Biên khảo, Nhân Vật TÀO THÁO
Tào Tháo, tự Mạnh Đức, tên tục A Man, tự Cát Lợi. Sanh 155 sau tây lịch, tại huyện Tiêu, nước Bái trong gia đình giàu có. Từ bé là người rất thông minh, ít để ý đến việc nhỏ, tính tình phóng khoáng, thích giao du,… rất ham đọc sách, đặc biệt là binh thư, là người biết quyền biến, nhiều mưu lược. Ông mất ngày 15 tháng 3 năm 220, tại Lạc Dương, Hà Nam, thọ 66 tuổi.
Trong Bách Khoa Toàn Thư viết: “Tào Tháo vốn xuất thân trong gia đình bình thường, không có tiếng tăm…” Người viết về Tào Tháo trong bộ Bách Khoa Tòan Thư, không tra cứu kỹ, viết câu trên đây hoàn toàn sai sự thật! Vì, thân phụ Tào Tháo là Tào Tung 133-193, đại thần nhà Đông Hán, rất giàu có, khi chưa làm quan từng bỏ ra 5 triệu ngân lượng để mua chức Thái Úy thời Hán Linh Đế. Hán Linh Đế, 156-189, tên thật là Lưu Hoằng.
Bộ Tôn Tử Binh Pháp, còn được gọi là Binh Pháp Ngô Tôn Tử, là sách chiến lược, chiến thuật nguyên tác bằng chữ Hán do Tôn Vũ soạn thảo vào năm 512 TCN, đời Xuân Thu.
Do có hai bộ Binh Pháp Tôn Tử với hai tác giả cùng một tên, người đời sau gọi Binh Pháp Tôn Tử của TÔN VŨ bằng Binh Pháp NGÔ TÔN TỬ còn Binh Pháp Tôn Tử của TÔN TẪN được gọi là Binh Pháp TỀ TÔN TỬ hầu tránh nhầm lẫn giữa hai người cùng họ Tôn (Tôn Vũ và Tôn Tẫn) đồng thời để phân biệt hai bộ binh pháp hoàn tòan khác nhau. Người ta phân định như vậy, bởi, Tôn Vũ xuất thân từ nước Ngô, còn Tôn Tẫn xuất thân từ nước Tề.
Bộ Tôn Tử Binh Pháp trong bài nầy, là đề cập Binh Pháp của NGÔ Tôn Tử.
Bộ Binh Pháp của Ngô Tôn Tử ngoài Tào Tháo chú giải, còn có Mạnh Thị nhà Lương, Lý Thuyên nhà Đường, Đỗ Mục, Trần Hạo, Giả Lâm, Mai Nhiêu Thần nhà Tống, Vương Triết, Hà Diên Tích và Trương Dư cùng chú giải. Nhưng bản chú giải của Tào Tháo hay nhất, có giá trị nhất. Như vậy cho ta thấy kiến thức văn học và binh pháp của Tào Tháo hơn hẳn những học giả, sứ quân, lãnh chúa, chư hầu cùng thời.
Hiện nay, cả thế giới sử dụng, dịch thuật đều căn cứ vào bộ Binh Thư Tôn Tử của Tôn Vũ, qua sự chú giải của Tào Tháo.
Tào Tháo còn viết bộ “Binh Thư Tào Mạnh Đức” nhưng đã thất truyền.
Ngoài tài năng chính trị, quân sự tột đỉnh, Tào Tháo còn có tài biên khảo, chú giải xuất sắc và là nhà thơ nổi tiếng thời Văn Học Kiến An.
Trên lãnh vực văn chương, ba cha con ông được người đương thời gọi là Tam Tào, gồm: Tào Tháo, Tào Phi (Tào Phi, tự Tử Hòan, 187-29 tháng 6 năm 226. Sau khi tiếm ngôi nhà Hậu Hán xưng Tào Ngụy Văn Đế, vị vua đầu tiên của Tào Ngụy).
Tào Thực, (Tào Thực, 192-232, tên tự là Tử Kiến, khi mất thụy là là Trần Tư Vương).
Tam Tào (Tháo, Phi, Thực), là những tên tuổi lớn trong Kiến An Thập Nhất Tài Danh. Một nền văn học phát sinh vào thời Hán mạt được gọi chung là Kiến An Phong Cốt.
Trong những bài thơ như Độ Quan San - Vượt Quan San, Tào Tháo phản đối những ông vua làm khổ dân, bắt dân đi phu đóng thuế nặng. Bài Đối Tửu, ông hy vọng có những ông vua hiền sáng suốt cảm thông với những nỗi đau của dân chúng thời loạn Đông Hán.
Bài Cảo Lý Hành (Bài hành theo điệu Cảo Lý) có nội dung cho người đọc thấy một hình ảnh thu nhỏ sinh động của hiện thực với thảm cảnh chiến tranh, chiến trường phơi xương trắng, ruộng đồng hoang vắng.
Bài Giới Lộ Hành với bài Cảo Lý Hành miêu tả cảnh hoang tàng của Lạc Dương sau khi bị Đổng Trác đốt phá, thể hiện một niềm bi ai. Tất cả đều được truyền khắp dân gian. Người người thán phục.
Bài Thu Hồ Hành thể hiện tình cảm ưu hoài, sầu thảm còn biểu hiện rõ rệt nỗi buồn hữu hạn và kẻ anh hùng nào, cuối cùng rồi cũng về với cát bụi.
Qua các bài thơ trên của Tào Tháo đủ minh chứng cho các thế hệ sau biết ông vốn là người nặng tình với đất nước, dân tộc. Ông phản đối bọn vua tôi trong triều đình chỉ biết hưởng lạc thú lúc thanh bình, khi đất nước hỗn loạn thì thu mình vào trôn ốc. Vua chúa thì bất tài, u minh, bọn quan lại thì hèn nhát, tham ô, trục lợi, co đầu rút cổ với giặc, đàn áp dân lành. Quan chức địa phương tha hồ bốc lột người dân.
Thơ Tào Tháo chịu ảnh hưởng Nhạc phủ đời Hán nhưng thể hiện cá tính sáng tạo, khí vận của ông trầm hùng… rất rõ rệt nên được coi là lão tướng đất U Yên.
Những bài thơ hay nhất của ông sử dụng lời lẽ thuần phác, chân chất, ít khi dùng từ hoa mỹ, hình ảnh thơ rõ ràng và giọng thơ bi tráng, hùng hồn, khiến độc giả cảm thấy phấn chấn như được cổ vũ khích lệ.
Điều nầy chứng minh, thơ sử dụng ngôn ngữ bình dân dễ đi sâu vào lòng người. Ngôn ngữ bình dân hoàn toàn khác xa với loại thơ dùng ngôn ngữ “chắt lọc, cầu kỳ”, đó là loại thơ cố ôm đầu tìm chữ nghĩa mới lạ, với mục đích là tác giả muốn cho độc giả thấy, biết “ta đây là kẻ giàu có vốn liếng ngữ vựng”.
Loại ngôn ngữ “ghép chữ thành thơ” nầy, khi bài thơ đến tay độc giả, họ đọc nhưng chẳng biết tác giả muốn nói cái gì?
Thi hào Lý Bạch, để lại đời câu, (đại ý): “Làm thơ để tự mình đọc hay để cất vào hộc tủ, làm thế nào cũng được! Còn làm thơ muốn gởi gắm đến bạn đọc, phải làm thế nào để người đọc hiểu nhà thơ nói gì, gởi gắm điều gì đến họ”.
