Trong cuốn Ngữ vựng tiếng Việt đầu tiên (Westminster, CA, 2017), nơi trang 6, Giáo sư TrầnNgọc Ninh cho biết theo nhận xét của ông, “trongsố các nhà văn nhà báo, có chừng 50 phầntrăm viết ‘sử dụng’ và áng 50 phần trăm viết ‘xử dụng’.” Nhân thấy haiphía “tương đương,” Gs. Ninh không tỏ ra thiên về phía nào. Ông dẫn lời một nhàlàm tự điển, “thói quen là vua trong ngônngữ” (sách đã dẫn, cùng trang).
Khi cho học sinh viết chính tả, một cô giáo dạy Việtngữ không được nhiều tự do như thế mà cần có một ý niệm rõ rệt, dứt khoát hơn.Giữa hai cách viết “xử dụng” và “sử dụng,” nên hướng dẫn học sinh chọn cáchnào, và tại sao lại nên chọn như thế ? Bài này được viết theo đề nghị của haingười bạn. Một người bạn trẻ, dạy tiếng Việt ở một Trung tâm Việt ngữ. Người bạnthứ hai lớn tuổi hơn, một bác sĩ y khoa quan tâm tới đất nước và những vấn đề mang tính cách văn hóa, nêu câu hỏi sau khi đọc xong cuốn sách vừa kể của bác sĩTrần Ngọc Ninh.
Trước hết, “xử” (viết với X) là một từ khá thông dụngtrong tiếng Việt. Chúng ta nói “phân xử, xét xử, khu xử, xử trí, xử thế…” Xử cũngchỉ lối sống của một kẻ sĩ ở ẩn, không chịu ra làm việc đời (Xử sĩ, Xưa nay xuất xử thường hai lối—NguyễnCông Trứ). “Xử nữ” cũng đồng nghĩa với “trinh nữ.” Trong khoa chiêm tinh Tâyphương, cung Virgo trong Zodiac được dịch sang tiếng Pháp là Vierge và tiếng Việtlà Xử nữ. Nhân từ “xử nữ,” có thêm từ Hán Việt “xử nữ mạc” (màng trinh). Vì sựthông dụng của từ “xử,” khi cần diễn ý “xử dụng/sử dụng” với nghĩa “sai khiến,dùng vào một việc gì,” nhiều người đã viết “xử dụng” (với X) một cách tự nhiên. Đó cũng là lựa chọn của ngườiviết những dòng này trong suốt thời gian ở Trung học, nghĩ rằng mình đã viếtđúng.
Hai chữ “xử” và “sử” đều là từ Hán Việt, có gốc chữHán. Nếu từ “xử” trong “phân xử, xử thế, xuất xử” có gốc chữ Hán là 處 (cũng được đọc là “xứ”như trong “xứ sở, xuất xứ”), thì từ “sử” với nghĩa “sai khiến” có gốc từ chữ 使. Trong Hán văn, để diễn ý “saikhiến, dùng vào một việc gì,” người ta viết 使 hay 使用 (“sử” hay “sử dụng”).
Trong các tự điển Khang Hi và Từ Hải (biển cáctừ), chữ 使được cho biết là 从音史“tòng âm sử” (theo âm “sử,” phát âm như chữ "sử" 史với nghĩa lịch sử). TrongThe Pinyin Chinese-English Dictionarydo Gs. Wu Jingrong (吳景榮 = Ngô Cảnh Vinh) thuộcViện Ngoại ngữ Bắc Kinh làm chủ biên, thì chữ 使 có âm là “shĭ”(“shi,” phát âm theo thượng thanh).
Trong các tự điển Hán-Việt, chữ ấy được ghi âm là“sử” (viết với S, giống chữ “sử” trong “lịch sử”):
Hán Việt tự điểncủa Thiều Chửu: trang 21;
Hán Việt từ điểncủa Đào Duy Anh: trang 213;
Hán Việt tự điểncủa Trần Trọng San: trang 20;
Từ điển Hán Việtcủa Trần Văn Chánh: trang 152;
Từ lâm Hán Việt tự điểncủa Vĩnh Cao và Nguyễn Phố: trang 62.
