(Bài viết này có nhắc lại một vài ý trong ba bài bình thơ)
KHÚC NHẠC DẠO ĐẦU
Đởm Lược Của Thi Sĩ
1/ Đỗ Trung Quân:
Nhiều người yêu thơ tỏ vẻ tiếc và có ý trách ĐTQ “quá cẩn thận”, đã nhét Tạ Lỗi Trường Sơn vào “hộc tủ” quá lâu nên khi xuất hiện không còn nóng hổi tính thời sự. Tôi hoàn toàn không đồng ý với kiểu trách móc đó. Năm 1983 tôi đã ở chung trại (cải tạo) với một thầy giáo trở thành tù chính trị - bị kết án 18 năm tù vì đã sáng tác một bài thơ chỉ hơi “đụng chạm” đến chế độ. Trong không khí chính trị như thế nếu ĐTQ phổ biến bài thơ thì hậu quả sẽ khó lường. Với tôi, ĐTQ là dân miền nam (Sài Gòn) mà dám viết bài thơ với nội dung “vượt lằn ranh” và với giọng điệu “chửi thẳng mặt” “những người nhân danh Hà Nội” thì đã là có chút máu liều. Thế rồi lại dám phổ biến bài thơ đó ở Việt Nam năm 2009 – lúc mình còn đang sống nhăn – thì trong người anh chắc chắn máu cũng phải có thêm ít nhiều “chất” dũng cảm. So với Chế Lan Viên thì lá gan của anh chắc phải nặng hơn vài chục gram.
Tiếc là tứ thơ của anh chỉ bó hẹp trong một số sự việc “ngang tai trái mắt” của những năm đầu đổi thay chế độ cho nên sau 27 năm nó đã nguội, mất gần hết tính thời sự, chỉ như “nhắc lại chuyện xưa cho biết người biết ta vậy thôi”.
2/ Nguyễn Duy:
Rất anh hùng. Biết đó là những vần thơ đã vượt qua lằn ranh, “bước bào vòng cấm địa” của chế độ mà ông gọi là những vần thơ tuẫn tiết - phổ biến là có thể tù đày hoặc mất mạng – nhưng vẫn cứ “chơi”, và sẵn sàng chấp nhận hậu quả. Người đời kính trọng ông, yêu mến ông vì tài thơ, vì lòng yêu nước, nhưng có lẽ còn kính trọng và yêu mến ông nhiều hơn nữa vì đởm lược – thái độ anh hùng, hiên ngang bất khuất - của ông.
3/ Chế Lan Viên:
Hèn nhát, thiếu sĩ khí. Đã nhận ra sự hoang tưởng của CNXH ngay từ lúc đầu:
“Chưa cần cầm lên nếm anh đã biết là bánh vẽ”
nhưng vẫn ngậm tăm, tiếp tay cho những người vẽ bánh lừa dối dân tộc. Viết dấm dúi mấy bài thơ, đợi mấy năm sau khi chết mới cho phổ biến.
Ảnh Hưởng, Tiếng Vang Của Bài Thơ
1/ Tạ Lỗi Trường Sơn
Hơi thơ nóng bỏng, hồn thơ lai láng, nhưng khi bài thơ xuất hiện thì tứ thơ đã “nguội”, không còn tính thời sự. Người yêu thơ tìm đọc TLTS là để thưởng thức tài thơ của ĐTQ và để “biết người biết ta”. Sau 27 năm nằm trong hộc tủ bài thơ đã mất rất nhiều sức hấp dẫn lẽ ra phải có nếu xuất hiện “đúng thời vụ”.
2/ Nhìn Từ Xa … Tổ Quốc
Khi báo Sông Hương bị đình bản để kiểm điểm, thi sĩ như cá nằm trên thớt, nhà bị công an theo dõi rình mò (1) nhưng người dân thì hả lòng, hả dạ. Họ đã thấy, đã trải nghiệm, đã chịu đựng những căn bệnh quái ác của chế độ, của đất nước từ rất lâu nhưng vì sợ cho bản thân và gia đình, không dám nói ra thì bỗng nhiên tất cả những điều ấm ức ấy được tuyên bố một cách long trọng, đầy nghệ thuật bằng một bài thơ … nặng ký. Sự xuất hiện của Nhìn Từ Xa … Tổ Quốc do đó, rất đúng lúc, tính thời sự nóng hổi, trở thành một sự kiện văn học lớn, làm xôn xao dư luận trong nước cả bắc lẫn nam.
