Góp thêm tài liệu về cuộc đời của Đỗ Phủ.
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia tiếng Việt, khi viết về thi thánh Đỗ Phủ (杜甫, 712-770) có đoạn:
Ông lập gia đình khoảng năm 752, và tới năm 757 họ đã có năm con (ba trai hai gái) nhưng một cậu con trai ông đã chết khi còn thơ ấu năm 755.
Từ năm 754 ông bắt đầu bị bệnh phổi (có lẽ là hen suyễn). Tháng 3 năm 768 ông lại bắt đầu chuyến hành trình tới tỉnh Hồ Nam. Ông mất tại Đàm Châu (nay là Trường Sa) vào tháng 11 hay tháng 12 năm 770, ở tuổi 59, trên một chiếc thuyền rách nát…
Vợ và các con ông vẫn ở tại đó thêm ít nhất hai năm nữa. Cuối cùng dòng dõi còn được biết của ông là một cháu trai, người đã đề nghị Nguyên Chẩn Nguyên Chẩn (779-831, cũng là một nhà thơ có tiếng đời Đường) viết bài minh trên mộ ông vào năm 813.
Nhưng theo Dịch Quân Tả, một học giả người Trung Quốc, tác giả Văn học sử Trung Quốc, thì:
Nguyên nhân chết và địa điểm chết của Đỗ Phủ, từ lâu vẫn là đề tài tranh luận của các học giả.
Ngay cả Đường thư chép về Đỗ Phủ cũng rất thiếu sót, sai nhiều nên ông không theo sách ấy khi viết tiểu sử của Đỗ Phủ.
Sau đây là tài liệu do Dịch Quân Tả cung cấp:
Đỗ Phủ, tự Tử Mỹ. Ngoài ra, ông còn được gọi là Đỗ Thiếu Lăng (杜少陵) hay Đỗ Công Bộ (杜工部)…
Ông là nhà thơ rất nổi tiếng (được người đời gọi tôn là Thi thánh và thơ ông được gọi là Thi sử), vốn người Tương Dương (Trung Quốc), về sau dời về huyện Củng thuộc tỉnh Hà Nam.
Xuất thân trong một gia đình quan lại, có truyền thống văn học nhưng cảnh nhà đã sa sút.
Nhờ hiếu học, bảy tuổi ông đã biết làm thơ, 14 tuổi đã giao lưu với các văn nhân, 20 tuổi bắt đầu đi chơi ở Giang Nam; lưu lại ở Trường An ngót 4 năm, ứng thí tiến sĩ nhưng không đậu.
Sau đó ông bắt đầu mạn du đến Sơn Đông, Sơn Tây, Hà Nam gần tám, chín năm, rồi trở lại Trường An và vẫn chưa được mọi người biết đến, ông buồn bã quay về nhà.
Năm Thiên Bảo cửu niên, Đổ Phủ đã 39 tuổi. Ông hiến một bài phú lên Đường Huyền Tông, nhưng không thấy nhà vua có phản ứng gì. Năm sau, ông lại hiến bài Đại lễ phú, từ đó nhà vua mới bắt đầu xem trọng ông, phong ông làm Tây Hà úy.
Về sau được cải nhậm là Trụ tào tham quân, lúc bấy giờ ông đã 43 tuổi.
Chưa đầy một năm sau, tức năm 755, tướng An Lộc Sơn khởi quân chống nhà Đường, ông đến Linh Vũ yết kiến Đường Túc Tông, không ngờ giữa đường bị quân nổi dậy bắt. Phải hơn năm sau ông mới thoát khỏi, hối hả đến Phụng Tường.
Tại đây, Túc Tông phong ông làm Tả thập di. Không lâu, nhân vì muốn cứu Phòng Quản, ông bị biếm làm Tư hộ tham quân tại Hoa Châu.
Kể từ đó, ông chán nản công danh nên đến ở tại Thành Đô (Tứ Xuyên), dựng thảo đường ở Hoãn Hoa khê. Tại đây ông đã phải sống qua một thời kỳ cùng khổ và u nhàn.
