Nhớ đất miền Tây
* Ðể tưởng nhớ bậc tiền nhân Phan
Thanh Giản, cùng để tưởng niệm các
vị tướng anh hùng Nguyễn Khoa
Nam, Lê văn Hung, Lê Nguyên Vỹ,
Trần Văn Hai,
Hồ Ngọc Cẩn và tất cả các chiến sĩ
VNCH đã tự sát dưới cờ để giữ tròn
khí tiết trong ngày 30-4-1975.
Nhớ đất Long Hồ những ngày lịch sử,
Nhớ đất Hậu Giang, nhớ lúc tan hàng
Gương anh hùng đã hy sinh tuẩn tiết
Ðể cứu đồng bào thoát cảnh thương tang
Ba tỉnh Miền Tây trong thời chống Pháp
Gương tiền nhân Phan Thanh Giản còn đây
Thà tuẩn tiết để bảo toàn sĩ khí
Giao Vĩnh Long cùng mấy tỉnh Miền Tây
Gương hy sinh ngày xưa nay còn đó
Lịch sử quay vòng diễn lại đau thương
Ôi tháng Tư Ðen ngày Ba Mươi đó!
Ðất Cần Thơ tái diển chuyện đau lòng
Cùng đất Miền Tây, nơi Quân Ðoàn Bốn
Gương anh hùng tuẩn tiết Nguyễn Khoa Nam
Nơi Long Hồ ngày xưa Phan Thanh Giản
Nay Cần Thơ lại có Nguyễn Khoa Nam
Cùng có Lê Văn Hưng, Hồ Ngọc Cẩn
Ðã giữ tròn khí tiết thật anh hùng
Nêu gương hy sinh đáp đền nợ nước,
Chọn chết dưới cờ Tổ Quốc Quê Hương.
Ôi đất Miền Tây, những ngày tang khó
Ðể lại lòng người- tưởng nhớ ơn Anh
Công đức hy sinh bao người ngã xuống
Lịch sử đời đời, hậu thế lưu danh,
Giờ xa quê hương, nơi miền đất lạ
Nhớ đất Cần Thơ, nhớ lại ngày nào
Nhớ đến bạn bè dưới cờ tự sát
Tủi nhục tan hàng tràn ngập đớn đau
Ôn lại ngày qua lòng đau ruột thắt
Lịch sử cổ kim bao chuyện nát lòng
Sông nước Miền Tây giờ này trôi giạt
Nhớ đến quê hương ta phải chạnh lòng
Phạm Thành Tính
**
Nỗi niềm
* Kính tặng những người chiến sĩ VNCH
đang tị nạn trên vùng Ðông Bắc Hoa Kỳ
Anh đến nơi này miền Ðông Bắc Mỹ,
Trời Boston tuyết đổ lạnh đêm buồn.
Chốn tha hương cuối đời, khi vận bĩ,
Thân đã già tóc đã ngã màu sương..
Ðoạn đường đời đến đây là đoạn cuối ?
Hay phải còn trôi nổi đến phương nào ?
Làm sao biết, ngày về quê hương nhỉ !
Hay phải chờ đất tổ đổi thay màu.
Ngày lớn khôn , anh đi vào cuộc chiến
Theo cuộc đời chinh chiến giữ quê hương
Bao mộng ước đã tàn theo binh biến
Ðành giả từ vũ khí biệt quê hương
Năm tháng đó quê nghèo đầy tang tóc
Khóc quê nhà nỗi hận vẫn chưa nguôi
Máu tim anh đang mang sầu vong quốc
Cứ trào dâng trong huyết quản hận đời
Quay nhìn lại quảng đường xa lận đận
Anh ngậm ngùi, dừng lại ở phương này
Hồi tưởng lại những ngày đau tủi hận
Một thời qua là một kiếp lưu đày
Thời lao lý, những năm tù đất Bắc
Từ Nam Hà, Thanh Hóa, Hoàng Liên Sơn.
Những địa danh đi vào trang lệ sử
Mỗi lần nghe sôi sục chữ câm hờn
Anh đến định cư vùng Ðông Bắc Mỹ
Mùa tuyết rơi phủ trắng cả khung trời
Nhìn tương lai mịt mù xa vạn kỷ
Anh thấy đau thương ôn lại quảng đời
Anh ở nơi này năm chờ tháng đợi
Những mùa đông buốt giá nhói tim anh
Con đường đạo nghĩa tìm chưa ra lối
Còn lại chút tình huynh đệ chi binh
Từ khi anh tạm trú vùng Ðông Bắc
Ðất tạm dung chấp nhận để nương nhờ
Vui sống những ngày quê người đất khách
Tịnh dưỡng tinh thần với những vần thơ
Làm sao dịu, nỗi đau nơi trần thế
Biết nhắn gửi cùng ai, hởi đất trời
Ðã quyết dấn thân , cuộc đời bốn bể
Có sá gì đâu , một kiếp nỗi trôi . . .
Phạm Thành Tính
Trần Bình Trọng :
Người anh hùng bất diệt
• Ðể tưởng niệm đấng tiền nhân và các chiến sĩ VNCH
đã tuẩn tiết trong ngày 30/4/75.
Trần Bình Trọng, người anh hùng bất diệt
Gương người xưa oanh liệt vẫn còn đây
Khiến lòng ta đau, nhớ lại những ngày
Ba Mươi Tháng Tư, ngày buồn hận sử
Ngày miền Nam, bị ngoại bang bức tử,
Nhưng miền Nam vẫn có những anh hùng
Thề hi sinh tuẩn tiết, rất oai hùng
Ðã theo gương người xưa, Trần Bình Trọng
Không mãi quốc để cầu vinh tham sống
Hoặc mưu cầu vì lợi ích riêng tư
Không qui hàng, không quì lụy kẻ thù
Thà tự sát, không tham sinh húy tử
Trần Bình Trọng, ngàn đời lưu trang sử
Con cháu noi gương, nghĩa cử anh hùng
Nguyễn Khoa Nam cùng với Lê Văn Hưng
Trần Văn Hai cùng với Lê Nguyên Vỹ
Khi quê hương lâm vào cơn vận bĩ
Quân Tàu ngày xưa xâm chiếm nước Nam
Cộng sản ngày nay chiếm đoạt miền Nam
Không theo giặc thà hi sinh tự sát
Tổ tiên ta xưa đã từng Sát Ðát
Con cháu ngày nay Sát Cộng chung lòng
Không hổ danh là con cháu Lạc Hồng
Vì đại nghĩa chống hung tàn bạo ngược
Trần Bình Trọng, anh hùng ngàn thu trước
Dù sa cơ lâm phải bước đường cùng
Vẫn hiên ngang đầy khí phách anh hùng
Không khuất phục trước kẻ thù phương Bắc
Vì Tổ Quốc, giữ một lòng son sắt
Khí khái trả lời trước mặt Thoát Hoan,
Ta dù chết , thà làm quỉ nước Nam,
Còn hơn sống, để làm vương đất Bắc
Gương trung dũng vẫn còn ghi sử sách
Bằng tấm lòng son sắt với quê hương
Như ngọn hải đăng , hậu thế soi đường
Gương tuẩn tiết, sẽ muôn đời bất diệt
Nhưng ngày nay, dân ta đang rên siết
Tại vì ai mà Tổ Quốc phải lâm nguy
Chủ nghĩa nào làm dân Việt chia lìa
Ôm tủi nhục, Việt Nam giờ nô lệ !
Lịch sử nghìn năm qua bao thế hệ
Chống kẻ thù phương Bắc hận còn vương
Phút huy hoàng cũng có lúc đau thương
Gương anh hùng, vẫn muôn đời bất diệt
Phạm Thành Tính
**
Những giọt dầu biển Ðông
Tôi chưa từng đi khắp vùng biển Ðông
Cũng chưa biết hết dưới thềm lục địa
Nhưng biết, nơi nào lảnh hải lảnh địa
Và đã biết những nơi có giếng dầu
Việt Nam, Việt Nam ơi ! Bởi vì đâu ?
Quê hương này khổ đau vì biến động
Ðến giờ này biển Ðông còn dậy sóng
Dân Việt Nam còn khổ đến bao giờ ?
Ôi ! Giọt dầu thô, giếng dầu Bạch Hổ,
Bọn Liên Xô bòn rút mấy năm liền
Làm quê nghèo thêm tủi nhục triền miên
Do Tình hữu nghị Việt Xô thắm thiết ?
Suốt ba mươi năm chiến tranh khốc liệt
Thày Liên Xô dạy bảo đoạt miền Nam
Dùng ngôn từ Thống nhất giang san
Làm máu và dầu Việt Nam tuôn đổ
Cũng vì Liên Xô dân ta đau khổ
Ðất nươc điêu linh lạc hậu kéo dài
Khư khư trung thành tà thuyết ngoại lai
Giọt dầu biển Ðông ? Niềm đau vô kể !
Cũng vì giọt dầu, giành nhau xâu xé
Ðáng cười thay ỏõ Tình hữu nghị Việt Tàu ?
Lịch sử nghìn năm nô lệ còn đau ?
Vì theo Nga Tàu làm nghèo Tổ Quốc !
Tay sai Nga Tàu, hung tàn bạo ngược
Lừa gạt lương dân , bóc lột đồng bào
Trường Sơn ngập máu, biển Ðông ngập sầu
Uổng công nhất, trò Cứu nước đánh Mỹ?
Gia tài đất nước hàng bao thế kỷ
Cộng sản đem dâng bán cho ngoại nhân
Giọt dầu biển Ðông! Giọt máu của toàn dân !
Chúng vơ vét, cùng chia phân từng mảnh
Giọt dầu biển Ðông , giọt dầu lóng lánh
Biết bao giờ Việt Nam hết đói nghèo,
Hết tham tàn lạc hậu hận thù gieo ?
Ðể dân Việt không còn chia năm xẻ bảy..
Giọt dầu biển Ðông dâng tràn lảnh hải
Khiến quân Tàu chiếm đoạt mất Hoàng Sa
Làm biển Ðông máu Việt đổ chan hòa
Tình hữu nghị trở thành quân cướp nước
Bè lũ gian tham hung tàn bạo ngược
Hết bám Liên Xô, nô lệ bọn Tàu
Cầu lụy Mỹ, để áp bức đồng bào
Dân oan khiếu kiện không còn đất sống
Vì giọt dầu thô, biển Ðông dậy sóng
Máu Việt Nam sẽ chảy đến bao giờ?
Tà thuyết ngoại lai vẫn mãi tôn thờ!
Nô lệ Nga Tàu khi nào mới dứt ?
Phạm Thành Tính
**
Buổi Trưa Ở Quê Người
Ði làm về lúc buổi trưa
Vào ngày thứ bảy không mưa đẹp trời
Quê người buồn lắm người ơi
Dù là thứ bảy đẹp trời, trời xanh
Nhưng sao tình quá mong manh
Suốt ngày lam lũ sao thành nợ duyên
Trời xanh lặng gió ngoài hiên
Tìm đâu tri kỷ tỏ niềm ước mơ
Ði làm về lúc buổi trưa
Vào ngày thứ bảy trời mưa thật buồn
Mưa bay mờ nhạt phố phường
Nhìn trời u ám chán chường vì đâu
Ði làm quên chuyện buồn đau
Ở nhà lại nghĩ chuyện sầu thời qua
Tạm dung ở xứ người ta
Mỗi lần nhớ đến quê nhà lòng đau
Ði làm đở nhớ đở sầu
Mỗi lần thứ bảy bắt đầu nhớ mong
Trưa về nhiều lúc trống không
Mệt nhoài giấc ngủ, nhớ nhung dịu dần
Nhiều khi nhớ chuyện xa gần
Nhớ ngày vượt biển bao lần xác xơ
Nỗi đau còn sợ đến giờ
Như cơn ác mộng đến giờ chưa nguôi
Buổi trưa xứ lạ quê người
Nghe như khắc khoải cuộc đời ly hương.
