Trương Húc (張旭, khoảng 658 - 747), tên chữ Bá Cao (伯高), người Tô Châu, tỉnh Giang Tô; là một nhà thơ và là nhà thư pháp nổi tiếng thời nhà Đường, Trung Quốc.
I. Tiểu dẫn:
Trong thời Khai Nguyên, đời vua Đường Huyền Tông, Trương Húc làm quan đến Thường thục úy, về sau thăng đến Hữu Suất Phủ Trưởng Sử (右率府長史), nên còn được gọi là ''Trương trưởng sử''.
Ông cùng với Hạ Tri Chương, Trương Nhược Hư và Bao Dung, được người đương thời liệt vào "Ngô trung tứ sĩ" (Bốn danh sĩ đất Ngô).
Ngoài tài thơ, hay rượu, Trương Húc còn là một nhà thư pháp nổi tiếng. Đặc biệt ông giỏi “cuồng thảo” (狂草), là một trong nhiều hình thức viết chữ trong nghệ thuật thư pháp. Do vậy, ông và Hoài Tố(1), người cùng thời, được người đời xưng tụng là “cuồng thảo nhị tuyệt” (狂草二絕: hai bậc tuyệt đỉnh về cuồng thảo), là “Điên Trương tuý Tố” (顛張醉素: Trương Húc điên, Hoài Tố say).
Tương truyền, Trương Húc đã lấy cảm hứng từ những màn múa kiếm của Công Tôn Đại Nương rồi đưa vào phong cách viết đặc biệt của mình.
II.Trích sáng tác
-桃花溪
Đào hoa khê (Suối hoa đào)
Nguyên tác:
隱隱飛橋隔野煙,
石磯西畔問漁船。
桃花盡日隨流水,
洞在清溪何處邊。
Hán -Việt:
Ẩn ẩn phi kiều cách dã yên,
Thạch ky tây bạn, vấn ngư thuyền.
Đào hoa tận nhật tùy lưu thuỷ,
Động tại thanh khê hà xứ biên ?
Trần Trọng Kim dịch thơ:
Cầu bay cách khói mờ mờ,
Hỏi thăm thuyền cá đậu bờ đá kia.
Suốt ngày nước chảy hoa đi,
Chẳng hay trong suối, động kề mé nao?
-春草
Xuân thảo (Cỏ xuân)
Nguyên tác:
春草青青萬里餘,
邊城落日見離居。
情知海上三年別,
不寄雲間一紙書。
Hán-Việt:
Xuân thảo thanh thanh vạn lý dư,
Biên thành lạc nhật kiến ly cư.
Tình tri hải thượng tam niên biệt,
Bất ký vân gian nhất chỉ thư.
Điệp luyến hoa dịch thơ:
Xanh biếc cỏ xuân vạn dặm dư,
Bên thành chiều toả bóng thôn cư.
Tính ra trên biển ba năm cách,
Chưa gửi theo mây một tấm thư.
-清溪泛舟
Thanh khê phiếm chu (Du thuyền trên Thanh khê)
Nguyên tác:
旅人倚征棹,
薄暮起勞歌。
笑攬清溪月,
清輝不厭多。
Hán-Việt:
Lữ nhân ỷ chinh trạo,
Bạc mộ khởi lạo ca.
Tiếu lãm Thanh khê nguyệt,
Thanh huy bất áp đa.
Điệp luyến hoa dịch thơ:
Khách xa ngồi tựa mái chèo
Nặng nề khúc hát trong chiều hắt hiu
Thanh Khê ngắm mảnh trăng cười,
Ánh xanh chẳng toả bao nhiêu xuống dòng.
IV.Thông tin thêm
Lý Kỳ (2) cũng là một danh sĩ sống cùng thời, đã mô tả phong cách sống của Trương Húc qua bài thơ sau:
贈張旭
Tặng Trương Húc
Nguyên tác:
張公性嗜酒,
豁達無所營。
皓首窮草隸,
時稱太湖精。
露頂據胡床,
長叫三五聲。
興來灑素壁,
揮筆如流星。
下舍風蕭條,
寒草滿戶庭。
問家何所有,
生事如浮萍。
左手持蟹螯,
右手執丹經。
瞪目視霄漢,
不知醉與醒。
諸賓且方坐,
旭日臨東城。
荷葉裹江魚,
白甌貯香粳。
微祿心不屑,
放神於八紘。
時人不識者,
即是安期生。
Hán-Việt:
Trương công tính thị tửu,
Khoát đạt vô sở doanh.