Đánh giá thơ của Tào Tháo, Học giả Nguyễn Hiến Lê viết: “Tào Tháo dụng binh giỏi mà văn thơ cũng hay. Bài Đoản Ca Hành (Bài hát ngắn) của ông, lời cực kỳ bi tráng. Từ thời Xuân Thu tới đây, ta mới gặp một bài thơ tứ ngôn cảm khái như vậy.”
Nhận xét của Học giả Nguyễn Hiến Lê cho ta thấy Tào Tháo ngoài là nhà quân sự đại tài, còn là một tinh hoa văn học.
Với nhận định của Học giả Nguyễn Hiến Lê, ta có thể kết luận, Tào Tháo là một nhà chánh trị hết lòng lo cho dân cho đất nước, và là một nhà thơ lớn trong thiên hạ. Nhưng, ông bị La Quán Trung vì tình hoài Hán đã uốn cong ngòi bút mà bôi bác, bóp méo cuộc đời ông, để rồi từ một người hết lòng vì dân, vì đất nước trở thành kẻ gian hùng, phản nghịch.
Học giả Dịch Quân Tả, người Trung Quốc, cho rằng: “Ông (Tào Tháo) là người có tài cao, hùng khí. Đời ông là một cuộc chiến đấu trường kỳ, nên văn chương của ông cũng từ đó mà ra. Những bài hay nhất như Khổ Hàn Hành, cũng là tác phẩm viết trong hòan cảnh chiến đấu. Bài Đoản Ca Hành, sáng tác ngay trong đêm xảy ra trận Xích Bích.”
Còn trong Dị Đồng Tạp Ngữ, viết: “Tào Tháo tài giỏi hơn người, khó ai có thể hại, tinh thông sử sách, lại giỏi về binh pháp". Chỉ việc Tào Tháo luận giải về Binh Pháp Tôn Tử cũng cho ta thấy lời nhận định trên đây rất chính xác.
Điều đáng chú ý là Tào Tháo muốn dùng tài hùng biện của mình và muốn đưa chính trị vào văn học, cho nên ông sáng tác nhiều bài thơ tứ ngôn. Thế nhưng, văn học luôn diễn biến theo từng thời kỳ của từng thời đại để tiến lên. Tức là phải đi vào giai đoạn ngũ ngôn và thất ngôn… Người sáng tác cần phải chạy theo trào lưu mới để nhập cuộc.
Cuối thời Đông Hán 23-220, Tào Tháo là nhà chính trị, nhà quân sự kiệt xuất. Ông là người đặt nền móng cho thế lực quân sự cát cứ ở miền Bắc Trung Quốc, để Tào Phi, con Ông, lập nên chính quyền Tào Ngụy thời Tam Quốc. Ông được Tào Phi truy tôn là Thái Tổ Vũ Hồng Đế.
Trong trận địa, khi Tào Tháo điều binh khiển tướng đều khiến kẻ địch phải kiêng dè, run sợ. Trong văn học ông là người xuất chúng. Tào Tháo chính là người văn võ song tòan.
La Quán Trung, tự Bản, tên chữ là Quán Trung, 1330-1400, biệt hiệu là "Hồ Hải Tản Nhân" người Thái Nguyên (có thuyết cho rằng ông là người Lư Lăng, Tiền Đường, Đông Nguyên). Ông sinh vào cuối đời Nguyên, mất vàođầu đời Minh, ước chừng vào khoảng năm 1300 đến năm 1400 giữa thời thống trị của nhà Nguyên Thuận Đế (tức Thỏa Hồn Thiết Mộc Nhĩ) và Minh Thái Tổ (Chu Nguyên Chương). Có thuyết còn nói rõ rằng ông sinh năm 1328 và mất năm 1398. La Quán Trung là tác giả bộ tiểu thuyết Tam Quốc Diễn Nghĩa rất nổi tiếng.
Họ La (Quán Trung) vốn dòng quý tộc thời Hán, có lẽ tổ tiên ông chịu nhiều ân sủng của Hán trào, nên khi viết bộ tiểu thuyết Tam Quốc Diễn Nghĩa, La Quán Trung dựa vào bộ chánh sử Tam Quốc Chí của Trần Thọ rồi hư cấu, thêm thắt vào truyện. Đa số người đọc Tam Quốc Chí Diễn Nghĩa không biết điều đó, họ thường dựa vào bộ tiểu thuyết ấy mà đánh giá các nhân vật lịch sử một cách máy móc, sai lầm.
La Quán Trung biểu lộ rõ rệt tinh thần hoài Hán diệt Tào, viết không trung thực về Tào Tháo, biến Tào Tháo trở thành kẻ vô liêm sỉ, phản nghịch, gian hùng, nham hiểm,… Do ảnh hưởng của bộ tiểu thuyết Tam Quốc Diễn Nghĩa, nên dân gian, coi Tháo như là một tay gian hùng.
Thực tế, Tào Tháo là người có kiến thức uyên bác và là một nhà chánh trị lỗi lạc, giàu lòng nhân ái, nhà quân sự đại tài, nhà biên soạn, chú giải bộ Tôn Tử Binh Pháp (của Tôn Vũ) toàn bích và là thơ tuyệt vời.
La Quán Trung, kẻ cầm bút không có lương tri, chẳng công tâm, thay đen đổi trắng, lộng giả thành chân... với mục đích bất lương, làm sai lệch lịch sử... đã dẫn đạo, chỉ đường sai trái, biến người có công trong lịch sử, có tài văn thơ trở thành kẻ có tội... với mục đích điều khiển, đầu độc tư duy cho hậu thế, khiến cho kẻ đời sau nghĩ sai lầm về nhân vật lịch sử... thật đáng hổ thẹn vô cùng.
Trong một xã hội mà kẻ ngu quá nhiều thì những người cầm bút chân chính, dám phê phán, nói thẳng những điều sai trái, vạch rõ những sai lầm của, băng đảng,... chắc chắn sẽ bị những kẻ cùng thời vì lợi lộc cá nhân, lợi lộc băng nhóm, đoàn thể vì cái bả hư danh cấu kết nhau chống đối, phản công, nhục mạ... Nhưng, vì ngu dốt chẳng kẻ nào dám công khai phản đối. Chúng dối dạt người đương thời nhưng làm sao dối gạt được hậu thế? Còn hậu thế chẳng dung thứ bất cứ kẻ nào ngu dốt mà muốn là cha thiên hạ.
Đường đời luôn có hai mặt, nẻo chính, đường tà luôn đi song song bên nhau, không thể gặp nhau ở cuối đường. Không vì thế mà những người có tâm hồn trong sáng, có tinh thần vì xã hội, vì đại nghĩa lại chùn chân, lùi bước hay sao? Tất nhiên họ vẫn đứng thẳng, hiên ngang tiến lên vì nhiệm vụ cao cả của mình.
La Quán Trung tác giả bộ tiểu thuyết Tam Quốc Diễn Nghĩa, là một trong những kẻ ấy, không đáng để ta tôn trọng chút nào!
Thời Hán mạt, Hán Hiến Đế, tục danh Lưu Hiệp, tự Bá Hòa, 181-21/4/234, tại vị 189- 25/11/220, là vị Hòang Đế thứ 14 của nhà Đông Hán và là hòang đế cuối cùng của nhà Hán. Hắn là kẻ bất tài, nhu nhược. Chư hầu nổi loạn khắp nơi, dân lành bị đàn áp dã man, đồng ruộng bỏ hoang, dân chúng nghèo đói, trẻ thơ của những gia đình nghèo khó không có tiền đành chịu thất học. Bọn quan lại thì hống hách, tham ô, hối lộ, cướp bốc tài sản, nhà cửa, đất đai của cải người dân… để thủ lợi.