Buổi trưa xứ lạ cũng buồn
Ngậm ngùi nhớ lại nổi hờn năm xưa
Ði làm về lúc buổi trưa
Dù ngày thứ bảy không mưa cũng buồn./
Phạm Thành Tính
*
Ðêm Bằng Hữu
• Mến tặng nhà thơ Dư Mỹ và nhà thơ
Phan Xuân Sinh để kỷ niệm đêm hội
ngộ và ra mắt tập thơ Chén Rựơu Mời Người,
tại South Boston, tiểu bang Massachusetts.
Nâng chén tương phùng, mừng đêm hội ngộ,
Chén Rượu Mời Người ( 1 ),
chén rượu quê hương
Vui tình bằng hữu keo sơn gắn bó
Chén rượu tràn đầy ý nghĩa yêu thương
Gặp lại nhau sau những năm dài tơi tả
Nhìn thấy nhau sao nước mắt lưng tròng
Tay bắt mặt mừng niềm vui khó tả
Nhấp chén tâm giao cũng đủ ấm lòng
Ðọc thơ anh, nhớ ngày buồn đen tối
Ôi những ngày di tản khỏi miền Trung
Cảnh bạn chết sau cùng nơi trận cuối
Cảnh người còn đều đói khổ long đong
Ba mươi năm đời men cay chén đắng
Khóc bạn bè chết đáy biển đầu non
Còn thân ta trong lao tù khổ hận
Lòng tiếc thương cho kẻ mất người còn
Sao muốn thét cho vở tan lồng ngực
Quan tướng nào hò hét trước quân dân ?
Ðến phút cuối chiến trường sao vắng mặt ?
Bỏ lại đàn em tháo chạy thoát thân.
Quê hương ngày nào vào tay Hạng Võ,
Họ chiếm Sài Gòn tựa chiếm Hàm Dương
Ôi tan tác dưới một thời bạo chúa
Ðến giờ này cũng vẫn thấy đau thương
Còn sống sót mang niềm đau vô kể
Trận chiến ngày nào hiến máu hiến thân
Anh đã bỏ lại một phần than thể
Cống hiến cho đời tất cả nghĩa nhân
Thương về xứ Quảng nơi quê anh đó
Phố Hội ngày xưa qua nẽo chùa Cầu
Anh nhớ tên đường, từng nơi từng chổ
Nhớ bãi Kim Bồng lòng thấy nao nao
Gặp lại hôm nay giữa thành phố Mỹ
Chén rựợu anh mời tri kỷ tình thâm
Chén tạc chén thù dâng tràn hào khí
Như tiếng reo mừng rộn giữa ba quân
Nỗi vui này biết làm sao kể hết
Nghĩa đệ huynh tình chiến hữu luôn còn
Tình bằng hữu vẫn đậm đà thắm thiết
Chén Rựợu Mời Người , tràn ngập mến
thương/
Phạm Thành Tính
(1) Chén Rượu Mời Người, tên tập thơ
của nhà thơ Dư Mỹ và nhà thơ Phan Xuân Sinh viết chung.
**
Trăng sáng mùa xuân
Trăng đã lên, trăng tròn, trăng đẹp lắm !.
Trên đỉnh đồi ngồi ngắm một vầng trăng
Gió thổi nhẹ cây rừng như rung động
Cả trần gian đang phủ ánh trăng rằm
Giữa mùa xuân có hương hoa thơm ngát
Khắp cả núi đồi như trải thảm trăng
Hồn lâng lâng theo suơng đêm gió mát
Nhìn hoa rừng mà cứ tưởng hoa trăng
Trăng và đất một màu trăng ngà ngọc
Trăng sáng soi vằng văc giữa không gian
Trăng tỏa sáng bao trùm lên vũ trụ
Chỉ nơi đây sáng rực ánh trăng vàng
Nhìn cây rừng đi quanh theo khe suối
Ánh trăng xuân bàng bạc trắng đồi nương
Có đôi lúc vầng mây che trăng khuất
Làm bóng trăng mờ nhạt giữa mù sương
Cõi trần ai, muôn loài hay biến đổi
Như vầng trăng khi khuyết lại khi đầy
Như đời ta có lúc vinh lúc nhục
Có lúc đau thương, lâm cảnh tù đày
Nhìn trăng hôm nay, nhớ trăng quê cũ
Ðất tạm dung còn thấy được vầng trăng
Trăng cảnh ngục tù , trăng không sáng đủ,
Ánh trăng rằm quê cũ có còn chăng ?
Trăng xứ người, cũng là trăng viễn xứ
Trăng đêm nay soi thấu kẻ xa quê
Trăng sẽ tàn, xuân đi, đời lữ thứ
Chạnh nhớ quê xưa lòng chẳng muốn về
Biết bao kẻ theo trăng về cố thổ
Mơ theo trăng không thấy vạn niềm đau
Nhớ khúc ca:- Trăng Tàn Trên Hè Phố
Bạn bè xưa sống chết ở phương nào ?
Trăng đêm nay giữa núi đồi trăng sáng
Nhớ chuyện buồn năm cũ vẫn chưa khuây
Nhìn lại tuổi xuân , mái đầu bạc trắng
Dù trăng tàn, ta vẫn ở phương này./
Phạm Thành Tính
**
Viết Bài Thơ Tết
Năm nay anh viết bài thơ Tết
Mượn sắc mai vàng ướp chất thơ
Ðem những cành đào đang chớm nụ
Ðiểm tô cho đẹp những vần thơ
Bài thơ anh viết nặng xuân tình
Không viết như thời thuở chiến chinh
Ý đượm hương yêu tình ủy mị
Quên rồi thảm cảnh lúc đao binh
Anh viết vần thơ đượm sắc yêu
Lời thơ diễm tuyệt quá yêu kiều
Tô nét mỹ miều nàng tiên nữ
Thơ toàn ấp ủ chuyện tình yêu
Bài thơ anh viết gửi cho ai ?
Có gửi bà con cảnh đọa đày
Dân oan khiếu kiện còn đang khổ
Bao cảnh tù nhân bị khổ sai
Anh viết bài thơ đủ sắc màu
Quên rồi quên cả chuyện thương đau
Vượt biên vượt biển giờ quên hết
Quên cả thù cha máu lệ trào
Anh viết vần thơ, viết những gì ?
Quên rồi quá khứ cảnh phân ly
Phấn son che lấp đời ô nhục
Quên ngày tị nạn lúc ra đi
Năm nay anh viết bài thơ Tết
Còn nhớ cờ xưa đậm sắc vàng
Quê cũ cờ hồng đang nhuộm máu
Về làng áo gấm chắc vinh quang ?
Anh nhớ viết dùm chọn những câu
Tim anh còn máu, máu xưa đâu
Vì đâu ? Anh đã thay màu máu
Vết thương tị nạn chắc lành sao ?
Năm nay anh viết bài thơ Tết
Kính chúc bà con ở xứ người
Xin chớ vội quên đời tị nạn
Hận ngày vượt biển chắc nguôi rồi?
Phạm Thành Tính
Ngày Xuân Tôi Ði Lễ Chùa
* Kỷ niệm ngày Tết đi lễ ở Liên Hoa Tự,
San Antonio , Texas
Ngày xuân tôi đi lễ chùa
Gặp ngày giá lạnh , lại mưa dầm dề
Tiếng chuông làm tỉnh cơn mê
Sân chùa rộn rịp, bốn bề rình rang
Cửa chùa nghi ngút khói nhang
Tiếng chuông tiếng mõ rộn ràng ngày xuân
Thêm vào tiếng nhạc tưng bừng
Tiếng đàn nhạc hội, tưởng chừng chốn ca
Thiện nam tín nữ gần xa
Xin xâm, khấn nguyện đậm đà khí thiêng
Trống đoàn lân múa vang rền
Giật mình mới biết ta lên lễ chùa
Thấy tăng còn trẻ đón đưa
Mưa bay làm ướt te tua áo chàm
Lễ xong, mỏ dứt, chuông tan
Chim đàn ríu rít kêu vang phía rừng
Không còn hương khói tưng bừng
Kẻ về, người ở, nợ trần vẫn mang
Lễ chùa giữa tiết xuân sang
Cảnh chùa nhộn nhịp lòng càng quạnh hiu
Tiếng chuông tiếng mõ ban chiều
Nghe như tỉnh lặng, đìu hiu kiếp người./
Tết, 2009
Phạm Thành Tính
**
Nỗi buồn ly hương
( Viết thể thơ bình thanh )
Ta nhìn đàn chim bay lưng trời
Xa quê nghe lòng như chơi vơi
Ðàn chim đang bay, bay đi tìm
Tìm nơi nương thân miền xa xôi
Ta giờ ly hương bao năm rồi
Buồn đau tình ta chia đôi nơi
Cho dù xa quê bao lâu rồi
Còn nghe hờn đau sao chưa nguôi
Quê nhà còn đau, còn xa nhau
Tim ai làm sao mà không đau
Tha hương lòng vương bao ưu phiền
Thương nhà thương quê lòng nao nao
Hằng đêm lòng ta mơ đi về
Cần Thơ thời xưa thời hoa niên
Hương đồng , hương quê sao êm đềm
Lòng ta còn ghi làm sao quên
Nhưng giờ quê xưa nghìn trùng xa
Còn bao đau thương nơi quê nhà
Dân ta còn đau còn chia xa
Niềm đau ngày nao chưa phôi pha
Lòng ta còn đau qua bao ngày
Xa quê từ lâu còn chua cay
Niềm đau năm xưa còn đâu đây
Tâm tư còn vương hờn chưa phai
Vì ai ? Vì sao ? Ta ly hương ?
Lòng người còn mang nhiều đau thương
Ngồi ôn ngày qua nghe căm hờn
Vì ai ? Vì ai ? Ta ly hương ?
Phạm Thành Tính
*
Những Dòng Sông Quê Hương
Quê hương có được mấy dòng sông
Mà đem nhuộm đỏ tựa sông Hồng
Bao năm lữa loạn còn vương khói
Còn khúc sông nào?- Nước được trong?
Bến Hải Sông Granh đã một thời
Ðoạn đành chia đất nước làm đôi!
Nồi da xáo thịt xương thành núi,
Còn khúc sông nào?- Không máu rơi?
Việt Nam, con cháu giống Tiên Rồng?
Tổ tiên trưyền lại đất Thăng Long?
Ngày nay chẳng thấy vua Hùng nữa!
Chỉ có Lênin với ngọn cờ hồng!
Nữa phần thế kỷ đã trôi qua
Tưởng đâu đẹp đẻ khúc sông Ðà
Trị An đập nước còn han rỉ?
Có đến xem rồi mới xót xa!
Thương về Vỹ Da nhớ quê hương
Còn đâu nét đẹp nước sông Hương
Huế đô thành quách giờ loang lỗ
Nghe đau quốc sử dậy căm hờn
Ðồng Nai một thuở rất kiên cường
Trận cuối năm nào thật thảm thương
Sông nước Ðồng Nai giờ cũng đỏ
Nơi đây có khác một Hồ Trường
Cữu Long sông bến thật êm đềm
Một thời binh lữa dậy phong yên
Phù sa lại đậm thêm màu máu
Thuyền nhân vượt biển hận chưa quên
Mỗi khúc sông là một chứng nhân
Nghe qua trang sử biết bao lần
Dòng sông vẫn chảy vào thương hận
Ruột mềm máu chảy khổ lương dân
Quê hương! -Thương quá mấy dòng sông
Mỗi lần nhắc lại khóc trong lòng
Màu xanh cuả nước không còn nữa
Máu đem nhuộm đỏ khắp non song
Phạm Thành Tính
**
Sông Nước Ðồng Nai
Nhà Bè nước chảy chia hai
Ai về Gia Ðịnh, Ðồng Nai thì về ..