3/ Bánh Vẽ
Bài thơ đã bôi bác, phỉ nhổ chế độ một cách cay độc, lời lẽ nhẹ nhàng nhưng ý tứ, nội dung của câu chửi “nặng đến nghìn cân”, độ phủ sóng của tứ thơ rất rộng, bao trùm mọi mặt của chế độ, của xã hội. Cộng với vị trí của ông trong chính quyền, làm công việc lãnh đạo tinh thần, tư tưởng nên câu chửi có căn cớ, gốc rễ, có độ khả tín cực cao, chế độ không còn đường nào biện minh, chối cãi. Bài thơ làm tan rã (hoặc lung lay) nền tảng lý tưởng của ngay cả những người cộng sản lâu năm.
Được Mất Của Thi Sĩ Khi Trình Làng Bài Thơ
a/ Đỗ Trung Quân: Đưa đội quân chữ nghĩa của mình vào thử lửa trong một trận đánh lớn và đã thành công ở mặt tài thơ. Do tầm nhìn chưa thấu đáo ở tứ thơ cộng thêm bài thơ bị “ngâm tôm” quá lâu nên ảnh hưởng về mặt chính trị và xã hội giới hạn.
b/ Nguyễn Duy: Qua NTXTQ đã biểu lộ một tấm lòng yêu nước sắt son, một đởm lược phi thường (rất anh hùng), một tài thơ trác tuyệt – đã thành công khi đưa các con chữ của mình vào một trận đánh lớn (hơn cả ĐTQ). Uy tín của Nguyễn Duy đã lên rất cao ở cả 2 mặt tài thơ và nhân cách.
c/ Chế Lan Viên: Qua Bánh Vẽ CLV đã biểu lộ một tầm nhìn xa và sâu sắc (về mặt chính trị) một tài thơ điêu luyện, kỹ thuật thơ hoàn hảo. Nhưng qua đó cũng lộ ra một nhân cách kém cỏi: ham hố chức vị, quyền lợi vật chất, tâm địa gian ác, kẻ sĩ cầm bút mà rất hèn, đã tích cực tham gia Vẽ Bánh để lừa cả dân tộc.
CHỌN BÀI THƠ HAY NHẤT
Trong một bài bình thơ, sau khi phân tích và đưa ra nhận định về giá trị nghệ thuật của bài thơ, nhà phê bình thường bàn thêm về mối tương quan giữa tác giả, tác phẩm và bối cảnh lịch sử xã hội để biết vị trí, tầm quan trọng của tác phẩm trong dòng vận động của văn học, văn học sử, lịch sử của đất nước và - nếu là tác phẩm lớn - của cả nhân loại. Nhưng khi muốn “chọn bài thơ hay nhất” tức là muốn nói đến giá trị nghệ thuật – cái hay, cái dở - của những bài thơ được so sánh nhà phê bình phải chặt hết dây mơ rễ má, cắt đứt mọi mối quan hệ để bài thơ không còn bất cứ một chỗ nào dựa dẫm mà phải tự đứng trên đôi chân của nó.
Lúc ấy đởm lược của tác giả (anh hùng hay “anh hèn”), yêu nước thương nòi hay chỉ là loại sâu dân mọt nước, tiếng vang của bài thơ (ít người chú ý đến hay làm xôn xao dư luận của cả nước), chỗ đứng trong văn học sử hay lịch sử (bài thơ có đại diện cho một giai đoạn lịch sử, hay không) … đều phải bỏ qua một bên mà chỉ chú tâm đến mấy tiêu chí quan trọng để thẩm định giá trị nghệ thuật một bài thơ là: Tứ Thơ, Kỹ Thuật Thơ và Hồn Thơ.
Bình chọn chỉ dựa theo những tiêu chí này thì bài thơ được lợi nhất là Bánh Vẽ của Chế Lan Viên. Những điểm tệ hại trong nhân cách của nhà thơ như Hèn, Gian Ác, Sâu Dân Mọt Nước - lẽ ra sẽ bị điểm rất xấu - đều không được nhắc đến. Kế đến là TLTS của ĐTQ. Khuyết điểm “tứ thơ đã mất hẳn tính thời sự” - lẽ ra sẽ bị trừ điểm – thì lại được cho qua. Và bài thơ chịu thiệt thòi nhất là Nhìn Từ Xa … Tổ Quốc của Nguyễn Duy. Đởm lược anh hùng, lòng yêu nước sắt son của nhà thơ, nhận được rất nhiều thiện cảm của nhà phê bình, của người đọc - lẽ ra sẽ được thêm điểm – thì lại phải vứt qua một bên.
Và bây giờ tôi sẽ thực hiện công việc mà tiêu đề của bài viết đã đưa ra là so sánh giá trị nghệ thuật của 3 bài thơ.