Các chư hầu, lãnh chúa có quyền lực trong tay đều nổi dậy soán ngôi Nhà Hán. Tào Tháo, là một trong những kẻ ấy, nhưng thay vì mưu đồ cướp ngôi, Tháo ra sức bảo vệ ngay vàng cho Hán Hiến Đế, ông ép Hán Hiến Đế phải phong mình làm Ngụy Vương để có danh chánh ngôn thuận đánh dẹp các nước chư hầu nổi loạn.
Trong sự nghiệp của mình, tuy gặt hái nhiều thắng lợi, nhưng, Tào Tháo cũng gặp không ít thất bại. Ngồi nhìn tuổi tác ngày càng cao mà chí lớn chưa thỏa, ông viết trong tác phẩm nổi tiếng Đoản Ca Hành (là bài Hành Ca, nói lên ý chí của mình. Tào Tháo viết khoảng năm 208 (Kiến An thứ 13), trước đêm xuất trận Xích Bích. Ông để lộ nỗi buồn, “như sương buổi sớm, ngày qua ngày thấy khổ nhiều hơn” khiến bài thơ mang âm điệu u uất, bi quan. Và tâm nguyện cùng ý chí của ơng, “Ta giống như Chu công tiếp đãi hiền tài / Thiên hạ sẽ quy thuận về ta.”
Bọn hủ Nho chịu ảnh hưởng nền giáo dục của Khổng Tử mê muội, nhắm mắt phục vụ đế quyền một cách máy móc, cúi đầu làm kẻ ngu trung, đã kết án Tào Tháo là kẻ phản nghịch, gian hùng. Nhưng trong bộ chánh sử Tam Quốc Chí, Trần Thọ chép: “Tào Tháo là người “cơ trí nhạy bén, ứng biến, chơi bời phóng đãng”. Thường thì những kẻ chơi bời phóng đãng tính tình luôn hào sảng, phóng khóang, khác xa với những kẻ ngụy quân tử luôn giả nhân, giả nghĩa, giả hình,… luôn một dạ hai thưa, dùng miệng lưỡi bên ngoài để che giấu bản chất ti tiện, đê hèn bên trong.
Năm 1957 khi Quách Hóa Nhược viết về Binh pháp Tôn Tử còn dẫn lời Đỗ Mục cho rằng: “Binh pháp Tôn Tử có 82 bài, và 9 quyển hình vẽ cộng với cuốn “Ngô Việt Xuân Thu” ghi chép các câu hỏi và trả lời của Tôn Vũ với vua Ngô. Truyền đến đời Tam Quốc, được Tào Tháo chọn lựa, gọt dũa, chắt lọc, biên tập và chú thích, bỏ chỗ thừa, chép những phần tinh tuý và xếp thành 13 thiên, tức là cuốn Tôn Tử Binh Pháp lưu truyền đến ngày nay.”
Quách Hóa Nhược còn khẳng định: “Trong chú giải bộ Binh Thư Tôn Tử, Tào Tháo giữ lại đúng nội dung chủ yếu của Tôn Tử Binh Pháp, đó là một cống hiến không thể lu mờ.”
Những đối thủ của Tào Tháo như Lưu Bị, Viên Thuật, Tôn Quyền, Khổng Minh,… đều thua xa ông trên nhiều lãnh vực: Kiến thức, văn học, quân sự, chánh trị, dụng người, quyền biến, nổi bật nhất là lãnh vực văn chương và chiến lược... Ông thật xứng đáng được cho là một con người giàu năng lực trên nhiều phương diện.
Lâu nay, nhiều nhà phê bình chỉ dựa vào bộ tiểu thuyết Tam Quốc Diễn Nghĩa của La Quán Trung mà không đối chiếu với bộ chính sử Tam Quốc Chí của Trần Thọ, đã đánh giá Tào Tháo một cách sai lầm cố ý, trong khi, cả đời Tào Tháo chưa hề có những hành vi tàn độc như Lý Thế Dân đời Đường, giết anh ruột, em ruột và ngay cả các cháu ruột của y để chiếm ngôi vua; hoặc tồi tệ như Tùy Dạng Đế Dương Quảng đầu độc chính cha ruột của y là Tùy Văn Đế Dương Kiên, để cướp ngôi hoàng đế.
Tháng 4 năm 1972, hai cuốn sách Tôn Tử Binh Pháp của Tôn Vũ và Tôn Tử Binh Pháp của Tôn Tẫn đồng thời tìm thấy trong một ngôi mộ cổ từ thời nhà Hán ở tỉnh Sơn Đơng, Trung Quốc. Tháng 7 năm 1978, cuốn Tôn Tử Binh Pháp cũng được tìm thấy trong một ngôi nhà ở Thanh Hải, Trung Quốc, những ngộ nhận kéo dài về cuốn Tôn Tử Binh Pháp bấy giờ mới được làm rõ. (Trước đó, sai lầm ở chỗ, bộ Binh Pháp Tôn Tử một bên cho rằng của Tôn Vũ, một bên cho là của Tôn Tẫn. Sau khám phá trên, người ta mới vỡ lẽ có hai bộ Binh Pháp Tôn Tử của hai tác giả cùng tên Binh Pháp Tôn Tử và cùng một tên tác giả Tôn Tử).
Từ trước tháng 4 năm 1972, bản Tôn Tử Binh Pháp được lưu truyền cho là cổ nhất, đó là bản khắc đời Tống.
Trần Thọ, tác giả bộ Chánh sử Tam Quốc Chí, đã đánh giá về Tào Tháo như sau: “Cuối thời Hán, thiên hạ đại loạn, anh hùng hào kiệt cùng nổi dậy, mà Viên Thiệu như hổ vồ bốn châu, mạnh mẽ chẳng ai chống nổi. Thái Tổ tính kế bày mưu, đánh dẹp trong nước, tỏ phép hay của Thân, Thương, bày kế lạ của Hàn, Bạch, chọn dùng người hiền tùy vào tài năng, quyền biến ngang dọc, không hiềm thù chuyện cũ, rút cuộc nắm giữ mệnh vua, dựng nên nghiệp lớn, riêng Thái Tổ có mưu lược sáng suốt hơn cả. Có thể nói là người khác thường, xứng đáng vào bậc hào kiệt hơn đời vậy!”
Đánh giá về tài năng chính trị của Tào Tháo, nhà nghiên cứu Tào Hồng Toại viết: “Tào Tháo là nhà chính trị kiệt xuất thời phong kiến, xứng đáng được gọi bằng hai chữ anh hùng, về tính cách nhiều mặt thể hiện ra bằng sự tàn nhẫn thiếu tính nhân ái. Bởi vậy, người đời cho đó chính là sự bổ sung hiệu quả cho tính gian hùng của ông.”