( Ca Dao )
Sông nước Ðồng Nai chảy về hai ngã
Ngã vào Sài Gòn, ngã rẻ Ðồng Nai
Ai về Biên Hòa, ngang qua xứ bưởi
Còn nhớ Cầu Ghềnh , Châu Thới, Hố Nai. ?
Dù sông Nhà Bè có chia hai ngả
Sông nước Ðồng Nai vẫn chảy chung lòng
Dòng sông chảy đổ xuôi ra biển cả
Ðầy tình quê hương tha thiết mặn nồng
Sông nước Ðồng Nai ngàn đời vẫn chảy
Nước đổ từ nguồn tận đỉnh Lang Biang
Vượt qua thác ghềnh, núi rừng Bảo Lộc
Ðổ về bình nguyên Sông Bé, Trị An
Núi Châu Thới vẫn hiên ngang còn đó
Xa lộ Biên Hòa, đường rộng thênh thang
Con đường đó con đường vào trận cuối
Chiến tích đau thương, cảnh tượng tan hàng
Sông nước Ðồng Nai ngàn đời vẫn đổ
Nhưng phố Sài Gòn đổi chủ thay tên
Khiến dân Sài Gòn, lâm vào khốn khổ
Tháng Tư Ðen ngày đó, khó lòng quên
Ai về Biên Hòa , ngang qua xa lộ
Còn nhớ nơi này có một nghĩa trang
Cũng do oán thù nhẩn tâm phá nát
Ðến kẻ chết rồi chẳng được nằm yên
Sông nước Ðồng Nai, nơi nhiều kỷ niệm
Ðất Biên Hòa, xứ bưởi ổi bưởi thanh
Ðập nước Trị An, trại tù Suối Máu ,
Nhớ Dĩ An và nhớ cả Long Thành
Xa cách Ðồng Nai gần ba thập kỷ
Trôi theo dòng đời vận nước biển dâu
Nhớ cảnh quê hương, lúc thời vận bĩ
Ðành bỏ mà đi ruột thắt gan bào
Sông với núi quê nhà ta ở đó
Bến Nghé Sài Gòn, bến nước Ðồng Nai
Có núi Bữu Long, Bình An, Châu Thới
Nhớ Tháng Tư Ðen ngấn lệ tuôn dài.
Phạm Thành Tính
**
Ðường Xưa Lối Cũ
* Kính tặng các chiến hữu Công Binh QLVNCH.
Kinh tặng các chiến hữu thuộc TÐ 61
Công Binh Kiến Tạo và TÐ 203
Công Binh Chiến Ðấu đã canh tân
QL20 đoạn Ðà Lạt Bảo Lộc.
Năm tháng đó ta xây đường Quốc Lộ.
Nẽo đường xưa còn ấp ủ đến bây giờ.
Con đường đó, con dường xưa lối cũ,
Từ Ðà Lạt- Bảo Lộc , một trời thơ
Tháng Tư đó, ta xa con đường đó !
Ta cam lòng bỏ dở nữa đường đi,
Ôm uất hận sầu vương lên cố thổ,
Dù khổ đau đành buộc phải phân ly.
Con đường đó con đường vào trận cuối,
Ngày ta đi đến đó bị tan hàng.
Tháng Tư đó ! Ngày Ba Mươi Ðen Tối !
Thân mang tù đày cửa nát nhà tan.
Ðèo Bảo Lộc nay còn hay đã mất
Ðường quanh co khúc khuỷu lộ 20 ( Quốc Lộ 20 )
Vượt bao núi đồi vượt bao ghềnh thác
Nẽo đường xưa.. Ôi thương tiếc ngậm ngùi
Con đường đó vào trường xưa Dà Lạt
Khúc quân hành vang dội đỉnh Lang Biang
Hình ảnh cũ vẫn còn chưa phai nhạt
Kỷ niệm thờI trai thương nhớ dâng tràn
Con đường đó, con đường đầy đạo nghĩa
Cùng đồng bào chia sẽ một thời qua
Tình nghĩa mặn nồng Quân Dân thắm thiết
Ân tình này ghi chặt giữa lòng ta
Vẫn thương hoài những ngày trên Quốc Lộ
Nhớ đèo Bảo Lộc, nhớ phố Di Linh
Dù đời ta ôm mang nhiều thống khổ
Vẫn một đời, một đạo vững niềm tin
Con đường đó ta xây từng mảnh đá
Ðể giúp cho đời có lối đi êm
Giữa lúc quê hương ngập tràn khói lữa
Hình ảnh này đau xót cả con tim
Ta vẫn nhớ và vẫn thương mãi mãi
Sẽ có ngày về đất tổ quê cha
Dù hôm nay còn lắm điều oan trái
Sống cảnh lưu vong xa nước xa nhà
Ước nguyện ngày nào quay về chốn cũ
Tiếp tục con đường bỏ dở năm xưa
Thăm lại núi rừng thăm trường Võ Bị
Kỷ niệm thời trai tiếc nhớ vô bờ.
Phạm Thành Tính
**
Những ngày nơi đất Quảng
Lâu lắm không về thăm xứ Quảng
Bạn bè ở đó có còn không?
Những ngày nước loạn lo di tản,
Không còn về lại đất Miền Trung,
Ngày xưa tôi đến khu Nam Ngãi,
Làm đường Mộ Ðức đến KonTum,
Gian lao xẻ núi xuyên rừng rú,
Vượt đèo vào tận đến Vicklum (1)
Quay về quốc lộ vùng duyên hải,
Ði từ Quảng Tín đến Bồng Sơn,
Tôi làm cầu nổi sông Trà khúc,
Ðể vào Bình Ðịnh với Qui Nhơn.
Tôi nhớ những ngày vào Ðại Lộc,
Vào sâu rừng núi Bến Hiên- Giàng,
Ði qua rừng quế vùng Khâm Ðức,
Ðường vào ARó quá gian nan!
Dọc phía núi rừng vùng đất Quảng,
Tôi đi xuyên suốt dọc Trường Sơn,
Nhớ ngày gian khổ nơi rừng núi,
Ðến vùng than đá- mõ Nông Sơn.
Những ngày xây lại vùng Nam Ngải
Xây cầu Vĩnh Ðiện với Thu Bồn
Nhịp cầu nối lại bao tình nghĩa
Con đường đất nước nặng yêu thương
Quảng Ngải đến giờ tôi vẫn nhớ
Kẹo gương đặc sản ở quê này
Ðường phổi hương quê mùi mật mía
Còn thương xứ Quảng đến ngày nay
Ðất Quảng trong lòng tôi mãi nhớ
Những ngày kỷ niệm ở Chu Lai
Bây giờ xứ Quảng còn thương khó
Nhớ lại đau lòng lẫn đắng cay
(1995)
Phạm Thành Tính
(1) Vicklum: tên một buôn Thượng ở sâu
giữa rừng vùng đất Kon Tum và Quảng
Ngải- khu rừng già
Ðường Về Tây Ninh
Tặng nhà thơ Lâm Chương để nhớ lại
những ngày dài chiến trận tại Tây Ninh.
Ðường về Tây Ninh qua Gò Dầu Hạ,
Ði Tây Ninh đi từ hướng Sài Gòn,
Con đường đó, con đường quốc lộ một,
Ðến tận bây giờ tôi vẫn nhớ thương.
Con đường đó con đường đầy máu lữa,
Của những ngày chiến trận tại Miền Nam,
Ôi lũ giặc suốt đêm ngày đánh phá
Từ Củ Chi về đến tận Trảng Bàng!
Gò Dầu Hạ sát biên thùy đất giặc,
Cả Bến Cầu, Tiên Thuận lẫn Thiện Ngôn,
Dọc biên giới vùng KaTum- Xa Mát,
Núi Bà Ðen - Suối Ðá- Tống Lê Chân
Giặc đánh phá dọc theo sông Vàm Cỏ
Từ Bến Sỏi- Mõm Chó đến Cần Ðăng
Quốc lộ 22 ngày đêm tử thủ
Trận chiến dài ngày trận Tống Lê Chân
Mỗi địa danh là nơi đầy chiến tích
Ðã ngập máu đào xác ngã thây phơi
Ôi đau thương cảnh nồi da xáo thịt
Ðể tận lòng tôi mãi mãi hận đời
Núi Bà Ðen ngàn đời còn linh hiển
Ðất Tây Ninh có thánh thất Cao Ðài
Bách hoa viên đầy hoa thơm với kiểng
Nơi tôn nghiêm đây thánh địa Cao Ðài
Tôi nhớ mãi dọc con đướng quốc lộ
Ði từ Bến Kéo, Mít Một, Cẩm Giang
Xót cảnh đau thương nơi miền cố thổ
Bao cảnh lìa tan đổ vở phủ phàng
Ðường về Tây Ninh còn lưu dấu mãi
Nhớ cảnh bạn bè gục ngã ngày qua
Qưyết giành nhau từng cọng rau tấc đất
Kỷ niệm đau thương:-Nước mất- Xa nhà
Boston-95
Phạm Thành Tính
**
Nhân Ngày Giỗ Mẹ
*Viết trong ngày giỗ mẹ tôi
Nghi ngút nhang đèn hương trầm khói tỏa
Hồn mẹ hiển linh, xin mẹ về đây,
Con tưởng nhớ hôm nay:- Ngày giỗ mẹ
Công đức sinh thành tạc dạ khó khuây
Ơn của mẹ- Công lao như trời bể
Suốt cả đời con mãi mãi khắc ghi
Nhắc đến mẹ hiền, mắt con mờ lệ
Nhớ bóng mẹ già khóc buổi con đi
Tháng Tư đó- Ði tù nơi đất Bắc
Mẹ khóc con, chờ đợi đến mõi mòn,
Ôi đau đớn!- Một buổi chiều mẹ mất
Mắt mẹ mờ, nhưng vẫn nuối trông con...
Ngày ra tù, con về Nam tìm mẹ
Lúc trong tù nào biết mẹ qua đời.
Thân lạc lỏng ngày về- ôi bất hạnh!
Thế gian này tìm đâu nữa mẹ ơi
Con về đây bên nấm mồ thương tiếc
Buổi con đi nào biết có ngày về.
Cha đã mất, mẹ hiền đi vĩnh biệt
Con bơ vơ, buồn tủi thật não nề.
Con nhìn lại bao người thân đã mất,
Mất cả cuộc đời, mất cả quê hương,
Mất tất cả!- Còn buồn đau tủi nhục
Tơi tả nỗi lòng, buộc phải ly hương
Bao năm qua con lià xa đất mẹ,
Nhưng lòng con vẫn nhớ đến Cữu huyền,
Ơn cha mẹ, ơn sinh thành dưỡng dục,
Con vẫn phượng thờ tin đấng Thiên Liêng
Gìn hiếu đạo con vâng lời mẹ dạy
Yêu đồng bào cùng máu đỏ da vàng
Theo truyền thống bốn ngàn năm lịch sử
Tại vì ai?- Con phải sống tha phương
Ðến hôm nay nhân ngày con giỗ mẹ
Hồn mẹ hiển linh chứng giám lòng con
Dù xa quê nhà muôn trùng cách biệt
Con một lòng hiếu đạo giữ vuông tròn
Phạm Thành Tính
Ðọc Thơ Em
Ðọc thơ em, anh mến dòng thơ lạ,
Dư âm buồn như gió thoảng hương xưa,
Em vẫn làm thơ, vẫn đẹp đến giờ,
Viết tuổi học trò, xanh như lá mạ.