Ý, Tứ Thơ
1/ Tạ Lỗi Trường Sơn:
a/ Đối tượng: Những người nhân danh Hà Nội – dân bắc kỳ 75
b/ Những điều chê trách:
-
Ham hố, tìm kiếm những tiện nghi vật chất, những cái xấu của Sài Gòn (miền nam) mà chính miệng mình đã lên tiếng miệt thị, chửi rủa
-
cố bám trụ ở nam, không về bắc, quê hương xứ sở của mình.
Về điều chê trách thứ nhất, ĐTQ chê không đúng đối tượng. Những kẻ “đẻ” ra những lời lẽ, giọng điệu miệt thị dân nam là đám chóp bu Bộ Chính Trị, Trung Ương Đảng và đám cán bộ (Văn Hóa, Báo Chí) cấp trung bị bắt buộc phải nói như thế, chứ hầu hết bộ đội (và sau này là gia đình họ) chắc là mặt cũng không đủ dầy để nói những lời như vậy trước mặt dân Sài Gòn. Hơn nữa, ăn ngon mặc đẹp, sống đầy đủ tiện nghi vật chất là ước mơ thiết thực của con người. Dân bắc lúc ấy có “mê mồi” tìm kiếm những thứ ấy cũng là lẽ thường, không đáng để bị khinh khi.
Về điều chê trách thứ hai, ở miền bắc đất hẹp người đông, người khôn của khó lại phải trải qua hơn 20 năm dưới chế độ kém phát triển về kinh tế nên đời sống của người dân cơ cực. Vào nam thấy thoải mái, dễ sống - đất lành chim đậu - họ muốn ở lại cũng là điều dễ hiểu.
May mắn là nhờ đọc “giữa hai hàng kẻ” độc giả đã hiểu được 2 điều mà đám chóp bu Hà Nội ra sức dấu diếm: Một là, những cái “ưu việt” của chế độ và con người XHCH chỉ là phét lác. Dân miền bắc ngạc nhiên đến choáng ngợp (2) trước sức phát triển và vẻ đẹp của “Hòn Ngọc Viễn Đông” (3) và các thành phố lớn ở miền nam. Mức sống của dân miền nam lúc đó khá cao - đặc biệt là thực phẩm và tiện nghi vật chất - đã vượt xa mức sống của người dân miền bắc. Hai là, chính quyền đã có hẳn một chính sách đẩy dân miền nam đi vủng kinh tế mới để đưa dân miền bắc vào “chiếm” những “điểm then chốt” trong những thành phố lớn - đặc biệt là Sài Gòn.
2/ Nhìn Từ Xa Tổ Quốc
ĐTQ khi viết TLTS (1982) mới chỉ biết “những người nhân danh Hà Nội” có 7 năm - thời gian chưa đủ để những hậu quả to lớn và lâu dài của chế độ XHCH hằn rõ nét trên mặt những con người miền nam yêu dấu của anh. Nguyễn Duy đã biết và sống với XHCN có thể nói gần cả cuộc đời, và trong chừng mực nào đó – chính ông cũng là một trong “những người nhân danh Hà Nội”. Khác biệt ở chỗ ông hết lòng yêu nước và dũng cảm dám nói lên sự thật.
Ông nói đến nhiều vấn nạn to lớn của đất nước. Sau đây là vài thí dụ:
Xứ sở linh thiêng
sao thật lắm đình chùa làm kho hợp tác
đánh quả tù mù trấn lột cả thần linh
Giấy rách mất lề
tượng Phật khóc Ðức Tin lưu lạc
Thiện – Ác nhập nhằng
Công Lý nổi lênh phênh
tất cả trôi xuôi - cấm lội ngược dòng
Nhà phê bình Chu Văn Sơn, Tiến Sĩ Văn Chương của chế độ đã than vãn “Rồi yêu nước cũng phải có chỉ đạo nữa. Có phải thế không mà lòng yêu nước, nỗi đau đời lắm khi cứ phải nói chui như một thứ hàng lậu. Thiện chí bị nghi ngờ, thiện tâm bị cảnh giác. Lời tâm huyết bị kiểm duyệt, cắt xén sao cho hợp những cái khuôn cấm kỵ, lọt được những lỗ tai đông đặc nghi kỵ. (4)
- và thối nát:
quyền lực bày ra đấu giá trước công đường
Xứ sở từ bi sao thật lắm thứ ma
ma quái – ma cô – ma tà – ma mãnh…
Xứ sở thật thà
sao thật lắm thứ điếm
điếm biệt thự – điếm chợ – điếm vườn…
Ðiếm cấp thấp bán trôn nuôi miệng
điếm cấp cao bán miệng nuôi trôn
Vật giá tăng
vì hạ giá linh hồn
Xứ sở thông minh
sao thật lắm trẻ con thất học
lắm ngôi trường xơ xác đến tang thương
Tuổi thơ oằn vai mồ hôi nước mắt
tuổi thơ còng lưng xuống chiếc bơm xe đạp
tuổi thơ bay như lá ngã tư đường
Bịt mắt bắt dê đâu cũng đụng thần đồng
mở mắt… bóng nhân tài thất thểu
Ông hơn hẳn ĐTQ là đã chỉ ra mấy nguyên nhân, mà theo ông, đã gây ra những chứng bệnh quái ác kia:
1/ miếng quá độ nuốt vội vàng sống sít
Áp đặt quá hấp tấp “bước quá độ” của CNXH vào hoàn cảnh đất nước Việt Nam trong khi cơ sở vật chất còn chưa đủ lớn, đủ vững. Tôi suy ra rằng lúc ấy ông vẫn tin ở Chủ Nghĩa Cộng Sản nhưng trách những người lãnh đạo không đủ kiên nhẫn chờ đợi thời cơ chín mùi, thích hợp.