“Trong hoạt động chính trị, Tào Tháo đã vận dụng khá nhiều tư tưởng Pháp gia, đề cao tài trí, coi trọng năng lực mà không quá quan tâm đến đạo đức, phẩm chất của người được sử dụng. Đây là một liều thuốc rất công hiệu, có hiệu quả vô cùng lớn lao trong việc cai quản, sửa đổi cục diện lỏng lẻo...” Từ thời Đông Hán trở về trước. “Tào Tháo hùng tài đại lược, dũng cảm mưu trí hơn người nhưng cũng là người đa nghi, nham hiểm và tàn nhẫn... Ông đã dung hợp được 3 loại Pháp - Thuật - Thế trong tranh giành quyền lực, đồng thời có thể vận dụng linh hoạt, hay thay đổi. Đây là một tính cách đặc trưng... Chính vì tính cách con người Tào Tháo rất nhiều mặt nên đời sau cũng có những đánh giá về ông rất khác nhau.”
Lời nhận xét của Tào Hồng Toại trên đây hoàn toàn không chính xác, bởi Tào Hồng Toại chỉ nhìn vào góc cạnh theo nền đạo đức Khổng Tử, mà không xét về thời điểm xã hội, chánh trị của Hán trào khi mạt vận.
Làm chánh trị mà không đa mưu túc kế, không lừa lọc đối phương, không giết người khi cần phải giết, thì chẳng khác nào đưa dây thòng lọng cho kẻ thù tròng vào cổ mình lôi đi.
Việc Tào Tháo giết Dương Tu, chỉ vì Dương Tu ỷ tài cao, biết rộng,… nhưng tự cao, tự đại, hợm mình, kiêu ngạo,… Trong chốn quan trường Tào Tháo với Dương Bưu 141-225, là hai đại thần cuối thời Đông Hán có nhiều bất đồng, nhưng ông vẫn tin dùng con trai của Dương Bưu là Dương Tu. Tào Tháo cho Dương Tu hầu cận trong phủ, thường xuyên cho ở bên cạnh, kể cả khi ở trong kinh thành cũng như lúc xuất quân. Như vậy, Tào Tháo đối đãi với Dương Tu đúng theo câu nói nổi tiếng của ông “Dùng người thì phải tin, đã không tin thì không dùng”.
Dương Tu là người có đủ tài trí, phục vụ dưới trướng Tào Tháo. Song, bản chất kiêu ngạo, cậy tài văn chương, chữ nghĩa nên về sau chuốc vạ vào thân.
Cụ thể, một lần Tào Tháo sau khi đi thăm vườn cảnh của phủ mới được xây, lấy bút viết lên cổng chữ "HOẠT", Dương Tu trông thấy bèn tự ý sai thợ phá cái cổng để làm RỘNG hơn. Tháo thấy vậy tức giận hỏi, thì, Dương Tu mới nói là làm theo lệnh Tháo rồi chỉ ra chữ mà Tào Tháo viết có thể hiểu ra là HẸP quá nên cho phá để làm lại RỘNG hơn.
Cho dù Dương Tu đoán được ý của Tào Tháo chê cổng HẸP, nhưng đáng lẽ phải thỉnh ý Tào Tháo trước khi phá cổng mới đúng. Dương Tu đã không làm điều sơ đẳng ấy lại chuyên quyền tự ra lệnh phá cổng làm lại. Điều nầy minh chứng Dương Tu là kẻ không biết tôn trọng người chủ của hắn ta.
Đoạn trên, dịch giả Phan Kế Bính dịch Tam Quốc Diễn Nghĩa năm 1909, và được Bùi Kỷ, một nhà Nho uyên bác, hiệu đính rất kỹ bằng cách đem nguyên bản tiếng Trung mới nhất ra đối chiếu và do Nhân Dân Văn Học Xã ở Bắc Kinh xuất bản năm 1958. Đây là bản dịch được cho là hay nhất từ trước đến nay – đã mượn lời của Dương Tu giải thích chữ “HOẠT” viết trên cổng, có nghĩa Tào Tháo chê CỔNG HẸP phải làm RỘNG hơn. Hoàn toàn SAI! Xin chứng minh, sự việc như sau:
Dương Đức Tổ giữ chức “Chủ bạ” cho Ngụy Vũ Đế, bấy giờ Ngụy Vũ đế cho làm “Tướng Quốc Môn”, lúc bắt đầu dàn dựng rui kèo thì Ngụy Vũ đế tới coi, rồi sai người viết chữ “HOẠT” trên cổng rồi đi ngay. (Ngụy Vũ Đế tức Táo Tháo)
Dương Tu thấy chữ “HOẠT” thì ra lệnh phá bỏ giàn cổng (đang dựng). Phá xong, nói: “Chữ “HOẠT” nằm ở trong chữ “MÔN” là chữ “KHÓAT”, chữ Khoát nghĩa là HẸP, ý của Đại vương chính là, không vừa ý cái cổng HẸP". (Tham khảo: "Thế Thuyết Tân Ngữ", thiên Tiệp ngộ thiên thứ 11).
Do các dịch giả, dịch Tam Quốc Diễn Nghĩa, nói Tào Tháo chê cổng HẸP, phá để làm cổng RỘNG hơn, sự sai lầm đó khiến bạn đọc nghĩ SAI theo! Đúng là, ý Tào Tháo chê cái cổng RỘNG phải làm HẸP lại. Nghĩa là, Dương Tu chẳng những hiểu sai mà còn làm trái ngược ý của Tào Tháo.
(Thế Thuyết Tân Ngữ là một tập Bút ký rất nổi tiếng ghi chép những nhân vật và giai thoại thú vị trong 2 triều Ngụy (220-265), Tấn (265 420), tác giả là Lưu Nghĩa Khánh (403- 444) người triều Lưu Tống (420-479).
+ Dương Đức Tổ, “Đức Tổ” là tên tự của Dương Tu (175- 219).
Thời Hán các cơ quan ở Trung Ương cũng như ở các cấp Quận, Huyện đều thiết lập chức “Chủ bạ”, là chức danh coi về Văn thư và điều hành công việc thư từ (gởi công văn đi và nhận văn thư đến trong một Cơ quan).
Lần khác, Tào Tháo đem binh ra chặn Lưu Bị, nhưng bị đánh thua mấy trận đành phải cắm trại cố thủ. Thời gian trôi qua, không thay đổi được tình hình chiến trường đâm ra chán chường, có ý muốn rút quân nhưng lại ngại xấu hổ trước ba quân, quần thần.
Một tối, tướng Hạ Hầu Đôn vào trướng Tào Tháo xin mật khẩu ban đêm cho doanh trại, Tào Tháo lúc ấy đang ăn canh chân gà, trong khi Tháo đang ngậm gân gà, nên ngần ngừ một lúc rồi nói: “Kê cân” (= Gân gà, ăn không được, bỏ thì tiếc). Hạ Hầu Đôn thấy khẩu lệnh này lạ lùng quá nên thắc mắc bèn đem hỏi Dương Tu. Dương Tu cười lớn rồi bảo Hạ Hầu Đôn hạ lệnh cho binh lính chuẩn bị gói ghém đồ đạc, chỉ nội trong 3 ngày nữa Tào Tháo sẽ hạ lệnh rút quân.
Đêm hôm ấy, Tào Tháo tuần hành thấy quân sĩ ở các doanh trại đều lo thu dọn hành trang chuẩn bị rút quân. Tào Tháo hỏi vì sao? Tất cả đều đáp Dương Tu truyền lệnh chuẩn bị hành trang để quay về. Tào Tháo tức giận, truyền dẫn Dương Tu ra chém đầu về tội, “Phao tin đồn nhãm. Làm rối loạn lòng quân”. Tháo giết Dương Tu rất chính đáng. Còn Khổng Minh giết Trần Thức chỉ vì bại trận quả thật rất ngu xuẩn.