Về sau, Nghiêm Vũ đến trấn ở Thục. Vốn là bạn cố hữu, nên viên quan này đã tiến cử ông làm Tiết độ tham mưu và Kiểm hiệu Công bộ ngoại lang. Không lâu sau, Nghiêm Vũ mất, ông đến với Cao Thích (702-765, người Thương Châu, cũng là nhà thơ có tiếng thời Đường. Đỗ Phủ đã gặp và kết bạn với Cao Thích, Lý Bạch trong khoảng thời gian sau khi thi hỏng) lúc bấy giờ đang làm Tiết độ sứ ở Tây Xuyên.
Nhưng Đỗ Phủ vừa đến thì Cao Thích cũng vừa mất, thế là ông phải mang gia đình đến Tam Giáp ở một thời gian.
Trong khi rời Thục, đang đi trên sông Tương, ông mất trên thuyền, hường thọ 59 tuổi.
Trước ngày chết, ông có đến huyện Lôi Dương thuộc tỉnh Hồ Nam. Lúc bấy giờ huyện đang bị ngập nước và quan huyện có hiến ông rượu trắng cùng thịt bò, đó là một việc có thực. Tuy nhiên Đường thi lại ghi ông chết vì tham ăn thịt rượu, thật là một điều oan uổng đối với ông.
Hiện ở huyện này, còn ngôi mộ của Đỗ Phủ. Tôi (Dịch Quân Tả) đã từng khảo cứ và kết luận rằng đó chính thực là ngôi mộ của ông, do người đời sau vì mến ông mà xây cất lại. Lúc kháng chiến, tôi có dịp đến ngôi thảo đường của ông tại Thành Đô để chiêm điếu, thấy di phong như còn phảng phất đau đây.
Lịch sử văn minh Trung Quốc của Will Durant, một nhà sử học người Mỹ gốc Pháp, cho biết thêm:
Gần về già, Đỗ Phủ theo Nghiêm Vũ sang đất Thục. Nghiêm Vũ quí ông lắm, vận động cho ông chức Công bộ viên ngoại lang. Nhưng khi Nghiêm Vũ mất rồi, nội loạn tăng lên, ông trở lại cảnh sống không một đồng dính túi, mà con cái thì nheo nhóc…
Về già, ông sống rầu rĩ, bị mọi người bỏ rơi, thành một “vật xấu xa không ai muốn nhìn”. Đến khi ấy, nóc nhà bị gió thổi tung, bọn trộm cướp vào lấy tới cả mớ rơm lót giường, mà ông yếu quá, không ngăn nổi. Sau cùng, không thể làm thơ để mưu sinh được nữa, thêm buồn rầu, mới năm mươi lăm tuổi mà trông ông đã già khọm.
Một hôm, một ông quan đã đọc thơ ông, gặp ông, đưa ông về nhà, làm một bữa tiệc đãi ông. Thịt bò bốc hơi thơm phức, rượu ngon đầy bình; đã bao lâu nay Đỗ Phủ chưa được một bữa thịnh soạn như vậy. Vì đói, ông ăn ngấu nghiến. Chủ nhân xin ông một bài thơ, ông rán làm rồi ngâm lên, nhưng vì bội thực, ông té xuống. Hôm sau ông tắt thở.
Trong Đại cương Văn học sử Trung Quốc, Nguyễn Hiến Lê cũng đã viết: "Sử (Trung Quốc) chép "đương lúc đói, ăn nhiều thịt bò quá, ông bị chứng thương thực qua đời" (Nxb Trẻ, 1997, tr. 350)
Bùi Thụy Đào Nguyên, góp nhặt.
Nguồn tham khảo:
-Will Durant, Lịch sử văn minh Trung Quốc (Nguyễn Hiến Lê dịch, Trung tâm thông tin thuộc Đại học sư phạm TP. HCM xuất 1990, tr.146-147.
- Dịch Quân Tả, Văn học sử Trung Quốc, GS. Huỳnh Minh Đức dịch. Nxb Trẻ, 1992, tr. 392-393.
- Bách khoa toàn thư mở Wikipedia tiếng Việt, tại: [http://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BB%97_Ph%E1%BB%A7]