2/ mất vệ sinh bội thực tự hào
Sự thật hôn mê – ngộ độc ca ngợi
Tự hào vô lối, vô căn cứ đến độ “bội thực”, cả nước vỗ ngực ngợi ca mình, ngợi ca đảng, ngợi ca chế độ, ngợi ca nhau đến mức “ngộ độc ca ngợi”.
Trên lừa dưới, dưới lừa trên, cả nước lừa nhau để được sống “an lành”. Cụm từ “sự thật hôn mê” được dùng rất chính xác, rất đắt.
Ông không nhận ra được rằng, thật ra, bội thực tự hào, ngộ độc ca ngợi và sự thật hôn mê chính là con đẻ của CNXH – dù áp dụng ngay những năm 50s hay chờ đế mấy thập kỷ sau cũng thế thôi.
Nguyễn Duy viết NTXTQ với tâm thế của bên thắng cuộc (con cưng của chế độ, được đi du học ở Nga, đầu tàu của phong trào Xã Hội Chủ Nghĩa) nhưng ông - đã rất khéo - nhân danh một con dân VN yêu nước, nói tiếng nói chung cho cả dân tộc, tầm nhìn xa hơn, nhắm đến khối độc giả đông đảo hơn. Thêm vào đó, những vấn nạn ông đưa ra to lớn, nghiêm trọng hơn, “nỗi đau” của ông sâu nặng hơn, nhân bản hơn, lời trách móc của ông nhẹ nhàng nhưng nghiêm khắc hơn. Mỗi vấn nạn ông trình bày trước mắt độc giả - bằng thứ ngôn ngữ và hình tượng đặc biệt cộng với cảm xúc nóng bỏng trong tâm hồn – là một đoạn thơ trác tuyệt, vừa cụ thể, rõ ràng, sinh động vừa đầy tính nghệ thuật. Có thể nói mỗi vấn nạn là một yếu huyệt của cơ chế XHCN và ông đã đâm vào rất nhiều yếu huyệt như thế của chế độ nhưng – vì còn quá nhiều ràng buộc – ông không thể từ bỏ vị thế của mình. Người đọc đã từng có ít nhiều kinh nghiệm với chế độ rất dễ dàng thông cảm với ông. Tuy nhiên chính vì thế về phương diện tứ thơ, NTXTQ của ông phải đứng sau Bánh Vẽ của CLV một khoảng ngắn.
3/ Bánh Vẽ
Bài thơ có ý tứ sâu sắc là Bánh Vẽ của CLV. Tác giả chính là một trong “những người nhân danh Hà Nội” và đã thấy cội nguồn của vấn đề từ rất sớm. Nguyên nhân những vấn nạn của tổ quốc, theo ông, là việc áp đặt chế độ XHCN tên toàn cõi Việt Nam. Thiên đường mà cả dân tộc đang hướng đến chỉ là Bánh Vẽ. Và người đọc hiểu ngay cách chữa trị mà ông ngụ ý trong bài thơ: muốn không phải ăn Bánh Vẽ thì làm Bánh Thiệt mà ăn. Với ý tứ như thế Bánh Vẽ của CLV sẽ còn là cái gai, là một đối lực to lớn cho khối cán bộ làm công tác văn hóa tư tưởng và là mối đe dọa rất nặng nề, rất thật cho sự sống còn của chế độ.