Cách hành xử của Dương Tu đưa hắn ta vào cái chết thật đáng đời. Thử hỏi, trong khi điều binh đánh giặc, có vị tướng lãnh nào có thể tha thứ cho kẻ phao tin đồn nhảm, làm rối loạn quân ngũ? Cái chết của Dương Tu đáp ứng đúng với hành vi ngu xuẩn, kiêu ngạo và thói hợm mình của y.
Tào Tháo giết Dương Tu rất đúng!
Việc Tào Tháo giết Chu Bất Nghi, một thiếu nên 17 tuổi nhưng tài cao, học rộng,… là một kỳ tài nhưng kiêu ngạo ngất trời và đã dám từ hôn không nhận làm rể Tào Tháo.
Khi Tào Phi biết được ý định của cha mình muốn giết Chu Bất Nghi, bèn hết lời can gián thì được Ngụy Vương Tào Tháo thẳng thắn trả lời: “Kẻ này không phải người mà con có khả năng kiểm soát”. Lúc ấy Tào Phi mới nhận ra sự đáng sợ của Chu Bất Nghi.
Khi một kẻ tài năng vượt bực mà nằm trong guồng máy của ta, nhưng đầu óc kẻ ấy ở ngoài tầm tay ta, nếu ta không giết trước thì cái họa sẽ đến sau.
Làm chính trị là phi đạo đức, giết người là mang tội với Đất Trời. Nhưng giết người để bảo vệ nghiệp lớn cho con mình, thử hỏi ai không hành xử như Tào Tháo?
Lại lần khác nữa, do không đủ lương thực cấp cho quân sĩ, Tào Tháo bèn mật sai Vương Hậu làm cái đấu đong gạo nhỏ lại để đong ít số gạo hầu kéo dài thời gian… Nhưng, sau đó Tháo đổ tội cho Vương Hậu tham ô, làm thất thoát lương thực rồi truyền lệnh chém đầu để trấn an quân sĩ. Tào Tháo tự biết mình vì muốn ổn định lòng quân mà phải giết oan Vương Hậu, bèn chuộc lỗi bằng cách trợ cấp gia đình vợ con Vương Hậu suốt đời.
Việc giết Vương Hậu, một quan chức coi việc quân lương, có phần bá đạo, nhưng nếu không giết thì không thể lường trước hậu quả sẽ xảy ra.
Trong cái bá đạo của Tào Tháo, hiển hiện lòng lương thiện, lòng nhân hậu của ông mà ai cũng cảm thấy được. Vì nhu cầu, trong hoàn cảnh đó, buộc ta phải làm như vậy, như vậy… Để bù đắp lại, Tháo đã thể hiện được tấm lòng của bậc trí giả biết hành xử cách vương đạo.
Cái hay của Tào Tháo dám làm, dám nhận trách nhiệm, thấy sai dám sửa sai. Tào Tháo hơn những kẻ khác cả cái đầu. Khác xa với loại người biết sai không dám sửa, biết làm như thế như thế sẽ trái lòng dân, phản bội Tổ Quốc, đàn áp, tù đày, tàn sát người dân lương thiện đấu tranh vì sự sống còn của Quốc Gia Dân Tộc. Nhục nào hơn? Ác nào bằng? Vậy mà vì quyền lực, lợi lộc riêng tư họ cứ làm, vẫn làm…
Tào Tháo giết Dương Tu để giữ nghiêm quân lệnh. Giết Chu Bất Nghi để bảo vệ cơ đồ, nghiệp lớn cho con của mình về sau. Giết Vương Hậu để ổn định lòng quân sĩ. Thử hỏi, trong hoàn cảnh của Tào Tháo ai là người không làm như ông?
Cách cư xử với thuộc cấp, Tào Tháo hơn Khổng Minh như trời với vực. Khổng Minh giết Trần Thức và Mã Tốc chỉ vì thua trận. Nhưng không dám giết Quan công (chữ “công”, tôi, (TQMưu) không viết hoa. Bởi chữ “công” ở đây có nghĩa là ông. Quan công nghĩa là “ông họ Quan”) để mất Kinh Châu, trong khi Kinh Châu - một điểm chiến lược tối quan trọng của Lưu Bị. Chứng tỏ cho ta thấy Khổng Minh thị uy và đè bẹp người cô thế, kẻ dưới quyền, nhưng, kiêng dè kẻ có thế lực (Quan công dựa vào thế lực của Lưu Bị nên Khổng Minh không dám giết). Trong khi việc thua trận của hai tướng Trần Thức và Mã Tốc không ảnh hưởng quan trọng bằng Quan công để mất Kinh Châu.
Khi phá tan đại quân của Viên Thiệu ở Quan Độ, cách xử sự của Tào Tháo như dướí đây cho ta thấy ông vô cùng khôn ngoan, sáng suốt. Đúng là cách hành xử giàu tính nhân bản. Chứng minh cho hậu thế thấy Tào Tháo chính là nhà chánh trị kiệt xuất, đại tài.
Khi bại trận, Viên Thiệu hoảng sợ thu tàn quân vội vã chạy qua sông Hoàng Hà. Tất cả công văn giấy tờ đều bỏ lại hết. Quân binh của Tào Tháo kéo đến thu được tất cả công văn giấy tờ đó. Ông nghe thuộc hạ báo lên, trong những giấy tờ ấy có tên tuổi những thuộc cấp của Tào Ngụy, phản bội Tháo làm tay sai cho Viên Thiệu. Những thuộc hạ thân tín của Tào Tháo tìm ra từng tên tuổi của từng người và đề nghị Tháo cho bắt hết để trị tội. Tào Tháo không chịu, lại còn truyền lệnh đốt sạch những giấy tờ ấy. Mọi người ngạc nhiên, không đợi họ hỏi, Tào Tháo liền nói: “Khi ta yếu, Thiệu mạnh, chính bản thân ta còn chưa tự lo cho mình được, huống chi người khác. Họ muốn tư thông với Thiệu chẳng qua là muốn tìm đường sống mà thôi. Chẳng có tội gì mà ta phải xét xử!”
Cách xử sự khôn ngoan, độ lượng của Tào Tháo khiến cho người thời đó và muôn ngàn đời sau tôn phục! Những kẻ manh tâm phản bội ông vô cùng hối hận và cảm kích. Từ đó, họ một dạ trung thành với Tào Tháo.
Đọc toàn bộ Tam Quốc Diễn Nghĩa, của La Quán Trung, một kẻ nặng tình hoài Hán cũng chưa cho ta thấy một nhân vật nào khôn ngoan, độ lượng như Tào Tháo. Kể cả Lưu Bị được cho là kể nhân từ; Khổng Minh được tặng là kẻ đa mưu túc kế cũng không sao bằng được Tào Tháo.
Về tài quân sự của Tào Tháo, Mao Tôn Cương, nhà phê bình tác phẩm Tam Quốc Diễn Nghĩa, dù có thành kiến không tốt với Tào Tháo cũng thừa nhận rằng: “Việc binh của Tộn Quyền do Đại đô đốc quyết đoán. Việc quân của Lưu Huyền Đức do quân sư quyết đoán. Chỉ có Tào Tháo là tự tay nắm quyền hành quân, một mình quyết đóan. Tuy rằng có các mưu sĩ giúp mưu, bày kế, nhưng phần quyết định cuối cùng bao giờ cũng do Tháo. Tào Tháo tỏ ra xuất sắc hơn hẳn bề tôi. Thế thì Lưu Bị, Tôn Quyền không thể ví được với Tháo vậy. Cứ xem mỗi lần Tháo dự định mật kế, ban đầu các tướng đều không hiểu, sau khi thành công, các tướng mới thán phục.”