Anh đọc thơ em, mến dòng thơ lạ,
Em mơ cuộc tình hát giữa đêm trăng,
Nhớ thương một nguờI, lòng vẫn bâng khuâng,
Gữi về xứ Huế, sao thương Vỹ Dạ !
Anh thấy em, vẫn viết dòng thơ lạ,
Như cửa tâm hồn chan chứa niềm riêng,
Thơ tháng tư, vẫn đượm nét ưu phiền...
Như cây trơ cành, thương mùa chết lá!
Ðọc thơ em, giữa nắng chiều xứ lạ,
Bỗng dưng lòng nghe thương nhớ quê hương,
Nghe tâm tư chổi dậy nỗi căm hờn,
Thân lữ thứ ôm niềm đau khó tả.
Ðọc thơ em sao lòng thương nhớ quá,
Nhớ quê nhà xa cách mấy trùng dương,
Góc trời quê còn lắm nỗi bi thương,
Nghe chua xót đi vào bao hận tủi.
Qua cuộc bể dâu, thăng trầm biến đổi,
Thơ em buồn, thao thức chuyện ngày xưa,
Nhớ buổi ra đi, ôm hận đến giờ,
“ Như chim xa cành, thương cây nhớ cội”
Tha phương xứ người tháng ngày lặn lội,
Ðọc thơ em nghe vơi bớt niềm đau,
Lời ý thơ thật tha thiết ngọt ngào,
Anh đọc thơ em, thấy nguôi nỗi nhớ...
1998
Phạm Thành Tính
Sao anh không về
Anh hỏi sao không về thăm đất nước ?
Thăm lại bến phà, sông nước Hậu Giang
Thăm dòng sông xanh chảy suốt qua làng
Nhìn lại hàng dừa nghiêng che bóng mát
Tôi từ độ bỏ làng đi xứ khác
Lòng mẹ buồn se thắt buổi chia xa
Hằng đêm đêm mắt lệ đổ chan hòa
Mẹ đau xót hóa ra người thiên cổ
Ðã lâu rồi , không về thăm cố thổ
Nhìn lại hàng dừa, dáng nhớ bâng khuâng
Bến Ninh Kiều kỷ niệm một thời xuân
Sông bến cũ lục bình trôi man mác
Tôi từ lúc bỏ làng đi xứ khác
Ôm niềm đau tan tác chốn thân thương
Giả biệt quê hương từ biệt mái trường
Hàng phượng vĩ luyến thương thày bạn cũ
Ngày vượt biển, tôi bỏ làng xa xứ
Lòng nghẹn ngào ra cuối tận dòng sông
Thuyền ra khơi, thuyền mát mái xuôi dòng
Mẹ khấn Phật Trời , cho con thoát nạn !
Ðã lâu rồi, tôi không về quê quán
Còn có nhớ gì, nơi đất Hậu Giang
Hận ngày ra đi thật quá phủ phàng
Bỏ lại mẹ già niềm đau vô kể
Ai có hiểu nỗi đau nơi trần thế ?
Cảnh con người đánh đập, hiếp con người
Ðành phải bỏ đi, lỡ khóc lỡ cười
Ôi lòng dạ con người ? - Sao hiểu được?
Sống cảnh tha phương, xa nhà xa nước
Lòng không ưng, nhưng yên ấm quê người
Nghĩ đến quê hương, đôi lúc ngậm ngùi
Dù tiếc nhớ, cũng không về quê nữa...
Ðành chấp nhận nỗi niềm đau chan chứa
Dù tuổi già bóng xế kiếp lưu vong
Kiếp nhân sinh như nước chảy xuôi dòng
Xuôi ra biển không bao giờ trở lại.
Phạm Thành Tính
THƯƠNG TIẾC
* Kính điếu vong linh thầy Nguyễn Duy Xuân
cùng tất cả chiến hữu VNCH đã mất trong trại
tù Cộng sản Việt Nam.
Ngày anh chết, nơi trại tù đất Bắc,
Tôi nghẹn ngào ruột thắt tim đau.
Nhìn xác anh mà máu lệ tuôn trào,
Qua cửa ngục, nhìn nhau buồn tủi hận!
Nơi anh chết, cách quê anh ngàn dặm,
Mặc dù là Ðất tổ, đất Quê Cha,
Nhưng đây!- Trại tù Thanh Hóa , Nam Hà,
Hồn anh nuối về miền Nam sông Hậu.
Ôi đau thương!- Ðòi chim lồng cá chậu.
Tàn mộng hải hồ, tan nát đời trai.
Lỡ sa cơ thất thế bị tù đày...
Sao lại chọn nơi này?- Anh vĩnh biệt?
Mẹ già cùng vợ con anh!- Nào biết !
Chỉ bạn bề còn lại tiếc anh đi...
Phút tàn hơi chẳng trối được câu gì
Ngày tử biệt giữa sương mù ảm đạm.
Tiển anh đi, nhìn qua khung cửa khám,
Nhìn được anh lần ấy- phút sau cùng.
Trong lao tù uất nghẹn buổi lâm chung.
Anh nào nghĩ đoạn đường này đoạn cuối?
Anh chết đi, lòng tôi buồn hận tủi,
Vì bước đường dài sẽ vắng bóng anh,
Biến đau thương thành sức mạnh đấu tranh.
Dù còn mất:-Vì Tự Do, Dân Chủ.
Nhớ lại những ngày miền Nam thất thủ,
Vì ngoại bang bức tử chết đau thương!
Bè bạn anh không gục ngã ở chiến trường
Nhưng ngã gục giữa trại tù Cộng sản.
Bè bạn chúng ta giờ này ly tán!
Kẻ ngục tù, kẻ tỵ nạn tha phương.
Anh chết đi không xóa được đau buồn,
Anh đành phải ngậm hờn theo vận nước.
Ôi nỗi đau này! Nói sao hết được,
Cảnh tù đày, cảnh tử biệt sinh ly.
Thương tiếc anh chưa trọn quãng đường đi,
Lòng đau xót cảnh kẻ còn người mất.
Tôi còn đây nguyện khấn xin Trời Ðất,
Một tuần nhang xin thấp điếu vong linh,
Những vần thơ tang tóc khóc biệt anh,
Xin anh nhận tấm lòng tôi thương tiếc.
Trại cải tạo Nam Hà, 1984
Tự thán
Thân tặng các chiến sĩ và nghệ sĩ VNCH
Ngó lại đầu ta đã bạc màu
Lưu vong sống chết biết về đâu
Cuối đời nghệ sĩ thân tàn tạ
Nữa kiếp chinh nhân phận héo sầu
Sân khấu ngày qua trò giả dối
Hí trường buổi đó chuyên không đâu
Màn nhung khép lại đời đau tủi
Thương kiếp con người trước biển dâu
Phạm Thành Tính
Ðiệu Ðón Ðưa
Bài thơ mỗi câu dùng một mẫu tự.
*Gửi người Việt tị nạn dễ tánh lại mau quên.
PTT
Ðiếu đốm đưa đường điệu đẩy đưa
Miệng mồm môi mép mãi mây mưa
Ðú đa đú đởn đờn đơn điệu
Cầm ca cười cợt cảnh cù cưa
Dơ dáng dạn dày duyên dáng dõm
Luồn lách lòng lem lối lọc lừa
Nữa người nữa ngộm nên ngơ ngác
Còn chơi cáo Cộng chán chường chưa ?
Phạm Thành Tính
Tù Cải Tạo
*Kỷ niệm ngày bị bắt đi tù cải tạo
Thôi đành giả biệt má thằng cu
Cộng sản lừa đem nhốt trại tù
Một tháng học hành, nơi dối trá
Mười năm lao động, cõi thâm u
Băng rừng lội suối , mòn đôi cẳng
Cuốc ruộng cày nương , nát cả khu
Thói thường cáo cộng trò chơi chữ
Học tập còn hơn cảnh tội tù ?
Phạm Thành Tính
Tôi vẫn viết.
Ðã lâu lắm rồi , tôi vẫn viết
Viết toàn chuyện cũ , chuyện năm xưa
Viết hoài viết mãi làm sao hết
Trút nỗi niềm đau chuyện nắng mưa
Ðã lâu lắm rồi tôi vẫn viết
Viết ngày bỏ xứ, chuyện lưu vong
Người còn thương tiếc bao người mất
Nhắc chuyện năm xưa thật não lòng
Thêm nữa phương này thân lữ thứ
Ngồi buồn nhớ lại thuở lao lung
Nhớ ngày đày đọa nơi rừng rú
Ruột đau như cắt , nhắc đau lòng
Ðã lâu lắm rồi tôi vẫn viết..
Dù còn lo sống đất tạm dung
Tâm tư uất nghẹn còn chưa hết
Nỗi đau oan nghiệt xót vô cùng
Ðã lâu lắm rồi tôi vẫn viết..
Viết lời thơ đượm nét sầu chung
Ðêm đêm thao thức hờn vong quốc
Ôn lại ngày qua , thấy hận lòng
Thêm nữa nỗi lòng đau chín khúc
Vùng lên thép bút viết đôi dòng
Niềm đau năm cũ còn chưa dứt
Vì còn đau nhức nỗi đau chung
Phạm Thành Tính
*
|
Cuối đời còn lại, chút duyên thơ
• Mến gửi nhà thơ Lương Thư Trung, tác giả bài Ở Ẩn,
đã đăng trên Thi đàn Thất Sơn Châu Ðốc, ngày 12/02/06
Bao năm kết nghĩa với văn thơ
Từ buổi xa quê, lạc bến bờ
Bằng hữu tâm giao dần mất hết
Anh hùng lỡ vận cũng bơ vơ
kiếm ai thử hỏi người cùng ý
tìm bạn làm sao kết vận thơ
Ðợi mãi cũng đành cam gác bút
Cuối đời còn lại, chút duyên thơ
2
Cuối đời còn lại , chút duyên thơ
Tâm sự vương mang nỗi đợi chờ
Nơi đến phố phường như vắng vẻ
Ðường về xóm nhỏ cũng hoang sơ
Bốn bể khó tìm ra tri kỷ
mong gặp mười phương lúc thất cơ
Kẻ sĩ thức thời lo ẩn dật
khùng điên đàn đúm với văn thơ
3
Ðể đám khùng điên với nghiệp thơ
Mãi lo bận bịu với nàng thơ
Văn chương nghiền ngẩm từng trang sách
Thi phú miệt mài với quán thơ
Bao năm viết mãi không thành sách
Tháng tháng ghi hoài được ít thơ
Cuộc đời qui ẩn đành cam chịu
Lây lất cho qua những hẫng hờ
4
Lây lất cho qua những hẫng hờ
Thất thời còn lại chút tình thơ
Phe nhóm khen chê đành chịu vậy
Miệng đời trách móc cũng làm ngơ
Cửa hàng bày bán ê hề sách
Quán xá trưng bày ngập những thơ
Ê ẩm văn thơ thời mạt kiếp
Quanh quẩn chuyện đời lạc ý thơ
5
Quanh quẩn chuyện đời lạc ý thơ
Cũng đành gác lại chút duyên tơ
Nơi này còn ít tình văn nghệ
Chốn cũ tìm đâu mộng ước mơ
Gom góp ý thơ vào thế sự
Ðong đầy nỗi hận trút vào thơ
Nỗi lòng khắc khoải còn ôm ấp
Nhớ lại niềm đau khó nhạt mờ
6
Nhớ lại niềm đau khó nhạt mờ
Nỗi buồn xa xứ viết thành thơ
Chỉ còn trang trải lên trang giấy
Với những phơi bày những áng thơ
Nén chút nỗi lòng trong nghiệp bút
Giải bày tâm sự giữa trời thơ
Cuối đời ở ẩn vui yên phận
Có còn tìm lại, chút duyên thơ.?