Trongcác tự điển Việt ngữ được coi là “có thẩm quyền,” hai chữ “sử dụng” cũng đượcviết với S:
Việt Nam tự điểncủa Hội Khai Trí Tiến Đức: trang 499;
Tự điển Việt Namcủa Lê Văn Đức & Lê Ngọc Trụ: trang 1321, quyển Hạ;
Đại Nam quấc âm tự vịcủa Huỳnh Tịnh Của: trang 313, quyển 2.
Đểlàm thí dụ, xin được trình bày phóng ảnh những đoạn về cách viết chữ ấy trong các tựđiển của Trần Trọng San:
CủaVĩnh Cao & Nguyễn Phố:
CủaLê Văn Đức & Lê Ngọc Trụ:
Nhàbiên soạn tự điển Trần Văn Chánh còn dùng từ “sử dụng” trong lời văn của chínhông:
“Sử” với nghĩa “sai khiến” là một từ khá thông dụngtrong cổ văn. Trong Luận ngữ, Khổng tửtừng trả lời một câu hỏi của Lỗ Định công về liên hệ vua tôi như sau: “Quânsử thần dĩ lễ, thần sự quân dĩ trung” (vua sai khiến bề tôi với lễ, bề tôiphụng sự vua với lòng trung) :
(Luận ngữ, Thiên “Bát dật,” tiết 19).
Ở một đoạn kháctrong Luận ngữ, Khổng tử khuyên nhữngngười trị nước muốn dùng sức dân (bắt dân làm những việc tạp dịch) phải “sử dân dĩ thời” (sai khiến dân đúng thời,ngụ ý tránh những lúc dân đang bận vì các việc cấy gặt, đồng áng):
(Luận ngữ, thiên “Họcnhi,” tiết 5).
Trong một bài Đường thi khá được phổ biến (bài “Thục tướng,” vịnhThừa tướng nhà Thục Hán), Đỗ Phủ bày tỏ niềm thương tiếc Khổng Minh bằng haicâu:
出師未捷身先死
長使英雄淚滿襟
Xuất sư vịtiệp thân tiên tử
Trường sửanh hùng lệ mãn khâm
(Ra quân chưa thắng thân đã thác
Khiến cho khách anh hùng nước mắt đầy vạt áo)
Tất cả cácnhà dịch thơ chúng ta biết đều viết chữ “sử” ấy với S:
Trần TrọngKim:
Trần TrọngSan:
Khi phổ biếnbài "Thục tướng" trên Net, tất cả các trang mạng được nhiều người biết tới cũng dùngS để viết chữ “sử”:
Trên thivien.net:
Trên hoasontrang.us:
Trên saimonthidan.com:
Chữ “sử” 使 trong “quân sử thần dĩ lễ,” “sử dân dĩ thời,” “trường sử anh hùng…” chính là chữ “sử” 使 trong động từ “sử dụng” 使用. Theo các tự điển, chữ ấy cùng âm với chữ “sử”史 tronglịch sử, sử ký... Khi ta dùng S để viết “lịch sử, sử ký, Quốc sử quán, sử quan,sử gia …,” đương nhiên ta cũng nên dùng S để viết chữ “sử” trong “sử dụng.”
TrongViệt ngữ, khi dùng làm động từ, chữ ấy được đọc là “sử,” nhưng khi dùng làm danh từ, sẽ đượcđọc là “sứ.” Chúng ta có từ “sứ giả” (người được sai đi). Từ đó có thêm những từ“đi sứ, sứ thần, sứ quán, ông Đại sứ …” Vì cùng một gốc chữ Hán 使, cách đọc những chữ ấy phải giống nhau. Không lẽ chúngta viết “sứ giả, sứ thần” với chữ S nhưng lại đổi dùng X để viết “sử dụng”thành “xử dụng”?
Hiện nay số người viết “sử dụng” có vẻ mỗi ngày một nhiều hơn.Đó là lối viết được ghi trong các tự điển.