Đường Thái Tông (Lý Thế Dân) một thiên tài quân sự Trung Hoa, đã đề trên mộ phần của Tháo, câu: “Nhất tướng chi trí hữu dư. Lương nhiên! Lương nhiên” (Dịch: (Tào Tháo là) một tướng trí dũng có dư! Giỏi thay! Giỏi thay!)
Khen như thế thật chính xác!
Năm 216, Tào Tháo lùi hẳn về Bắc củng cố thế lực rồi dâng biểu ép vua phải phong mình là Ngụy Vương để có danh chánh ngôn thuận, hầu đủ uy quyền trấn áp Đông Ngô. Có tướng hỏi sao ông "không lập quốc và xưng đế?”
Tào Tháo chỉ nói: “Trải qua bao năm chiến chinh hy vọng giữ vững giang sơn bờ cõi Nhà Hán. Nay được làm đến chức Ngụy Vương, đã mãn nguyện lắm rồi, nếu có thì chỉ mong được như Chu Văn Vương ngày xưa thôi chứ nào dám mơ ước danh vị đế vương?”
Tào Tháo khôn ngoan trong nhận xét, không muốn mình mang tiếng phản nghịch Nhà Hán. Nhưng, hậu ý lại dọn sẵn đường cho con cháu ông sau nầy dựng nghiệp.
Tào Tháo có cặp mắt tinh tường và biết cách dùng người mà Lưu Bị, Tôn Quyền không thể sánh ngang vai. Cho nên hào kiệt, anh tài trong thiên hạ đều hội tụ về với Tào Tháo không sao kể xiết.
Những Hạ Hầu Đôn, Hạ Hầu Uyên, Tào Nhân, Tào Hồng, Tuân Úc, Tuân Du, Trình Dục, Quách Gia, Lưu Hoa, Giả Hủ, Mãn Sủng, Mao Giới, Hứa Du, Chung Dao, Điển Vi, Hứa Chử, Lý Điển, Nhạc Tiến, Vu Cấm, Trương Liêu, Trương Cáp, Từ Hoảng... Với lực lượng hùng hậu đó giúp Tào Tháo lúc nào cũng ở thế thượng phong, khiến Lưu Bị, Tôn Quyền ngày đêm mất ngủ vì lo lắng, kinh sợ.
Trong trận Uyển Thành, Tào Tháo mất người con cả là Tào Ngang, một người cháu tên Tào An Dân và tướng Điển Vi; nhưng khi nhớ tới trận nầy, ông khóc Điển Vi nhiều hơn cả.
Trong trận Quan Độ, khi Hứa Du bỏ Viên Thiệu sang hàng Tào, ông không kịp xỏ giày mà đi chân đất ra đón. Thiệu bình luận thì tức khắc nổi tiếng.
Khóc Điển Vi và đi chân đất đón tiếp Hứa Du cho ta hai cách nghĩ: Đó chỉ là thủ thuật chánh trị và cũng có thể do lòng chân thật của kẻ đầy bản lĩnh trên phương diện dụng người, xuất phát từ lòng người lãnh đạo hòan mỹ, dụng người xuất sắc!
Tiểu thuyết Tam Quốc Diễn Nghĩa bản đầy đủ từ đời nhà Minh trở đi (bản của Mao Tôn Cương) có xu hướng ủng hộ Lưu Bị và nước Thục cũng như quá đề cao Gia Cát Lượng mà quên đi công lao Tào Tháo trong vai trị chính trong việc ngăn chặn cục diện đại loạn cuối thời Đông Hán.
Tào Tháo đã dồn nhiều tâm huyết vào đó, ông tuyển chọn nhân tài, chiêu đãi kẻ hiền, thậm chí phải làm nhiều việc tàn bạo như “chèn ép vua Hiến Đế”, “giết thái y Cát Bình”, “treo cổ Đổng Quý Phi đang mang “long thai”, “đánh Phục Hồng Hậu đến chết”,... Có điều, ta nên xét sự việc để xem sự tàn bạo đó đúng, sai!
Các hành vi dã man, ác độc đó, chỉ xảy ra trong hành trình đạt đến mục đích thực hiện mưu đồ chính trị. Làm chính trị, không ai là kẻ lương thiện. Lâu nay dân gian chỉ trích Tào Tháo, chẳng qua là do ảnh hưởng từ ngòi bút bất lương của La Quán Trung trong Tam Quốc Diễn Nghĩa mà ra.
Những người kính trọng Tào Tháo, như Kiều Huyền, Hứa Thiệu. Kiều Huyền vốn làm quan đến Thái úy, là bạn vong niên với Tào Tháo đã nói: “Thiên hạ tất loạn, không có người đủ tài cái thế thì không trị được. Người dẹp an được thiên hạ tất là anh vậy!”
Chẳng biết vì sao khi rồi lời nói đó, Kiều Huyền bèn nhắn nhủ giao vợ con cho Tháo để Tháo giúp trông nom rồi ra đi…?
Còn Hứa Thiệu, tên chữ là Tử Tương, người Nhữ Nam, vốn là danh sĩ, nhà bình luận nổi tiếng đương thời. Ai được Hứa Thiệu bình luận thì tức khắc nổi tiếng.
Tào Tháo cũng đến xin Hứa Thiệu bình cho một câu, nhưng Hứa Thiệu không chịu dù Tháo nài nĩ hết mức. Sau đó nhân lúc Hứa Thiệu ra ngoài, Tào Tháo lấy đao ra dí vào bụng Hứa Thiệu bức bách Hứa Thiệu, buộc phải có lời nhận xét về ông. Hứa Thiệu đành phải đánh giá Tào Tháo là, “năng thần (quan giỏi) thời trị và gian hùng thời loạn”.
Tào Tháo nghe xong cả cười rồi bỏ đi.
Dịch Trung Thiên, người Trường Sa, Hồ Nam, năm 1981 tốt nghiệp đại học Vũ Hán, sau khi đạt được học vị Thạc sĩ Văn Học (bao gồm tất cả các bộ mơn văn học và nghệ thuật) được giữ lại trường giảng dạy, hiện nay ông là Giáo sư Học viện Nhân văn Đại học Hạ Môn. Ông nhiều năm nghiên cứu văn học, mỹ học, tâm lý học, nhân loại học, lịch sử học... trong bộ “Nhân vật nổi tiếng đời Hán”, viêt, “Hứa Thiệu đã thấy được Tào Tháo, là nhân vật có hai mặt của thời bình và thời loạn”.
Còn muốn trở thành năng thần trị lý hay gian hùng trong lúc thiên hạ nhiễu loạn cho thấy Tào Tháo là người biết chọn thời cơ mà xử sự công việc. Trên phương diện nầy cho ta thấy Tào Tháo là người đầy bản lãnh biết áp dụng từng hoàn cảnh mà thi thố tài năng, rất xứng hợp bản chất của một Nhà Chính Trị.
Vả lại, còn phải xem vào thời đại sống và nguyện vọng chủ quan của Tào Tháo. Tào Tháo sống vào thời loạn, phải sử dụng mưu lược thích hợp cho từng hòan cảnh, bị đánh giá là kẻ gian hùng đó là lẽ tất nhiên. Thời loạn lạc, ai là kẻ chẳng lợi dụng thời cơ?