Xếp Hạng Tứ Thơ
Trong 3 bài thơ phản kháng – nêu lên những vấn nạn của tổ quốc, dân tộc do hậu quả của việc áp đặt chế độ XHCN trên toàn cõi Viết Nam, xét về ý tứ, thì TLTS của ĐTQ yếu kém nhất. Những hiện tượng xã hội mà anh nêu lên để chửi vỗ mặt “những người nhân danh Hà Nội” thật ra chỉ là những cảnh đời ngang tai trái mắt của một giai đoạn chuyển tiếp - hậu quả của việc thay đổi chế độ từ dân chủ tự do sang độc tài chuyên chế. Những hiện tượng ấy sẽ dần dần đi vào lãng quên với bộn bề khó khăn của cuộc sống mới, không đáng gọi là vấn nạn của dân tộc.
Kế đến là NTXTQ của Nguyễn Duy. Ông đã chỉ ra được những vấn nạn lớn, chính yếu của chế độ nhưng nói đến nguyên nhân thì “cái thấy” của ông còn mù mờ cho nên khi bàn đến phương cách chữa trị thì ông ú ớ “biết thế nhưng mà biết làm thế nào”.
Bài thơ có ý tứ xuất sắc nhất là Bánh Vẽ của CLV. Ông đã thấy hết ngay từ đầu và qua bài thơ đã trình bày rất chính xác, rõ ràng và đầy nghệ thuật nguyên nhân và cách chữa trị những vấn nạn to lớn của đất nước. Phép ẩn dụ hoàn hảo đã tạo thêm nét duyên dáng cho tứ thơ vô cùng sâu sắc của ông.
Xếp hạng:
Hạng nhất: Bánh Vẽ.
Hạng nhì: Nhìn Từ Xa … Tổ Quốc.
Hạng ba: Tạ Lỗi Trường Sơn.
Kỹ Thuật Thơ
1/ Bánh Vẽ
Chế Lan Viên là một thi sĩ bậc thầy về kỹ thuật thơ nên Bánh Vẽ có hình thức gần như tối ưu, ngôn ngữ chắt lọc, hình tượng dễ cảm, ẩn dụ sắc sảo được thể hiện một cách hoàn hảo, thơ đầy chất trí tuệ
a/ Số câu không giới hạn.
b/ Số chữ trong câu tùy tiện.
c/ Vần: không quá nhạt, không quá ngọt, thoang thoảng rất vừa độ. Dòng chảy của thơ lững lờ, êm ả, thích hợp với tâm trạng buồn, cay đắng.
d/ Kỹ thuật thơ hoàn hảo
e/ Kết thúc không độc đáo, ấn tượng nhưng hợp lý, không lộ vẻ yếu kém.
f/ Bài thơ có 91 chữ - tương đối ngắn so với hai bài kia – nên việc chỉ huy đội quân chữ nghĩa dễ dàng hơn. Với tôi, đây là một chi tiết quan trọng để cân nhắc, xếp hạng Kỹ Thuật Thơ.
2/ Tạ Lỗi Trường Sơn
a/ Số câu không giới hạn. Viết cho đến khi hết hứng, hết ý thì thôi. Theo cách đếm câu của PĐN thì bài thơ dài xấp xỉ 100 câu.
b/ Số chữ trong câu: Câu ngắn nhất 2 chữ, câu dài nhất 18 chữ (Các anh cũng chạy bấn người đi lùng kiếm tủ lạnh ti vi, casette, radio...) còn lại thì tùy hứng, không tuân theo một luật lệ nào.
c/ Vần: Vần liên tiếp khá đều đặn nhưng nhờ số chữ trong câu thay đổi tùy tiện, thỉnh thoảng tác giả lại chuyển đoạn thay vần nên độ ngọt vừa phải, không có hội chứng nhàm chán vần mà dòng thơ vẫn chảy trơn tru, nhiều đoạn dòng chảy rất xiết.
d/ Kết thúc Trật bàn đạp, không nhất quán với tứ thơ, “lãng nhách”.
e/ Bài thơ dài (795 chữ) có nghĩa là ĐTQ chỉ huy đội quân chữ nghĩa đông hơn - gần gấp 9 lần Bánh Vẽ của CLV – trong một trận đánh lớn hơn, thế trận phức tạp hơn mà chỉ đến câu cuối cùng mới phạm một lỗi (về tứ thơ) nên xét về Kỹ Thuật Thơ thì – tuy chưa phải là toàn bích – TLTS nếu không ở phía trước thì cũng không thể xếp sau Bánh Vẽ được.