Austin, đầu xuân Kỷ Sữu, 2009
Phạm Thành Tính
***
Áo dài và áo bà ba
Mùa xuân năm đó em đi dự lễ,
Em dịu hiền trong chiếc áo dài xanh,
Suối tóc huyền đổ bờ vai mềm mại,
Em hồn nhiên từ buổi mới quen anh.
Mỗi lần gặp nhau em thay màu áo,
Anh bâng khuâng mến nhất chiếc áo dài,
Chiếc áo xanh màu thiên thanh ngày ấy,
Làm lòng anh sao thấy nhớ thương hoài.
Anh yêu em không tại vì chiếc áo,
Nhưng mặc áo dài duyên dáng dễ thương,
Dù áo đơn sơ nhưng tình vẫn đẹp,
Áo tím ngày xưa dưới mái học đường.
Tình vẫn đẹp căng đấy tà áo lụa,
Gió thoáng bay làm lay động tình thương,
Chiếc áo thân thương bằng hàng nội hóa,
Nhớ áo mẹ già màu đất quê hương.
Nhớ lại năm nào áo dài không thấy
Chỉ tại đói nghèo mặc áo bà ba,
Khốn khổ quá, thiếu ăn không đủ mặc,
Rau cháo qua ngày đói khổ thời qua. (1975)
Buồn nhớ lại ngày ăn khoai ăn độn,
Lấy đâu ra gấm vóc với lụa là,
Chiếc áo dài?- Mặc làm gì khi đói!
Phải cam lòng đấp đổi áo bà ba.
Giờ ra xứ người lụa là gấm vóc,
Em mặc đủ màu, đủ kiểu Tây phương,
Sao anh thấy thế nào- không nói được,
Vì vẫn còn thương chiếc áo quê hương!
Anh vẫn còn nhớ tà áo dài năm ấy,
Vẫn còn thương áo ấy đến ngày nay,
Áo em mặc! Áo dài theo truyền thống,
Nét áo dễ thương, nét đẹp trang đài.
Còn thương áo dài, còn yêu kỷ niệm,
Màu áo năm xưa duyên dáng yêu kiều,
Nhớ Sàigòn năm nào mùa áo cưới,
Tà áo dài ấp ủ một trời yêu.
Phạm Thành Tính
Màu Tím Hoa Lục Bình
* Gửi người bạn ưa thích màu tím của hoa lục bình
Ðời cõi tạm bao gồm muôn cây cỏ
Phận bèo hoa, nên cuộc sống bấp bênh
Kiếp phù sinh trôi nổi giữa lênh đênh
Sống lưu lạc theo dòng sông con nước
Phận bọt bèo , có ai nào hiểu được
Là hương đồng cỏ nội cũng loài hoa
Cũng sắc màu tim tím như hoa cà
Không kém hoa sim, hoa bằng lăng tím
Hoa lục bình vẫn nở trên sông bến
Trên kinh đào, ruộng lúa lẫn hồ ao
Cuống lá lục bình, hoa lá chen nhau
Mọc từng bụi, rể không hề bám đất
Thân phận rong rêu, dãi dầu, đạm bạc
Có ai nào để ý đến màu hoa
Tuy sắc hương hoa trông rất mặn mà
Màu hoa tím là màu thương màu nhớ
Số kiếp làm hoa , đời hoa vẫn nở
Dù phận rong rêu, kẹt giữa hồ ao
Vẫn không buồn cho số phận lao đao
Dù ở nơi nào hay dòng sông bến bãi
Cả đời hoa, trước nhân tình thế thái
Dù sắc hương hoa chẳng kém chi ai
Số phận hẩm hiu chẳng ai đoái hoài
Dù rất dịu dàng, không khoe hương sắc
Số kiếp long đong, thân hèn phận bạc
Dù hoa bèo cũng tô điểm ruộng đồng
Khi nổi trôi làm đẹp cả dòng sông
Ðến lúc úa tàn nằm phơi nước cạn
Do định mệnh, úa tàn theo năm tháng
Nơi dòng sông, ruộng lúa cũng phai màu
Phải phơi mình tàn tạ mép bờ ao
Cũng giúp cho đời đem làm phân bón
Ngang trái tình đời, giữ sao cho trọn
Dù khoe hương khoe sắc cũng phai tàn
Dù huy hoàng lộng lẩy với cao sang
Chung cuộc rồi, hoa cũng tàn héo úa
Hoa đồng cỏ nội, không nhung, không lụa
Không màu mè sặc sở lẫn kiêu sa
Vẫn dịu dàng, trang nhã của màu hoa
Màu hoa tím , hoa lục bình vẫn đẹp./
Pham Thành Tính
**
Từ Miền Ðất Lạnh
Kinh điếu nhà văn Nguyễn Văn Ba
Mùa này tháng bảy mưa luôn
Mưa rơi như thể lệ buồn khóc anh
Ðời người sao quá mỏng manh
Mới năm hai tuổi sao đành vội đi ?
Từ Miền Ðất Lạnh (1)- Anh đi !
Thành Ðô Gió Bụiõõ (1) -
Còn gì gặp nhau ?
*
Nhìn vành tang trắng nghẹn ngào
Tâm tư tan nát như dao cắt lòng
Còn đây tác phẩm viết chung
Nguyễn Bạch Mai- Nguyễn kim Long (2) -
Một đời !
Anh đi để lại ngậm ngùi
Vợ con đau xót, bao người tiếc thương !
Gửi Chút tình với quê hương(1)
Từ đây đôi ngã âm dương mịt mờ
Thôi đành giả biệt Cần Thơ
Ninh Kiều bến cũ người xưa không về
Cũng đành giả biệt làng quê
Nha Mân quê mẹ không về nữa đâu!
Anh đi để chị khổ sầu
Phận Ðàn Bàõõ (1) phải đương đầu
chắt chiu
Khổ Hoa Ðắng, Khổ Hoa Ðèo (1)
Ðời người ngắn ngủi bao điều xót xa
**
Ðau buồn khóc Nguyễn Văn Ba
Nghiệp văn còn nặng vội xa cõi trần
Gặp anh chỉ được một lần
Vào đêm họp bạn(3) là lần cuối thôi
Giờ anh giả biệt cõi đời
Tuần nhang tôi thắp với lời khấn xin
Nguyện cầu Ðức Phật hiển linh
Ðón anh về cõi an binh ngủ yên
Boston, tháng 7 năm 2000
Phạm Thành Tính
Tên những tác phẩm đã xuất bản của
Nguyễn Văn Ba Bút hiệu của Nguyễn Văn
Ba, Nguyễn Bạch Mai là bút hiệu của chị
Nguyễn Văn Ba
(3) Ðêm 4/7/1998 tại Toronto, Canada là
đêm họp mặt của Trường Phan Thanh Giản
& Ðoàn Thị Ðiễm, Cần Thơ
**
Long Khánh, một buổi chiều
* Kính điếu vong linh các chiến sĩ VNCH
đã anh dũng hy sinh trong trận chiến
sau cùng của cuộc chiến Việt Nam tại Long Khánh trước ngày 30-4-75.
1
Long Khánh năm nao bãi chiến trường.
Giờ này nhìn lại thấy đau thương,
Phố xưa đổ nát đầy thương tiếc
Vườn cũ hoang tàn ngập nhớ thương.
Xuân Lộc quyết tâm ngày tử chiến!
Dầu Giây anh dũng buổi kiên cường!
Nỗi niềm uất hận còn lưu dấu
Cảnh cũ người đâu thấy thật buồn!
2
Cảnh cũ người đâu thấy thật buồn!
Mười năm cải tạo quá đau thương...
Quay về chốn cũ vùng Long Khánh.
Nhớ lại nơi xưa đất Hồ Trường?
Mấy ngàn chiến sĩ đành tan tác,
Sáu vạn lương dân chịu thảm thương!
Nhà tan cửa nát đời vong quốc
Sống cảnh lạc loài khắp bốn phương..
.
3
Hồi tưởng ngày qua! Thật não buồn
Còn đâu bạn hữu quá thân thương,
Chiến tranh chết thảm đời dâu bể
Hòa bình sống hận cảnh tang thương
Người còn cải tạo nơi lao lý
Kẻ chết mồ hoang ở cuối đường!
Chiều nay trở lại vùng Long Khánh
Nhìn lại nơi đây ngập tủi hờn!
Một buổi chiều tháng 7/1986
Phạm Thành Tính
Ði
Cuộc đời đã nặng nợ đi
Sông hồ bốn biển đã đi khắp cùng
Ðất trời tuy rộng mênh mong
Ta đi đã giáp một vòng nghỉ chân
Mãi toan tính chuyện xa gần
Bây giờ còn lại một thân chốn này
Nợ trần nặng gánh đôi vai
Cả đời nếm mật nằm gai cũng nhiều
Giờ này tuổi đã xế chiều
Hoàng hôn nắng tắt quạnh hiu nỗi lòng
Nợ đời trả lúc nào xong
Trả xong nợ máu, long đong xứ người
Từ ngày đôi nẽo đôi nơi
Tình người lỡ khóc lỡ cười đau thương
Ðang đi, đi giữa phố phường
Tưởng chừng qua những vũng mưong bãi
lầy
Bước đi mòn cả gót giày
Lòng còn vương vấn thuơng cây cội nhà
Ðộc hành xứ lạ phương xa
Mỗi lần nhớ đến quê nhà lòng đau
Mai này đi nữa về đâu
Còn đi, đi mãi bao giờ dừng chân.
Phạm Thành Tính
**
Nắng ấm
* Tặng nhà thơ Quan Dương kỷ niệm
đêm gặp gỡ tại Boston (6-4-97)
với tập thơ “Ngậm ngùi “ của anh.
Ở phương này vẫn chan hoà nắng ấm,
Khi mùa xuân vừa trỡ lại nơi đây,
Nụ đâm chồi trên khắp các cội cây,
Chỉ đợi nắng là đua nhau rộ nở.
Ðã qua rồi những ngày đầy bảo tố,
Ta vẫn còn ta- Hoa nở tâm hồn,
Bởi nơi này hoa vẫn nở luôn luôn,
Và nắng ấm sẽ khô dần máu mắt !
Trong cuộc bể dâu kẻ còn người mất,
Nên viết lời bất khuất tự tim đau,
Cùng nỗi cay đắng tủi nhục năm nào,
Mảnh đời rách giờ đây khâu vá lại.
Dĩ vảng buồn theo đường kim mảnh vải,
Tả tơi cuộc đời áo trận đau thương,,
Nếm đủ mặn nồng vị đắng quê hương,
Bao giọt lệ thấm đầy trang hận sử !
Có lúc cô đơn giữa dòng lữ thứ,
Vì dư âm còn vang vọng đâu đây?
Thao thức nỗi lòng nhớ cội thương cây?
Tình chiến hữu còn say luôn mãi nhớ!
Gặp lại hôm nay như chim về tổ,
Gọi nhau về trong nắng ấm bình minh,
Sưởi ấm lòng ôn chuyện thuở đao binh,
Nuôi hy vọng cùng xây tình đất mới.
Trên xứ người tâm hồn luôn réo gọi,
Nỗi ư tư niềm thương tiếc ngậm ngùi,
Quê hương giờ xa thẩm cuối chân trời,
Ðang ngóng đợi vì quê cần nắng ấm.
Phạm Thành Tính
Nhớ Mỹ Tho
Ðèn Sài Gòn ngọn xanh ngọn đỏ,
Ðèn xứ Mỹ(1) ngọn tỏ ngọn lu,
Anh về học lấy chữ nhu,
Chín trăng em đợi, mười thu em chờ.