Hạo thủ cùng thảo lệ,
Thì xưng Thái Hồ tinh.
Lộ đỉnh cứ Hồ sàng,
Trường khiếu tam ngũ thanh.
Hứng lai sái tố bích,
Huy bút như lưu tinh.
Hạ xá phong tiêu điều,
Hàn thảo mãn hộ đình.
Vấn gia hà sở hữu,
Sinh sự như phù bình.
Tả thủ trì giải ngao,
Hữu thủ chấp đan kinh.
Trừng mục thị tiêu hán,
Bất tri tuý dữ tỉnh.
Chư tân thả phương toạ,
Húc nhật lâm đông thành.
Hà diệp khoả giang ngư,
Bạch âu trữ hương canh.
Vi lộc tâm bất tiết,
Phóng thần ư bát hoành.
Thì nhân bất thức giả,
Tức thị An Kỳ sinh.
Hoàng Tạo dịch thơ:
Tặng Trương Húc
Ông Trương tính thích rượu,
Phóng khoáng chẳng hề lo.
Bạc đầu rèn chữ thảo,
Nổi tiếng: "Tinh Thái Hồ".
Vịn giường Hồ, ló đầu,
Huýt dài năm ba tiếng.
Hứng lên vách phấn đề,
Múa bút như sao chuyển.
Túp lều gió heo hút,
Cỏ lạnh mọc đầy nơi.
Hỏi nhà, nhà rỗng tuyếch,
Cuộc sống cánh bèo trôi.
Tay trái chiếc càng cua,
Tay phải quyển kinh đỏ.
Trừng mắt nhìn trời mây,
Tỉnh say nào ai rõ ?
Bạn bè còn ngồi đó,
Nắng sớm rọi thành đông.
Con cá, lá sen bọc,
Mớ gạo đựng trong cong.
Lộc nhỏ lòng dửng dưng,
Tinh thần tám cõi mở.
Người đời ai chửa hay,
Tưởng An Kỳ Sinh (3) đó.
Bùi Thụy Đào Nguyên, giới thiệu.
Chú thích:
(1) Hoài Tố (懷素 , khoảng 730 - 780) vốn họ Tiền 錢, tự là Tàng Chân 藏真, quê ở Trường Sa (Hồ Nam), là nhà sư xuất gia từ nhỏ và vì nghèo không tiền mua giấy, phải luyện thư pháp trên lá chuối. Nhờ xem những vết rạn nứt trên tường và những tia sấm chớp mà ông lĩnh hội được cái thần của thư pháp. Hoài Tố thích uống rượu, uống say rồi thì gào thét phóng bút trên giấy như điên cuồng hoặc nhúng cả đầu tóc vào nghiên mực, tuy có vẻ cuồng loạn nhưng lại có qui củ riêng. Vua Đường Văn Tông 唐文宗 (Lý Ngang 李昂, ở ngôi: 827-840) sắc chiếu phong rằng đời Đường có Tam Tuyệt 三絕 (ba thứ tuyệt đỉnh) là Thi ca của Lý Bạch 李白, tài múa kiếm của Bùi Mân 裴旻, và cuồng thảo của Trương Húc.
(2) Lý Kỳ (李頎), sống trước sau 725, người Đông Xuyên, tỉnh Tứ Xuyên, sau ở Hà Nam, Trung Quốc. Trong thời Khai Nguyên, đời Đường Huyền Tông, ông đỗ tiến sĩ, làm quan chức úy tại huyện Tân Hương, nhưng mãi không được thăng chức, bèn trở về ở ẩn. Ông thường đi lại với Vương Xương Linh, Vương Duy, Cao Thích. Ông học luyện đan và thường bàn đạo lý nhà Phật trong thơ. Ngoài ra, ông cũng có làm một số thơ biên tái. Phong cách của ông cũng hào phóng, khẳng khái, gần Lý Bạch.
(3) An Kỳ Sinh (còn gọi là Yên Kỳ Sinh), người nhà Tần, rất giỏi nghề thuốc. Vua Tần Thủy Hoàng mời, ông không ở lại mà trốn ra chốn Bồng Lai. Đời sau xếp ông vào hạng thần tiên.
Tham khảo:
-Thơ Đường tập I, Nxb Văn học, 1987, tr. 326.