3/ Nhìn Từ Xa Tổ Quốc
a/ Số câu không giới hạn. Viết hết hứng, hết ý thì thôi.
b/ Số chữ trong câu tùy ý, tùy hứng, không có cảm giác bó buộc.
c/ Vần: vần liên tiếp kiểu Nhớ Rừng nhưng nhiều phá lệ khéo léo, hợp lý nên độ ngọt của thơ vừa phải, không có hội chứng “nhàm chán vần”. Nhiều bảng Stop phát sinh đo “đối thoại với cái bóng” khiến tốc độ, cường độ dòng chảy của tứ thơ không có hiệu ứng “sóng sau dồn sóng trước” ảnh hưởng đến sự lớn mạnh của hồn thơ.
d/ Kết thúc: gượng, yếu, không thuyết phục.
e/ Là bài thơ dài nhất (1105 chữ) nên tài điều binh khiển tướng trong đội quân chữ nghĩa của ND được đánh giá rất cao. Mặc dù NTXTQ có đến 2 khuyết điểm: một là kết thúc gượng, yếu, hai là nhiều bảng Stop, nhưng xét về Kỹ Thuật Thơ, theo tôi, ít nhất cũng phải xếp bài thơ ngang hảng với Bánh Vẽ và TLTS.
Xếp Hạng Kỹ Thuật Thơ
Đồng hạng nhất.
Cảm Xúc, Hơi Thơ, Hồn Thơ
a/ Tạ Lỗi Trường Sơn
Cảm xúc mạnh ngay từ tầng 1 – ngôn ngữ hằn học, nóng bỏng, hình tượng sống động. Thế trận chữ nghĩa khá chặt chẽ, vần liên tiếp nên tứ thơ tuôn chảy, cảm xúc ở tầng 2 mạnh. Đặc biệt là thi sĩ viết trong cơn điên tiết, lửa giận phừng phừng nên hơi thơ (hơi nóng của cảm xúc) tỏa ra rát bỏng, hồn thơ (thứ cảm xúc cao cấp nhất của thơ) tràn trề, lai láng. Được nghe hoặc đọc bài thơ này rất “đã”. Theo tôi, TLTS đã thắng - một cách rõ ràng - 2 bài thơ kia ở lãnh vực Hồn Thơ
b/ Nhìn Từ Xa Tổ Quốc
Cũng là người làm thơ, tôi có cảm giác Nguyễn Duy đang lên cơn điên – điên vì quá đau thương, điên vì quá giận dữ. Ông đã không đắn đo hơn thiệt, không biết sợ hãi, để mặc cho các con chữ tuôn ra. Cảm xúc từ mỗi chữ, mỗi câu tỏa ra nóng hổi. Ý này nối tiếp ý kia, vấn nạn sau nối tiếp vấn nạn trước, chảy xiết cứ như dòng sông vào mùa nước lũ.
Nhưng sao thật lạ! Ở những đoạn sau, cảm xúc từ mỗi câu thơ vẫn nóng như lửa, cơn điên của tác giả hình như vẫn chưa hạ, mà sao có một “cái gì đó”, một “lực nào đó” trì kéo lại, không cho tứ thơ chuyển động nhanh như trước. Tìm hiểu kỹ thì được biết chính sáng kiến “đối thoại với cái bóng” đã làm dòng chảy của tứ thơ không thông, ảnh hưởng đến sự lớn mạnh của hồn thơ. Cho nên, dù NTXTQ có hồn thơ khá mạnh, cũng phải xếp sau TLTS về tiêu chí Hồn Thơ tuy độ khác biệt chỉ khoảng một 10 một 8.
c/ Bánh Vẽ
Có thể nói trong Bánh Vẽ chất trí tuệ đặc biệt tỏa sáng. Trong tiến trình chế tạo bài thơ lý trí đóng vai trò chủ đạo; tác giả đã rất tỉnh táo, suy nghĩ chín chắn trước khi phóng bút. Vì thế bài thơ tuy thành công vượt bậc về kỹ thuật thơ - cảm xúc nội tại của bài thơ (ở tầng 1 và tầng 2 rất mạnh) - lại thiếu cái mà dân đọc thơ sành điệu thích nhất: hồn thơ. Bánh Vẽ đã thua rất xa hai bài thơ kia về tiêu chí Hồn Thơ.
Xếp hạng Hồn Thơ
Hạng nhất: Tạ Lỗi Trường Sơn
Hạng Nhì: Nhìn Từ Xa … Tổ Quốc
Hạng ba: Bánh Vẽ
XẾP HẠNG TỔNG KẾT
1/ Phẩm chất quý giá nhất của bài thơ, theo tôi, là Hồn Thơ. Vì thế tôi đọc TLTS của ĐTQ với rất nhiều hứng thú. Ngôn ngữ, hình tượng anh sử dụng trong thơ rất hợp với vai trò của một tay thợ chửi chuyên nghiệp. Anh chửi hay quá! Nghe đã quá! Tôi hình dung được khuôn mặt đang lên cơn điên của anh, cảm được nỗi bực tức của anh, cảm được hơi nóng – không phải từ con chữ - mà từ một chỗ vô hình nào đó trong bài thơ tỏa ra. Và cái luồng hơi nóng đó tuôn chảy thành dòng, càng về cuối bài thơ càng mạnh. Đó là cảm xúc ở tầng 3 - thứ cảm xúc cao cấp nhất của thơ – mà người thưởng thức thơ từ kha khá đến sành điệu sẽ cảm nhận được ngay. Đó chính là Hồn Thơ. Tôi đã định kéo bài thơ lên vị trí đầu bảng nhưng câu kết của anh đã làm tôi chới với và cụt hứng.
