu
Mọt gian kẻ thù: Lý Lượng cũng đành bỏ ma.ng.
Vương Thông gỡ thế nguy,
mà đám lửa cháy lại càng cháy
Mã Anh cứu trận đánh
mà quân ta hăng lại càng hăng.
Bó tay để đợi bại vong,
giặc đã trí cùng lực kiệt,
Chẳng đánh mà người chịu khuất,
ta đây mưu phạt tâm công.
Tưởng chúng biết lẽ ăn năn
nên đã thay lòng đổi dạ
Ngờ đâu vẫn đương mưu tính
lại còn chuốc tội gây oan.
Giữ ý kiến một người,
gieo vạ cho bao nhiêu kẻ khác,
Tham công danh một lúc,
để cười cho tất cả thế gian.
Bởi thế:
Thằng nhãi con Tuyên đức động binh không ngừng
Đồ nhút nhát Thạnh, Thăng đem dầu chữa cháy
Đinh mùi tháng chín,
Liễu Thăng đem binh từ Khâu Ôn kéo lại
Năm ấy tháng mười,
Mộc Thạnh chia đường từ Vân Nam tiến sang.
Ta trước đã điều binh thủ hiểm,
chặt mũi tiên phong
Sau lại sai tướng chẹn đường
tuyệt nguồn lương thực
Ngày mười tháng tám, trận Chi Lăng
Liễu Thăng thất thế
Ngày hai mươi, trận Mã Yên
Liễu Thăng cụt đầu
Ngày hăm lăm, bá tước Lương Minh đại bại tử vong
Ngày hăm tám, thượng thư Lý Khánh cùng kế tự vẫn.
Thuận đà ta đưa lưỡi dao tung phá
Bí nước giặc quay mũi giáo đánh nhau
Lại thêm quân bốn mặt vây thành
Hẹn đến giữa tháng mười diệt giặc
Sĩ tốt kén người hùng hổ
Bề tôi chọn kẻ vuốt nanh
Gươm mài đá, đá núi cũng mòn
Voi uống nước, nước sông phải cạn.
Đánh một trận, sạch không kình ngạc
Đánh hai trận tan tác chim muông.
Cơn gió to trút sạch lá khô,
Tổ kiến hổng sụt toang đê vỡ.
Đô đốc Thôi Tụ lê gối dâng tờ tạ tội,
Thượng thư Hoàng Phúc trói tay để tự xin hàng.
Lạng Giang, Lạng Sơn, thây chất đầy đường
Xương Giang, Bình Than, máu trôi đỏ nước
Ghê gớm thay ! Sắc phong vân phải đổi,
Thảm đạm thay! Ánh nhật nguyệt phải mờ.
Bị ta chặn ở Lê Hoa,
quân Vân Nam nghi ngờ
khiếp vía mà vỡ mật !
Nghe Thăng thua ở Cần Trạm,
quân Mộc Thạnh xéo lên nhau
chạy để thoát thân.
Suối Lãnh Câu, máu chảy thành sông,
nước sông nghẹn ngào tiếng khóc
Thành đan Xá, thây chất thành núi,
cỏ nội đầm đìa máu đen.
Cứu binh hai đạo tan tành, quay gót chẳng kịp,
Quân giặc các thành khốn đốn, cởi giáp ra hàng
Tướng giặc bị cầm tù,
như hổ đói vẫy đuôi xin cứu mạng
Thần Vũ chẳng giết hại,
thể lòng trời ta mở đường hiếu sinh
Mã Kỳ, Phương Chính, cấp cho năm trăm chiếc thuyền,
ra đến biển mà vẫn hồn bay phách lạc,
Vương Thông, Mã Anh, phát cho vài nghìn cỗ ngựa,
về đến nước mà vẫn tim đập chân run.
Họ đã tham sống sợ chết mà hòa hiếu thực lòng
Ta lấy toàn quân là hơn, để nhân dân nghỉ sức.
Chẳng những mưu kế kì diệu
Cũng là chưa thấy xưa nay
Xã tắc từ đây vững bền
Giang sơn từ đây đổi mới
Càn khôn bĩ rồi lại thái
Nhật nguyệt hối rồi lại minh
Ngàn năm vết nhục nhã sạch làu
Muôn thuở nền thái bình vững chắc
Âu cũng nhờ trời đất tổ tông
linh thiêng đã lặng thầm phù trợ;
Than ôi !
Một cỗ nhung y chiến thắng,
nên công oanh liệt ngàn năm
Bốn phương biển cả thanh bình,
ban chiếu duy tân khắp chốn.
Xa gần bá cáo,
Ai nấy đều hay.
***************
Ý kiến bạn đọc
Vui lòng login để gởi ý kiến. Nếu chưa có account, xin ghi danh.