Nhận định về Tào Tháo, Mao Trạch Đông viết:
“Tào Tháo thống trị miền Bắc Trung Quốc, sáng lập nước Ngụy, ông đã cải cách nhiều hủ hóa trong triều Đông Hán, áp chế cường hào, phát triển sản xuất, thực hiện chế độ quân điền, còn đôn đốc khai hoang, cho thực thi pháp chế, đề xướng tiết kiệm, biến một xã hội đã bị phá vỡ nghiêm trọng bắt đầu đi vào ổn định, khơi phục và phát triển.
Ngần ấy chẳng lẽ không đủ để khẳng định, chẳng lẽ không phải là tài cán phi thường hay sao?” (Mao Trạch Đông)
Dưới đây là những bài HÀNH tiêu biểu của Tào Tháo:
ĐOẢN CA HÀNH của TÀO THÁO
Đối tửu đương ca
Nhân sinh kỷ hà?
Thí như triêu lộ
Khứ nhật khổ đa
Khái đương dĩ khảng
Ưu tư nan vong
Hà dĩ giải ưu?
Duy hữu đỗ khang
Thanh thanh tử khâm
Du du ngã tâm
Đãn vị quân cố
Trầm ngâm chí câm
Ao ao lộc minh
Thực dã chi bình
Ngã hữu gia tân
Cổ cầm suy sinh
Minh minh như nguyệt
Hà thời khả xuyết?
Ưu tùng trung lai
Bất khả đoạn tuyệt
Việt mạch độ thiên
Uổng dụng tương tồn
Khế khoát đàm yến
Tâm niệm cựu ân
Nguyệt minh tinh hy
Ô thước nam phi
Nhiễu thụ tam táp
Hà chi khả y?
Sơn bất yếm cao
Hải bất yếm thâm
Chu Công thố bộ
Thiên hạ quy tâm
Bản Dịch bài
DOẢN CA HÀNH của LỆ CHI SƠN
Trước ly rượu ta nên ca hát
Một đời người thấm thoát là bao?
Khác chi mấy hạt sương mai,
Ngày qua sầu tủi hỏi ai không buồn?
Vụt đứng dậy, lòng thêm khảng khái
Nhưng cái buồn đeo mãi không tha
Giải sầu chỉ một chăng là
Mượn đôi ba chén cửa nhà Đỗ Khang
Tuổi đi học, áo xanh cổ cứng
Mà lòng ta bịn rịn hôm mai
Nhưng thôi nhắc mãi làm chi
Tuổi xanh quá vãng vì mi ta buồn
Con hươu lạc kêu trên đồng vắng
Chân ngẩn ngơ mồn gặm cỏ non
Nhà ta khách quý rộn ràng
Đàn ca sáo phách bập bùng thâuđêm
Mảnh trăng nọ treo trên trời rộng
Biết bao giờ hết sáng ngàn cây?
Nỗi buồn ập đến ai hay
Lòng ta vương vấn khi đầy khi vơi
Xông pha mãi một đời gió bụi
Uổng công ta lui tới đeo đai
Bi hoan ly hợp một đời
Mong người tri kỷ đứng ngồi chẳng an
Trăng vằng vặc sao ngàn thưa thớt
Quạ về nam thảng thốt kêu thương
Liệng quanh cây những mấy vòng
Mà không tìm được một cành nương thân
Chẳng quản ngại ta tìm tri kỷ
Dù núi cao, biển cả sâu nông
Một đời nghiền ngẫm Chu công
Làm sao thiên hạ dốc lòng về ta.
Đoản Ca Hành là bài thơ, thể loại HÀNH. Tào Tháo làm hai bài, trên đây là bài thứ nhất. Ông viết để thể hiện ý chí và tâm nguyện của mình. Người viết – (TQMưu, không chắc bài Hành trên được Tào Tháo vào thời điểm nào? Có ý kiến cho rằng ông làm trong đêm trước khi lâm trận trận Xích Bích.
ĐỘ QUAN SAN - Tào Tháo
Thiên địa gian,
Nhân vi quý.
Lập quân mục dân,
Vị chi quỹ tắc.
Xa triệt mã tích,
Kinh vĩ tứ cực.
Truất trắc u minh,
Lê thứ phồn tức.
Ư thước hiền thánh,
Tổng thống bang vực.
Phong kiến ngũ tước,
Tỉnh điền, hình ngục.
Hữu phần đan thư,
Vô phổ xá thục.
Cao Đào phủ hầu,
Hà hữu thất chức.
Ta tai hậu thế,
Cải chế dịch luật.
Lao dân vị quân,
Dịch phú kỳ lực.
Thuấn tất thực khí,
Bạn giả thập quốc.
Bất cập Đường Nghiêu,
Thái chuyên bất chước.
Thế thán Bá Di,
Dục dĩ lệ tục.
Xỉ ác chi đại,
Kiệm vi cộng đức.
Hứa Do thôi nhượng,
Khởi hữu tụng khúc?
Kiêm ái, thượng đồng,
Sơ giả vi thích.
BẢN DỊCH - (Khuyết danh)
Trong trời đất,
Người quý nhất.
Lập vua chăn dân,
Đặt ra phép tắc.
Dấu ngựa xe qua,
Dọc ngang bốn cực.
Thưởng phạt phân minh,
Ấm no sung túc.
Thánh hiền đời xưa,
Trị khắp châu vực.
Năm tước lập ra,
Tỉnh điền, hình ngục.
Sổ tội đốt đi,
Miễn tha không được.
Phủ hầu Cao Đào,
Có đâu mất chức!
Than ôi đời sau,
Thay phép đổi luật.
Dân nhọc vì vua,
Thuế má lao lực.
Thuấn sơn đồ ăn,
Khó phục mươi nước.
Không như Đường Nghiêu,
Chẳng cần đẽo cột.
Đời than Bá Di,
Mong thành thói tốt.
Xa xỉ ác thay,
Tiết kiệm là đức.
Hứa Do nhịn nhường,
Có ai ca tụng?
Kiêm ái, thượng đồng,
Sơ thành thân thuộc.
GIỚI LỘ HÀNH - Tào Tháo
Duy Hán chấp nhị thế,
Sở nhậm thành bất lương.
Mộc hầu nhi quan đới,
Tri thiểu nhi mưu cường.
Do dự bất cảm đoán,
Nhân thú chấp quân vương.
Bạch hồng vi quán nhật,
Kỷ diệc tiên thụ ương.
Tặc thần trì quốc bính,
Sát chúa diệt vũ kinh.
Đãng phúc đế cơ nghiệp,
Tông miếu dĩ phần táng.
Bá việt tây thiên di,
Hiệu khấp nhi thả hành.
Chiêm bỉ Lạc thành quách,
Vi Tử vi bi thương.
BẢN DỊCH của Điệp Luyến Hoa
Đời thứ hăm hai nhà Hán,
Kẻ nhậm chức thật bất tài. (Chỉ như khỉ đội mũ)
Biết ít lại tính mưu to.
Do dự không dám quyết,
Giữ vua để thoát ra ngoài. (Nên bọn Trương Nhượng)
Cầu vồng trắng che khuất mặt trời (ý nói có biến loạn lớn),
Thân chuốc lấy tai ương trước khi tiến hành. (chỉ Hà Tiến)
Kẻ tặc thần nắm giữ quyền bính,
Giết vua, thiêu cháy kinh thành.
Cơ nghiệp đế vương bị lật đổ,
Tông miếu bị đốt cháy, chôn vùi.