Tôi chợt nghĩ đến đội bóng mà mình yêu thích – có giàn cầu thủ rất hay cả về kỹ thuật cá nhân lẫn phối hợp toàn đội. Các cầu thủ đá hoàn toàn ngẫu hứng, lên xuống rất nhịp nhàng. Lấy được bóng từ tiền đạo đối phương dâng lên vượt qua hàng tiếp ứng và rồi rất nghệ thuật, vượt qua từng cầu thủ của hàng hậu vệ để đối diện với thủ thành. Cả cầu trường không một tiếng động; khán giả nín thở chời đợi. Rồi thủ thành cũng bị lừa ra, bỏ trống cầu môn; khán giả đứng dậy chuẩn bị vỗ tay vang dội chào đón bàn thắng của đội nhà. Đúng lúc ấy thì tiền đạo đang có bóng tung chân sút mạnh. Hình như anh không nhìn thấy cầu môn. Bóng vượt xà dọc ra ngoài … rất xa. Câu kết của TLTS chính là cú sút dứt điểm – mà không nhìn thấy cầu môn - của ĐTQ.
Sau cuộc họp thống nhất đất nước cuối năm 1975 một thời gian (5) MTGPMN đã bị - thẳng thừng và công khai - loại khỏi chính trường. Một số đông thấy mình bị phản bội đã ra mặt chống lại. Tùy theo mức độ chống đối, kẻ bị thủ tiêu, người xộ khám Chí Hòa, người bị quản thúc tại gia (đuổi gà cho vợ). Dân miền nam - đặc biệt là những người ăn cơm Quốc Gia mà lòng dạ lại gởi hết cho Cộng Sản - lúc ấy đã sáng mắt. Có người đã nghĩ ra một câu nói đùa rất thâm thúy: “Văn Vỉ đang lái Honda chạy khắp Sài Gòn” (6). Một người đọc TLTS đã viết cảm nhận: “Nhưng đọc hết bài, tiếc thay, Đỗ Trung Quân năm ấy, chỉ sáng có một con mắt” (7). Theo tôi, dựa vào tứ thơ - đặc biệt là câu kết – ĐTQ lúc viết bài thơ vẫn còn chưa sáng mắt.
Và thế là mặc dù hơi thơ nóng bỏng, hồn thơ lai láng, kỹ thuật thơ điêu luyện, tôi vẫn gạt TLTS qua một bên. Vị trí đầu bảng (của 3 bài thơ) vẫn còn bỏ trống.
2/ Qua Bánh Vẽ CLV tiết lộ là ông bìết XHCN chỉ là ảo tưởng ngay khi chấp nhận cùng hội cùng thuyền với những người cộng sản. Bài thơ có kỹ thuật thơ hoàn hảo, ẩn dụ tuyệt vời. Riêng ý tứ thì sâu sắc, biểu lộ một tầm nhìn hơn hẳn TLTS và NTXTQ – không những chỉ ra cội nguồn của những vấn nạn mà còn gián tiếp nói đến cách giải quyết vấn đề: “Muốn không phải ăn Bánh Vẽ thì làm Bánh Thiệt mà ăn.” Với những ưu điểm vượt trội như vậy Bánh Vẽ có thể xếp ở vị trí đầu bảng được lắm chứ. Tuy nhiên, bài thơ có một khuyết điểm lớn là được viết trong lúc quá tỉnh táo nên thiếu Chất Thơ, thiếu Hồn Thơ. Hơn nữa, nó chỉ là một bài thơ “ngắn”, thế trận chữ nghĩa chỉ ở cấp “thấp” so với tầm vóc của TLTS và NTXTQ. Chỉ huy một trận đánh chỉ có 91 binh sĩ chắc chắn dễ dàng tránh sơ xuất hơn trận đánh có 795 (TLTS) hay 1105 (NTXTQ) binh sĩ tham chiến. Chính vì thế tôi đã không chọn Bánh Vẽ và, vị trí đầu bảng trong 3 bài thơ, một lần nữa, vẫn được bỏ trống.