Ca dao
Lâu rồi nhớ lại vẫn còn thương,
Phượng thắm màu hoa của học đường,
Mỹ Tho kỷ niệm êm đềm quá!
Ðể lại lòng ai nỗi vấn vương.
*
Anh tiếc những ngày đất Mỹ Tho,
Nỗi thương, nỗi nhớ, nỗi mong chờ,
Nhớ ngày qua bến đò Rạch Miễu,
Hình bóng em ghi đến tận giờ!
*
Em nói em về dưới Bến Tre,
Tiền Giang xuôi ngược chiếc thuyền be,
Hàng dừa dáng đứng nghiêng nghiêng nhớ,
Nhớ mái nhà em dưới bóng me.
*
Hôm xuống bà con ở Cái Bè,
Ðưa nhau thăm ruộng sát bờ tre,
Ngồi ăn cam quít, chôm chôm, mận,
Vườn cây ăn trái sát bên hè.
*
Có buổi cùng vui dưới mái trường,
Cùng thầy cùng bạn quá thân thương,
Lòng vẫn nhớ mùa hoa phượng,
Nhớ buổi chia tay lúc bãi trường.
*
Ôi những ngày vui ở Ðịnh Tường (1)
Những giờ tạm biệt bến Trung Lương,
Tiển nhau ánh mắt đầy lưu luyến,
Lòng xót xa đau mấy dặm đường.
*
Lâu lắm chưa về lại Mỹ Tho,
Nhớ thời trai trẻ tuổi học trò,
Thương về kỷ niệm ngày xưa đó,
Nhớ mái trường xưa đất Mỹ Tho,
Phạm Thành Tính
(1)- Tên của tỉnh Mỹ Tho thời VNCH trước 1975
**
Ngày đi không ai dám tiễn
* Viết cho bà con đã vượt biển cùng các em tôi tại bến
Cần Thơ năm 1980.
Ngày đi không ai dám tiển
Ngày về kẻ đón người đưa
Cuộc đời khi tan khi hợp
Nào ai học được chữ ngờ ?.
Khi đi nào ai dám tiễn
Âm thầm ngăn giọt lệ tuôn
Trường giang sương mờ khói quyện
Cần Thơ đêm đó thật buồn...
Thuyền ra xa dần bến bãi
Ninh Kiều mờ nhạt phía sau
Thuyền đi ra sông ra biển
Mặc cho sống gió ba đào...
Cần Thơ một đêm kinh hãi
Oán hờn tràn ngập bến sông
Ra đi theo giòng định mệnh
Về đâu? Vượt sóng biển đông.
Chuyện đời khi tan khi hợp
Ðau lòng trước cuộc bể dâu
Vượt biên hằng hằng lớp lớp
Cùng đi khắp cả địa cầu.
Qua rồi bao cơn bão nổi
Xứ người sống sót gặp nhau
Tang thương cuộc đời biến đổi
Nhìn nhau ngỡ giấc chiêm bao!
Nhiều khi trên vùng lữ thứ
Nhớ quê nhớ nước một thời
Lòng thấy đau hoài chuyện cũ
Hận buồn biết thuở nào nguôi
Vẫn còn cơn đau ly tán
Sao lòng nhớ mãi khó quên
Xót xa cuộc đời tị nạn
Mỗi lần nhắc lại buồn thêm.
CầnThơ bây giờ xa lắc
Ðường về cách trở đại dương
Tạm dung quê người đất khách
Xứ người chấp nhận quê hương.
Ðã đi sá gì biệt xứ
Ðã giao mạng sống đất trời
Hải hồ gian lao tứ xứ
Còn đâu nước mắt khóc đời
Ngày đi không ai dám tiễn
Ngày về cũng chẵng gì vui
Mẹ cha bây giờ đã khuất
Còn đâu ý nghĩa cuộc đời.
Hè 1997
Phạm Thành Tính
**
Người anh hùng đất Kiên Giang
Anh hùng nhược ngộ vô dung địa
Báo hận thâm cừu bất đái thiên
(Thơ tuyệt mệnh của Nguyễn Trung Trực )
Anh hùng gặp phải thời không đất
Thù hận chan chan chẳng đội trời
( Thi sĩ Ðông Hồ dịch )
Lâm bước đường cùng anh hùng thà chết
Sĩ khí còn lưu trang sử muôn đời.
Vì thù chung, quyết chẳng đội chung trời,
Ðành liều chết, cho trọn lới nguyện ước
Bao đau xót, trước tai trời ách nước.
Ðấng làm trai yêu nước chẳng ngồi yên
Trước cảnh cơ đồ sụp đổ ngã nghiêng,
Ôi vận nước ! Ðoạn trường đau chín khúc !
Ðất Kiên Giang ! Anh hùng Nguyễn Trung Trực (1868)
Ðã vùng lên hưởng ứng cuộc Cần Vương
Chung sức chung lòng giải cứu quê hương
Thề quyết tử đương đầu cùng giặc Pháp
Giữa lúc quê hương loạn cuồng bảo táp
Nguyễn Trung Trực khởi nghĩa đất Kiên
Giang
Chống lại kẻ thù khắp đất Long An
Tạo chiến tích oai hùng : Vàm Nhật Tảo !
Khiến Pháp quân kinh hoàng và điên đảo
Bằng tấm lòng nghĩa khí đức trung kiên
Sau bao ngày chống giữ đất Hà Tiên
Vì hiếu nghĩa phải đành cam tuyệt mạng
Ôi một đời trung can đầy dũng cảm
Phận làm con hiếu đạo với mẹ già
Phận làm trai son sắt với quê cha
Dù phải chết cũng không gì hối tiếc
Bị giặc xử lúc đem ra hành huyết
Phút sau cùng dù chết vẫn hiên ngang
Quyết một lòng trung nghĩa với giang san
Dù thành bại vẫn nêu cao chí cả
Cuộc khởi nghĩa oai hùng vùng Rạch Giá
Lịch sử còn ghi công đức tiền nhân :
Hỏa hồng Nhật Tảo oanh thiên địa
Kiếm bạt Kiên Giang khiếp quỉ thần
Phạm Thành Tính
**
Niềm Ðau Hôm Nay
Bỏ xứ ra đi, đời như hóa kiếp
Nghĩ lại thân mình như rắn lột da
Như đã nợ nần, từ trong tiền kiếp
Trả đến giờ này vẫn thấy xót xa
Làm lại cuộc đời trên vùng đất mới
Ứơc ao sao có cuộc sống yên lành
Nhưng đường đời sao mà xa diệu vợi
Ta miệt mài nghe mõi gối chồn chân
Ta cảm ơn những bạn bè đã chết
Ðể ta còn được sống đến ngày nay
Như cây khô bắt đầu xanh trở lại
Xóa nét đau thương, dứt cảnh tù đày
Ta vẫn sống đến giờ trên đất mới
Tạm dung xứ người cảnh sống lưu vong
Ôi quá khứ ! Những ngày đầy đen tối
Khiến đau thương còn mãi ở trong lòng
Ta vẫn sống sống trọn tình trọn nghĩa
Sống một đời một đạo đến hôm nay
Vì lý tưởng vẹn gìn câu trung nghĩa
Quyết một lòng dù chết chẳng hề phai
Ta im lìm, nhưng lòng ta tranh đấu
Bởi nội tâm nghe ngao ngán trò đời
Nhìn đám người quên màu cờ sắc áo
Quên cả cội nguồn tựa đám con rơi
Xã hội mới, khiến con người vong bản
Biến đổi tính người, quên mất mẹ cha
Biến thể đám này sống bằng hào nhoáng
Khiến họ chối từ cả máu thịt da.. ?
Ta còn sáng, mắt ta còn sáng lắm
Ðể tận mắt nhìn bè bạn cháu con
Sống tạm sống nhờ quê người đất khách
Giữ gìn sao cho tiếng mẹ đẻ còn
Ta cảm ơn những bạn bè sống sót
Giúp ta nhìn sự thật buổi hôm nay
Biết bao cảnh với niềm đau chua xót
Càng nghĩ càng đau ngấn lệ tuôn dài
Phạm Thành Tính
**
Viết gì để nguôi.
Từ ngày bỏ xứ ra đi
Ðắng cay còn biết viết gì cho nguôi
Lòng còn ray rứt không thôi
Nhớ bao kỷ niệm khó vơi nỗi sầu
Thân này rồi sẽ ra sao ?
Chuyện đời ấm lạnh biết đâu mà lường
Ở đây khí hậu bất thường
Tuyết rơi phủ trắng, mưa tuôn suốt ngày
Rựơu đời nhấp chén men cay
Nỗi buồn khơi dậy những ngày xa quê
Ngoài hiên gió lạnh thổi về
Phải chăng thân phải kéo lê kiếp sầu
Nhìn trời không thấy ánh sao
Chừng như chợt thấy nao nao lòng buồn
Ngoài rèm xối xã mưa tuôn
Giọt mưa như thể giọt buồn giọt đau
Cuộc đời lữ thứ bấy lâu
Thấy sông thấy nùi đâu đâu cũng buồn
Xuân về lạnh cả chăn giường
Trong mơ nào biết mình đương xa nhà
Dễ dàng như chuyện chia xa
Khó khăn vất vả như là gần nhau
Cái vui nào cũng qua mau
Nỗi buồn thường với nỗi đau đến hoài
Nghĩa tình thật khó tìm thay
Xuân về, xuân đến tới ngày xuân đi
Cõi trần hay cõi sầu bi
Lòng buồn còn muốn viết gì cho nguôi
Phạm Thành Tính
**
Tết Ðống Ða
Có một sáng Thăng Long thành bão lửa
Hàng vạn quân Thanh bạt vía kinh hồn
Lập nên kỳ công phá Thanh phạt Bắc
Công nghiệp lẫy lừng :- Ðại Ðế Quang
Trung !
Mùng 5 Tết !-
Mùng 5 Xuân Kỷ Dậu (1789)
Ngày Tây Sơn ra chiếm đất Thăng Long
Là ngày tàn đoàn quân Tôn Sĩ Nghị ( 1 )
Tại Gò Ðống Ða ghi dấu oai hùng
Cùng trận Hà Hồi, chiến công hiển hách
Của người hùng áo vải đất Qui Nhơn
Vùng sông Côn (2) còn mãi bao kỳ tích
Ðã dựng nên triều đại Nguyễn Tây Sơn
Nhưng Ðức Vũ Hoàng, Quang Trung
Nguyễn Huệ
Chỉ tiếc một thời ngắn ngủi lên ngôi
Bốn mươi tuổi (3) cuộc đời sao đoản mệnh
Công đức lưu danh, chiến tích tuyệt vời
Sự nghiệp Quang Trung thật là vĩ đại
Võ công hào hùng, lịch sử chiến tranh
Lịch sử Việt Nam, mỗi lần ôn lại
Trận chiến xuất thần, Trận phá quân Thanh.
Lịch sử Việt Nam qua bao triều đại
Từ đời Vua Hùng đến Nữ Trưng Vương
Ðến Ðinh, Lê, Lý, Trần, Lê, Nguyễn
Vẫn một lòng dựng nước cứu quê hương
Kẻ thù ngàn đời :- kẻ thù phương Bắc
Cả ngàn năm bị đô hộ giặc Tàu
Ông cha ta đã bao lần chống giặc
Và đã từng chịu lắm cảnh thương đau
Hôm nay kỷ niệm mùa xuân Kỷ Dậu
Ngày Tết Ðống Ða còn mãi rạng ngời
Làm sao có ?
-Một ngày Xuân Kỷ Dậu ?