Di dời về phía tây,
Khóc lóc dắt nhau đi.
Ngẩng nhìn thành quách Lạc Dương kia,
Bi thương giống như Vi Tử.
BẢN DỊCH của Điệp Luyến Hoa
Đời thứ hăm hai nhà Hán,
Kẻ nhậm chức thật bất tài. (Chỉ như khỉ đội mũ)
Biết ít lại tính mưu to.
Do dự không dám quyết,
Giữ vua để thoát ra ngoài. (Nên bọn Trương Nhượng)
Cầu vồng trắng che khuất mặt trời (ý nói có biến loạn lớn),
Thân chuốc lấy tai ương trước khi tiến hành. (chỉ Hà Tiến)
Kẻ tặc thần nắm giữ quyền bính,
Giết vua, thiêu cháy kinh thành.
Cơ nghiệp đế vương bị lật đổ,
Tông miếu bị đốt cháy, chôn vùi.
Di dời về phía tây,
Khóc lóc dắt nhau đi.
Ngẩng nhìn thành quách Lạc Dương kia,
Bi thương giống như Vi Tử.
KHỔ HÀN HÀNH - Tào Tháo
Bắc thượng Thái Hàng sơn,
Gian tai hà nguy nguy!
Dương trường bang cật quật.
Xa luân vị chi tồi,
Thụ mộc hà tiêu sắt!
Bắc phong thanh chính bi.
Hùng bi đối ngã tôn,
Hổ báo hiệp lộ đề.
Khê cốc thiểu nhân dân,
Tuyết lạc hà phi phi.
Diên canh trường thán tức,
Viễn hành đa sở hoài.
Ngã tâm hà phẫn uất ?
Tứ dục nhất đông quy.
Thuỷ thâm kiều lương tuyệt,
Trung lộ chính bồi hồi.
Mê hoặc thất có lộ,
Bạc mộ vô túc lâu.
Hành hành nhật dĩ viễn,
Nhân mã đồng thời cơ.
Đảm nang hành thủ tân,
Phủ băng trì tác my.
Bi bỉ "Đông Sơn" thi,
Du du linh ngã ai!
BẢN DỊCH (khuyết danh)
Xuôi miền bắc vượt lên núi Thái Hàng
Cao chót vót thật là gian nguy!
Đường đi trên dốc núi quanh co như ruột dê
Bánh xe muốn gãy đổ
Cây cối hiu hắt buồn bã làm sao!
Nghe gió bắc thổi thật sầu não
Beo gấu ngồi xổm trước mặt
Hổ báo kêu gào ở giữa đường
Khe vực không có người dân nào ở
Mưa tuyết rơi mịt mù
Dài cổ kêu than cực khổ
Viễn chinh chất ngất nhiều nỗi
Tâm can u uất nghẹn ngào
Muốn trở về miền đông ngay
Nước sâu cầu lại gãy
Đường chính đi quanh co
Mê hoặc lạc mất đường
Trời chiều không biết ở lại đâu
Ngày ngày đi mãi xa xôi ròng rã
Người ngựa đói meo
Lấy đòn gánh làm củi
Đập băng để nấu cháo ăn
Bi phẫn quá làm thơ Đông Sơn
Nỗi buồn này dài dằng dặc!
Theo Thư Viện Net: “Khổ Hàn Hành là tên một khúc nhạc phủ, thuộc Tương Họa Ca. Năm Kiến An thứ 10 (205) đời Hán Hiến Đế, Tào Tháo đuổi theo Viên Thiệu thống trị tại vùng Hà Bắc. Cháu ngoại của Viên Thiệu là Cao Cán (? – 205) đem Tinh Châu (nay thuộc Thái Nguyên) đầu hàng Tào Tháo, nhưng sau đó nghe nói Tào Tháo sắp đánh Ô Hoàn (Hung Nô) nên lại phản, phái binh giữ cửa Hồ Quan (nay ở đông nam huyện Trường Trị, Sơn Tây). Tháng giêng năm Kiến An thứ 11 (206), Tháo vượt Thái Hàng sơn đánh Cao Cán, đến tháng ba thì đánh bại Cao Cán.
Bài thơ này được làm vào thời gian này miêu tả cảnh sinh hoạt gian nan, là một bài thơ tiêu biểu cho thơ ca Kiến An.”
ĐỐI TỬU CA - Tào Tháo
Thái bình thì,
Lại bất hô môn.
Vương giả hiền thả minh,
Tể tướng cổ quăng giai trung lương.
Hàm lễ nhượng,
Dân vô sở tranh tụng.
Tam niên canh hữu cửu niên trừ,
Thương cốc mãn doanh.
Ban bạch bất phụ tải.
Vũ trạch như thử,
Bách cốc dụng thành.
Khước tẩu mã,
Dĩ phân kỳ thổ điền.
Tước công hầu bá tử nam,
Hàm ái kỳ dân,
Dĩ truất trắc u minh.
Tử dưỡng hữu nhược phụ dữ huynh.
Phạm lễ pháp,
Khinh trọng tuỳ kỳ hình.
Lộ vô thập di chi tư.
Linh ngữ không hư,
Đông tiết bất đoán.
Nhân mạo điệt,
Giai đắc dĩ thọ chung.
Ân đức quảng cập thảo mộc côn trùng.
BẢN DỊCH của Cổ Mộ
Nâng chén ca,
Buổi thái hoà,
Quan không thúc thuế.
Vua chúa sáng hiền,
Trung lương tướng tá tài ba.
Cùng nhau nhường kính,
Tranh chấp không xảy ra.
Ba năm cày cấy, chín năm vẫn ấm no,
Lúa gạo đầy kho,
Việc nặng không đến người già.
Mưa thuận gió hoà,
Ngũ cốc được mùa.
Bắt ngựa hoang,
Giúp canh tác mùa màng.
Các vị công, hầu, bá, tử, nam,
Đều yêu thương dân chúng,
Thưởng phạt phân minh.
Coi dân như con em mình.
Kẻ phạm lễ pháp,
Tùy nặng nhẹ xử hình.
Ngoài đường của rơi không ai nhặt.
Trong lao tù vắng tanh,
Mùa đông không có án.
Người già cả,
Sống trọn tuổi trời.
Cả thảo mộc côn trùng, ân đức đều đến nơi.
Qua những bài thơ tiêu biểu trên đây, có thể biết được nỗi lòng của Tào Tháo rất giàu tinh thần đối với Quốc Gia Dân Tộc. Nặng tình người, giàu lòng nhân ái. Thật xứng đáng là bậc anh hùng trong thời Hán mạt.
Tham khảo có trích đoạn:
- Những Hán tự, chưa hiểu chính xác tôi (TQM) đều thỉnh ý trực tiếp Học giả Minh Di, ở Úc Châu.
- Sữ Ký Tư Mã Thiên
- Bộ chánh sử Tam Quốc Chí của Trần Thọ.
- Tam Quốc Diễn Nghĩa của La Quán Trung – Đa số người đọc, khi họ xem Tam Quốc Diễn Nghĩa của La Quán Trung, nếu có ai hỏi, họ đang xem gì? Họ sẽ chẳng ngại ngùng đáp, “Đang đọc “Tam Quốc Chí”. Thực tế, Tam Quốc Diễn Nghĩa, chỉ là bộ tiểu thuyết do La Quán Trung dựa vào Bộ Chánh Sử “Tam Quốc Chí” để viết ra.
- Bách Khoa Toàn Thư.