3/ Về tứ thơ NTXTQ đã trình bày được - rất thật, rất sinh động - những vấn nạn của tổ quốc. Nguyên nhân của chúng, theo ông là “miếng quá độ nuốt vội vàng sống sít” và:
mất vệ sinh bội thực tự hào
Sự thật hôn mê – ngộ độc ca ngợi
Ông chưa nhận ra rằng tất cả những căn nguyên ông nêu lên ở trên đều do cơ chế XHCN mà ra cả. Ông viết NTXTQ đang lúc cao hứng tột độ như người lên cơn điên nên cảm xúc ở cả 3 tầng đều mạnh; ở vài đoạn đầu của phần Vấn Nạn hơi thơ nóng hổi. Nhưng càng về sau do phân tâm “đối thoại với cái bóng”, dòng cảm xúc bị ngăn lại bởi những bảng Stop nên Hồn Thơ không có trớn để đạt tới tốc độ và cường độ lẽ ra còn cao hơn nữa. Về kỹ thuật thơ, ông như một vị tướng tài, chỉ huy đại quân trong một trận đánh lớn và đã thành công về nhiều mặt. Tuy nhiên, do tầm nhìn chưa thấu đáo ở tứ thơ và đoạn kết gượng gạo, thiếu thuyết phục nên tôi đã không xếp NTXTQ vào vị trí đầu bảng của 3 bài thơ.
Và bảng xếp hạng sau cùng sẽ là: Cả Ba Đồng Hạng Nhất.
KẾT LUẬN
Kết quả bình chọn đã xong, tôi đã hoàn thành nhiệm vụ và bài viết lẽ ra đã kết thúc. Nhưng khi chuẩn bị ký tên (ở cuối bài) rồi tắt computer đi ngủ đầu óc tôi cứ nghĩ đến cảnh tượng Nguyễn Duy ngồi trong nhà phập phồng lo sợ khi thấy “người lạ” lảng vảng ở trước sân mà thương cảm cho nhà thơ. Từ thương cảm đến nể phục cái anh hùng bất khuất của kẻ sĩ. Và tôi lại nghĩ đến bài thơ của ông. Lý trí của một người bình thơ bắt tôi phải công tâm khi bình chọn và kết quả bình chọn đã minh bạch. Nhưng trong lòng tôi – có hình ảnh của ND - vị trí của NTXTQ hình như cao hơn hai bài thơ kia một tý. Tôi biết như thế là thiên vị - là một tính xấu, nhưng biết làm thế nào được. Chỉ mong độc giả thông cảm cho cái tính xấu này của tôi. Bởi vì Thơ và con người của Thi Sĩ đâu phải lúc nào cũng hoàn toàn tách biệt.
Phạm Đức Nhì
nhidpham@gmail.com
Blog: phamnhibinhtho.blogspot.com
CHÚ THÍCH:
1/ http://hatranghn.blogtiengviet.net/2013/05/15/bani_thai_nhann_tarl_xa_tar_quar_c_carsa
2/ Trước khi vào nam (1975) dân miền bắc phải học tập để biết rằng những sự phát triển và vẻ đẹp của Sài Gòn, của miền nam, những tiện nghi vật chất của người dân chỉ là “phồn vinh giả tạo”
3/ Tên khác của Sài Gòn được người ngoại quốc gọi một cách nể trọng.
4/ https://ngominhblog.wordpress.com/2015/02/26/nhin-tu-xa-to-quoc-tieng-tho-quan-quai-bi-hung/
5/ Từ ngày 15 đến ngày 21 tháng 11 năm 1975, Hội nghị Hiệp thương chính trị thống nhất Tổ quốc đã được tổ chức tại Sài Gòn. Đồng chí Trường Chinh - Trưởng đoàn Đại biểu miền Bắc và đồng chí Phạm Hùng - Trưởng đoàn Đại biểu miền Nam thống nhất ký vào ngày 21 tháng 11 năm 1975. http://www.archives.gov.vn/Pages/Tin%20chi%20ti%E1%BA%BFt.aspx?itemid=432&listId=c2d480fb-e285-4961-b9cd-b018b58b22d0&ws=content
6/ Một nhạc sĩ cổ nhạc nổi tiếng, bị mù cả hai mắt ở Sài Gòn.
7/ https://hoangdaiduong.wordpress.com/2009/10/18/c%E1%BA%A3m-nghi-d%E1%BB%8Dc-th%C6%A1-t%E1%BA%A1-l%E1%BB%97i-v%E1%BB%9Bi-tr%C6%B0%E1%BB%9Dng-s%C6%A1n-c%E1%BB%A7a-d%E1%BB%97-trung-quan/