Ðể giúp quê hương thoát cảnh hận đời
Công đức tiền nhân làm ta tưởng nhớ
Thắp nén hương lòng , mừng Tết Quang
Trung
Dù xa quê hương, nghe lòng vẫn khổ
Ước hẹn một ngày chiếm lại Thăng Long.
Phạm Thành Tính
Ghi chú :
(1) Ba mươi vạn quân Thanh do Tôn Sĩ
Nghị cầm đầu
(2) Vùng sông Côn, xã Tây Sơn, quận Phú Phong , tỉnh Bình Ðịnh
quê của 3 anh em Nguyễn Huệ, Nguyễn
Nhạc và Nguyễn Lữ khởi binh
(3) Bốn mươi tuổi : - Ứng hùng năm Quí
Dậu (1753 )
Qui thần năm Nhâm Tý ( 1792
Nhớ Ðà Lạt
Mến tặng tất cả bạn hữu đã tốt nghiệp
Trường Võ Bị Quốc Gia Ðà Lạt.
Nhớ Ðà Lạt, những ngày đầy sinh động
Cảnh thiên nhiên thơ mộng với đồi thông
Cùng bao thác ghềnh đời đời tuôn chảy
Kỷ niệm thời trai còn mãi trong lòng.
Nhớ hướng đồi Prenn đi vào Ðà Lạt
Ðoạn đường đèo khúc khuỷu lượn quanh co
Xe đi men theo đồi thông vách đá
Nắng chiều xuyên kẻ lá bóng sương mờ
Vào Ðà Lạt, nhớ trường xưa kỷ niệm
Thuở thiếu thời êm đẹp tuổi hoa niên
Thung lủngTình Yêu (1) nhớ thương em gái
Ðôi má hồng xinh, mái tóc dịu hiền
Thời trai trẻ xuất thân Trường Võ Bị
Vui sống cuộc đời binh nghiệp chinh nhân
Ðời chiến sĩ trung can đầy nghĩa khí
Quyết nguyện thề vì lợi nước an dân
Bây giờ xa quê nhớ về Ðà Lạt
Nhớ Hồ Xuân Hương (1) chan chứa bao tình
Nhứ đồi Cù vào những ngày nắng đẹp
Nhớ đỉnh Lang Biang trong ánh bình minh
Nhớ những đồi rau, nhớ từng luống cải
Nhớ vườn mơ đầy hoa quả đẹp xinh
Nhớ vườn phong lan với trăm hoa nở
Nhớ đồi chè xanh:-Nỗi nhớ tâm tình !
Nhớ Ðà Lạt vào những ngày giá lạnh
Thác Cam Ly co rút dưới đồi thông
Hồ Than Thở (2) nằm buồn nghe gió gọi
Ngồi sưởi bên nhau ấm lại cỏi lòng
Nhớ Ðà Lạt hoa anh đào rộn nở
Dìu em đi qua phố dưới sương chiều
Còn in dấu những ngày thân thương đó
Ðến phút này vẫn nhớ một trời yêu
Ta yêu nhau cũng từ nơi Ðà Lạt
Ngày cưới nhau làm phép tại nhà thờ
Chuông giáo đường ru êm ngày cưới
Mộng đẹp cuộc đời mật ngọt trăng thơ
Ðã lâu rồi ta vẫn thương Ðà Lạt
Kỷ niệm đầu đời quá đổi nên thơ
Mái trường Ðà Lạt-trường xưa kỷ niệm
Nhớ đến quê hương-tiếc nhớ vô bờ.
Pham Thành Tính
(1) Thung lủng Tình Yêu- do tên địa danh
cũ bằng chữ Pháp “Vallée d'Amour.”
(2) Hồ Xuân Hương- tức Hồ lớn tên cũ là “Grand Lac,”
thời VNCH đặt lại là hồ Xuân Hương.
(3) Hồ Than Thở do tên cũ tiếng Pháp là
“Lac de Soupirs.”
Ðất mẹ Cần Thơ
Ðất mẹ Cần Thơ- nhớ đầy đôi mắt
Mõi mòn trông xa cách mấy trùng dương,
Làng quê xưa bây giờ xa lơ lắc
Có bóng mẹ hiền khóc nhớ mong con
Thương mẹ đã già tuổi đời chồng chất,
Cực khổ tảo tần vất vả nuôi con,
Mẹ gánh gồng giữa chìều mưa lất phất.
Lam lũ từng ngày lo chuyện áo cơm
Nhớ mẹ hát nghe buồn như vọng cổ
Giữa những chiều theo nhip vỏng đong đưa
Ôi! Cảnh mẹ chống chèo trong đói khổ
Hình ảnh ngày xưa con nhớ đến giờ
Như cánh cò rả rời đôi cánh mõi,
Trên những ruộng đồng sông nước Hậu
Giang,
Ôm ấp nỗi niềm, mong mùa lúa mới
Gói ghém cho con có đủ hành trang
Con ra đời giữa những ngày binh lữa
Giữa lúc làng quê đang khổ đang nghèo
Mẹ tiển con đi lòng đau dạ xót
Ðôi mắt mẹ buồn khóc ngó trông theo
Tháng Tư đó, đất Cần Thơ ngày đó!
Mặc cho người đã đổi chủ thay tên.
Mẹ lại khóc cuộc thăng trầm dâu bể
Suốt cả đời sao khổ lụy triền miên
Mẹ vẫn đau sầu, buồn dâng khóe mắt
Theo dõi đàn con, mỗi bước một xa
Nhớ từng đứa, thương đứa còn đứa mất
Nức nở từng đêm ngấn lệ chan hòa
Con thương mẹ, cảnh chờ con xa xứ
Con vẫn mơ về tận xóm làng quê
Phải có một ngày, đời thôi nghiệt ngã
Mẹ sẽ hân hoan mừng đón con về
Con nghe lại khúc đầu đời mẹ hát
Ru con ngày nào nhớ lại thời xưa
Thời thơ ấu, tuổi học trò yêu dấu
Như ngọt ngào hương lúa đất Cần Thơ
Phạm Thành Tính
Ðôi mắt
Ca vũ trụ như thu vào đôi mắt,
Ðắm hồn anh như ngây ngất men say,
Ðôi mắt huyền lóng lánh tựa sương mai,
Ðôi mi khẻ chớp- chuyển lay trời đất.
Mỗi lần gặp nhau vui tràn ánh mắt.
Khiến lòng anh dào dạt sắc hương đời,
Nghe lâng lâng nồng thắm cả môi cười,
Ðôi môi mộng như hoa đào chớm nở.
Anh mãi nhớ sau những ngày gặp gở,
Tiển nhau về qua đôi mắt long lanh,
Trời Quincy (1) như thu hút hồn anh.
Ráng chiều thấm má em hồng ửng đỏ...
Ðôi mắt em! Cả một trời nhung nhớ.
Bước ngập ngừng đắm đuối giữa trời xuân,
Trên đường về anh cứ mãi bâng khuâng,
Nghe sống lại những ngày vui đẹp nắng.
Ðôi mắt em chứa chan tình nghĩa nặng,
Cả tim yêu và tất cả cho đời.
Ðôi môi xinh đầy tình ý tuyệt vời,
Và đôi mắt là bài thơ đẹp nhất.
Anh tìm lại những gì anh đã mất.
Ðến phút này còn lại có tình thương.
Trên đường đời lữ thứ kiếp tha phương,
Ý nghĩa nhất hương tình trong đôi mắt.
Ðôi mắt đó chứa bao niềm thao thức,
Buồn hận cuộc đời gánh đủ đau thương,
Dù phong ba bảo táp vẫn kiên cường,
Nhờ đôi mắt đượm đầy bao sức sống.
Ðôi mắt buồn đớn đau ngày vượt sóng
Vượt trùng dương lià cố thổ xa xôi,
Giã biệt quê hương tiếc núi ngậm ngùi,
Ôm hận tủi lẫn niềm đau khó tả.
Nhìn đôi mắt sao lòng thương mến quá!
Trời Quincy như sống lại giữa ban mai.
Bao ước mơ khao khát giữa ban ngày,
Giờ sống lại dâng tràn lên khóe mắt.
Quincy, xuân 1998
Phạm Thành Tính
***
Tên Người Chết Khắc Trên Tường Ðá
* Viết trong ngày kỷ niệm chiến sĩ trận
vong ( Mémorial Day ), tại bức tường đá
đen, tưởng niệm lính Mỹ đã hi sinh trong
cuộc chiến Việt Nam, tại Washington DC. Tháng 5 / 2005.
Ôm nỗi hận lòng trong ba thập kỷ
Vì nỗi buồn của cuộc chiến năm xưa
Giờ đến nơi này thăm đài tưởng niệm
Lòng bổng dưng nghe xao xuyến vô bờ
Tên người chết được khắc trên tường đá
Trên tường kỷ niệm cuộc chiến Việt Nam
Tại Washington , nơi quê người đất lạ
Tạm dung lâu rồi, lòng vẫn xốn xang
Có nhóm trẻ đang đọc tên người chết
Từ những túp lều, thắp nến sang choang
Giữa đêm nay buồn dâng không tả hết
Vì nỗi sầu trổi dậy giữa tâm cang
Tôi chợt nhớ đến nghĩa trang Gò Vấp
Nơi chôn người trong cuộc chiến Việt Nam
Giờ bị xóa tan không còn dấu vết
Người chết hai lần thật quá dã man
Tìm đâu thấy tên anh trên tường đá
Anh bỏ mình trong cuộc chiến năm xưa
Mồ bị cào xương cũng tàn cốt rã
Vì nghĩa trang bị xóa bởi thâm cừu
Ba mươi năm oán hờn cao chất ngất
Nghe ngậm ngùi đau nhức bước lưu vong
Tháng Tư nào ? Ta tan nhà nát cửa !
Ðể giờ này lưu xứ đất Washington
Bức tường đá khắc tên người tưởng nhớ
Người người về đây nhắc chuyện năm nào
Tên người chết xướng lên từng ngọn nến
Như gieo vào quá khứ quá thương đau
Xin trả lại công bằng cho kẻ chết
Họ cũng chết vì Tổ Quốc Việt Nam
Nghĩa trang ngày nào nhẩn tâm xóa hết
Do trả thù bằng bạo lực hung tàn
Tháng Tư đó giờ tròn ba thập kỷ
Trôi theo dòng đời, vận nước biển dâu
Tôi về đây ghé thăm từơng tưởng niệm
Nhớ chuyện năm xưa ngấn lệ tuôn trào
Phạm Thành Tính
Nhìn Lại Tuổi Thanh Xuân
La jeunesse est la flamme
Mais un feu ca s’éteint.
T. Smertina
Tuổi thanh xuân là ngọn lữa hồng
Nhưng ngọn lữa lịm dần rồi chợt tắt.
Tuổi thanh xuân như lữa bừng rực cháy
Và tâm hồn thư thái tựa như gương
Ðường tương lai là năm châu bốn biển
Chữ ân tình trĩu nặng tựa Thái sơn
Rồi cuộc thế xoay vần qua nữa kiếp
Mắt mõi mòn theo dõi bước chân đi
Khi tỉnh mộng đời, qua cơn giấc điệp
Tay trắng buông xuôi mất tuổi dậy thì
Trong cuộc biển dâu làm tim đau nhói
Mở mắt ra, giờ xa cách trùng dương
Nhớ lại nhũng ngày mưa dầu nắng dãi
Hết thời trai, giờ kiếp sống ly hương
Tuổi thanh xuân, dấn thân như ngọn lữa
Ngọn lữa hồng đốt cháy nám đời trai
Lam hoa niên héo dần năm tháng úa
Xót thương đời mài miệt chuyện ngày mai
Biết bao tuổi trẻ chết tù, chết trận
Chết giữa đoạn đường ôm hận đau thương
Kẻ còn sống, sống cuộc đời lận đận
Phải cam đành chấp nhận sống tha phương
Giờ tuổi già, như lữa tàn sắp tắt
Nhìn lại thời qua đen tựa đống than
Tất cả là bụi, tro tàn xám ngắt
Bước đường qua lưu lạc tựa đi hoang
Bao lứa tuổi cuối cùng rồi cũng chết
Chỉ còn con tim chơn chính thủy chung
Sống vì Tự Do , mai này dù chết
Giữ sao tròn đạo nghĩa mới anh hùng
Thế cuộc qua rồi, con người chưa mất
Tiếng nói lương tâm thốt tận đáy lòng
Bằng ngôn ngữ chơn thành và chính trực
Bằng tình thương chân thật phát nơi lòng
Tuổi thanh xuân một thời nơi đất mẹ
Nay tuổi già dong ruỗi ở quê người
Tuy sống tạm dung, cuộc đời yên ổn
Dù bình an sao vẫn thấy ngậm ngùi /
Phạm Thành Tính
Ngày đi hoa cỏ cũng sầu
“Quốc phá sơn hà tại
Thanh xuân thảo mộc thâm
Cảm thời hoa tiễn lệ
Hậu biệt đìểu kinh tâm”
Ðỗ Phủ
Trường Sơn, Cữu Long, Sông Hồng còn đó,
Với ngàn cây hoa cỏ vẫn lên xanh
Buộc lòng ra đi, từ bỏ không đành,
Khi quê hương mình, đẹp xinh như thế !
Nhớ Ðỗ Phủ: “Cảm thời hoa tiễn lệ!”
Hoa cũng sầu, khóc kể tiễn đưa nhau,
Lòng nao nao khi hoa cỏ đậm màu
Cỏ hoa luyến tiếc !- Người không luyến tiếc !
Bởi quê hương mình, vương nhiều ly biệt !
Vì tình người không có chút tính thương,
Nên cam lòng phải biệt xứ ly hương,
Ðến muôn chim cũng động lòng xa cách!
Anh- Tôi, cùng sinh trên một dãy đất?
Do hận thù nên không thể sống gần...
Tôi không làm Câu Tiễn, đóng kịch nếm
phân,
Ðể được tha, chờ mong ngày phục quốc?
Tôi: Tôn Võ, Ngũ Tử Tư, mất đất,
Không mất linh hồn, đấu lụy Phù Sai.
Dù có đau thương chịu cảnh đọa đày.
Dù phải sống những ngày thân viễn xứ.
Quê hương mình khi còn bè lũ dữ,
Dù có trời xanh, hoa cỏ lên xanh,
Khi con người chưa được sống an lành.
Hoa cỏ tốt?- Nhìn lòng thêm đau khổ.
Kể từ ngày tôi xa lià đất tổ,
Mỗi độ xuân về cây lá đơm bông,
Nhìn muôn hoa nghe xao xuyến trong lòng.
Tôi lại nhớ “ Cảm thời hoa tiễn lệ”
Nhớ đến quê nhà, niềm đau vô kể.
Biết viết gì hơn, biết nói gì hơn,
Nhớ cảnh lao lung bao nỗi oán hờn,
Của một thời, một thời đau vong quốc
Giờ tự hỏi: “ Nên cười hay nên khóc”
Khi con người toàn xảo quyệt điêu ngoa,
Nhớ đến quê hương, mắt lệ đổ nhoà,
Khóc thân phận, khóc quê mình quá khổ
Boston, hè 1998
Tết tha hương
Kính tặng những bạn già xa xứ nhân ngày
Tết tại vùng Ðông Bắc Mỹ
Có còn hai hôm Tết đến rồi,
Ta dù có Tết cũng buồn thôi
Ở đây ngày Tết vô duyên quá!
Không có mai vàng, pháo nổ vui.
Còn nhớ xuân nào ta đến đây
Gặp ngày giá lạnh tuyết rơi đầy
Xuân về gặp lúc trời đang tuyết
Làm gì cóTết ở nơi đây?
Tết đến năm nay quá nửa đời
Tuổi già xa xứ lấy gì vui
Bao năm đất khách không còn Tết
Còn ở quê nhà cũng khổ thôi!
Nhớ cảnh mười năm héo cuộc đời
Mỗi lần Tết đến lệ sầu rơi
Mười năm, mười Tết trong lao lý
Nhớ lại càng đau, lẫn ngậm ngùi!
Cuộc sống nơi đây quá vội vàng
Nhiều khi quên mất cả xuân sang
Ðón xuân không pháo giao thừa nổ
Lặng lẽ chào xuân thật bẻ bàng!
Tết đén nơi này chỉ có ta
Quanh đi quẩn lại có thân già
Cả đàn con cháu đi làm hết
Ðứa làm ca sáng, đứa ca ba
Ta biết hôm nay Tết đến rồi
Nghe như có Tết gọi là vui
Ðể cùng nhớ lại ngày xa xứ
Cùng dếm xuân qua, đếm tuổi đời !
Tết 1998
Phạm Thành Tính
Lục Bát Cầm Chơi
Họa nguyên vận bài Lục Bát Cầm Chơi (1),
của Huệ Thu, đã đăng trên Sai Môn
Thi Ðàn, ngày Jan, 4th, 2009.
PTT.
Dọc bờ sông Cữu (1) dừa xanh
Hoa nơi sông Cữu, lục bình màu sim
Ðôi bờ ngăn cách sao tìm
Chờ mong ngóng mãi, con tim não nề
Từ ngày bỏ xứ bỏ quê
Người đi biền biệt, người về nhớ nhung
Vì cơn quốc nạn bảo bùng
Nổi trôi khắp xứ, gi? dừng chân đây ?
Gặp nhau kể chuyện tù đày
Ðau thương lao lý, héo gầy th?t da
Giờ này gian khổ đã qua
Còn tình còn nghĩa, thăng hoa cuộc đời
Theo dòng sông Cữu thuyền trôi
Tay chèo tay lái, êm xuôi lối về
Ðể mong tìm chút tình quê
Nước dòng sông Cữu tràn trề phù sa
Ruộng vườn đơm trái nở hoa
Tình xưa ấm lại, mặn mà gió trăng
Thân cò lặn lội nhớ chăng ?
Vượt biên vượt biển, tảo tần, vì ai ?
Bài thơ tuy ngắn,tình dài
Gieo vần lục bát , nhớ ngày xa nhau
Mỗi lần nhắc , mỗi lần đau
Nghe như nước mắt tràn vào mép môi
Cuộc đời, lỡ khóc lỡ cười
Tha hương thất thổ, tình người như không
Ðất trời đi khắp một vòng
Mõi chân ngồi nghĩ, thấy lòng quạnh hiu
Cầm chơi lục bát ban chiều
Bên dòng sông Cữu, nắng xiêu xế tà
Mãi lo những chuyện gần xa
Bát sành, bát sứ, xót xa điệu buồn..
Phạm Thành Tính
Không Về Thăm Cũng Biết
Xứ sở tôi ? Không về thăm cũng biết !
Lạ gì đâu ? Chùm Khế ngọt quê hương !
Chỉ có lời ngon, viên thuốc bọc đường ?
Chỉ thấy cường quyền tham ô trác táng.
Ở nơi quê nghèo không đầy ánh sáng
Ở chốn thành đô, những hẽm tối đen
Những trẻ mồ côi chẳng có họ tên
Có những thân tàn, mõi mòn đợi chết
Nơi quê tôi, không về thăm cũng biết
Gái bỏ quê đi ra chốn thị thành
Bỏ cả mẹ già bỏ cả đồng xanh
Bị gạt bị lừa bán thân làm gái
Ðàn ông con trai gặp nhiều oan trái
Phải lo đóng tiền xuất ngoại lao nô
Giai cấp công nông, ăn chực nằm chờ
Ðể ra xứ người làm thân nô lệ
Nhìn cảnh quê hương, lòng đau vô kể
Lạc hậu đói nghèo, từ Bắc chí Nam
Ðất nước giờ này , đầy dẩy gian tham
Khiến lòng dân phải căm hờn than oán
Xa quê lâu rồi, vì cơn quốc nạn
Tôi nhớ một lần, trên chuyến tàu đêm
Ngày ra tù , còn nhớ mãi chưa quên
Hà Nội Sài Gòn, trên tàu Thống Nhất ?
Dọc theo tuyến đường nối liền Nam Bắc
Thấy lòng người còn ngăn cách hoang
mang
Trước cảnh phân ly tan tác ngỡ ngàng
Thương cảnh dân nghèo áo ôm khố rách
Thống nhất bao năm vẫn còn chia cách
Cũng do oán thù chồng chất muôn nơi
Bao cảnh dân oan, trước cảnh đổi đời
Trước cảnh bạo tàn, dân tình rên xiết
Do đó quê tôi, không về cũng biết
Biết đủ mọi điều ngang trái đau thương
Nếu có về thăm chỉ thấy hận buồn
Ðành chấp nhận quê người, thương cố
thổ./
Phạm Thành Tính
***
Họa nguyên vận theo thể thơ thất ngôn bát cú.
bài Mai Già Nở Lạnh của Quách Tấn.
Mai Già Nở Lạnh
Quách Tấn
Tấm thân bảy chín giữ không tròn
Hai mắt nay còn được nữa con
Dặm thế gập ghềnh tay vịn trúc
Trang lòng quờ quạng lệ ngưng son
Hẹn hò chín chục xuân chưa đến
Gắn bó ba sinh đá nở mòn
Một tiếng chim chiều kêu trước giậu
Mai già nở lạnh bóng trăng non
Họa nguyên vận:
Xuân Mộng Chẳng Tròn
Mộng ước thời xuân chẳng được tròn
Giờ này còn lại với đàn con.
Cuộc đời ngang dọc lòng gang thép
Thế sự đổi dời dạ sắt son.
Ðợi mãi xuân thì không đến trọn
Mong hoài tuổi hạc phải hao mòn
Xứ người khó thấy mai vàng nở
Ngoài trời tuyết phủ trắng đầu non./
Ðông Bắc Hoa Kỳ, Tết Kỷ Sữu, 2009
Phạm Thành Tính
Họa nguyên vận :
Một Ðời Một Ðạo
Một đời một đạo giữ vuông tròn
Dù đang danh vọng xuống thằng, con..
Vật đổi đảo điên gìn một dạ
Sao dời tan tác giữ lòng son
Cuộc đời lao lý không sờn chí
Thân phận kiên giam dạ chẳng mòn
Mặc cho nhân thế gieo thù oán
Ta vẫn một lòng với nước non./
Tết Kỷ Sữu, 2009
Phạm Thành Tính
Họa nguyên vận bài Hà Thượng Nhân chúc Tết Huệ Thu.
Tâm Sự Ngày Xuân
Cuộc đời còn lại là thơ
Dù cho sự nghiệp giấc mơ tan rồi
Từ ngày lá rụng tơi bời
Cây khô chết đứng giữa trời đắng cay
Thân như chiếc lá đang bay
Cành khô lá úa thân gầy xác xơ
Xuân về nẩy lộc ước mơ
Lòng như sắp lại cuộc cờ đã tan
Ngoài trời đang tiết xuân sang
Xứ người không thấy mai vàng từ lâu
Ngày ngày lên gác xuống lầu
Chợt nhìn chiếc lá bên cầu đang rơi
Xót xa tóc đã bạc rồi
Thân còn đang sống nổi trôi cuối trời
Xuân về, xin chúc cho vui
Men cay chén đắng cũng vơi tấc lòng
Còn thơ còn có rượu nồng
Cùng say một bữa để mừng đón xuân./
Mùa Xuân, năm Kỷ Sữu, 2009
Phạm Thành Tính
***
|