ÐÁ KHÓC THÀNH HOANG
Chứng nhân còn đó trăng vàng
Phế hưng nghe đá thành hoang khóc thầm
Thành xưa, người trước ngàn năm
Hoang liêu nắng dãi mưa dầm buồn tênh !
Cờ bay trống thúc biên đình
Loa vang đỉnh tháp chiêng rền thu quân
Trăng vàng còn đó chứng nhân
Tài thao lược, túi kinh luân cũng rồi !
Vầng trăng cổ sử còn soi
Ðộng lòng đá khóc thương người ngàn xưa
Nhân sinh tàn cuộc gió mưa
Buồn hiu hắt rụng cành thưa lá vàng
Tiêu điều bốn cửa thành hoang
Hỏi ai có biết hạc vàng về đâu ?
10 2001
Cung Diễm
Bài Họa
TẠI SAO ÐÁ KHÓC THÀNH HOANG ?
Ở đây Thung Lũng Hoa vàng
Từ xa tiếng gió đồng hoang thì thầm
Cổ kim đã mấy triệu năm
Tấm thân nắng dãi mưa dầm nhẹ tênh
Người xưa là khách biên đình
Từ quân tiếng trống còn rền ba quân
Quân nhân mà cũng thi nhân
Mái chèo cặp sách kinh luân đủ rồi
Nhìn lên vằng vặc trăng soi
Chốn này ai đó là người ngày xưa
Lại nghe trời đổ cơn mưa
Lá vừa xanh đó mai thưa lá vàng
Tại sao đá khóc thành hoang ?
Mai sau biết mảnh trăng vàng ở đâu !
Huệ Thu
**
LÒNG THƠ SÔI SỤC
Ai còn nhớ
Ông cha ta
Ðã dời non lấp biển
Ðã dựng núi khai sông
Nào bình Chiêm phá Tống
Nào đánh đuổi Nguyên Mông
Cạc nhọn Bạch Ðằng máu giặc loang sông
Tiếng hô vang “Quyết Chiến” dậy Diên Hồng
Những kỳ công đất lỡ
Những chiến tích trời long
Cho Trường Sơn sừng sững giữa trời Ðông
Cho Cửu Long giang cuồn cuộn chín thân rồng
Cho một nhà con cháu Bắc Nam Trung
Thế mà
Bọn giặc Bắc phương
Vẫn lom lom mắt vọ
Nuôi mộng xâm lăng nay dòm mai ngó
Sao chúng vội quên ông cha chúng nó
Ðã thất bại ê chề, đã khiếp oai thần võ
Thế mà bây giờ
Giấc mộng bá quyền vẫn không từ bỏ
Chúng gạt gẫm thế nào mà chiếm lấy ải Nam Quan không dùng đến một mũi tên lằn nỏ !
Ai mà không tím ruột ?
Ai mà chẳng bầm gan ?
Căm loài hổ báo giận lũ sài lang
Muốn hỏi rùa xưa xin mượn lưỡi gươm vàng
Tiếc cho ta
Lòng vẫn không mềm
Nhưng chân kia không còn đủ cứng
Như những ngày xưa để hiên ngang dáng đứng
Rút sọat thanh gươm mà thét lên rằng :”Nhữ đẳng hành khan...”
Than ôi ! “Vạn cổ thử giang san”
Sắt đá lòng nào chẳng nát tan
Nước ngậm ngùi Bản Giốc
Mây đòi đoạn nhớ gió Nam Quan !
Chém tay nỡ dứt tình sông núi
Cắt ruột đành chia nghĩa cũ caang
Uất hận trào dâng lên ngọn bút
Lòng thơ sôi sục sóng Bình Than !
San Jose 06-12-03
Họa Bài
LÒNG THƠ SÔI SỤC
của Tần Lĩnh
Ta là ai, là ai ?
Gẫm lại ta
Chuyện nương dâu bãi biển
Chuyện chuyển núi dời sông
Ông cha phá tan giặc Tống
Ông cha bình định nguyên mông
Dựng ngọn cờ thề dành lại núi sông
Máu giặc loang đỏ khé nước sông Hồng
Không làm cho đất lở
Không khiến được trời long
Chí nam nhi không tát được biển Ðông
Vẫn ngày đêm thẹn mãi giống tiên rồng
Thẹn làm dân chưa trọn một chữ trung
Nhưng mà
Hồ thỉ bốn phương
Ta chấp những phường cú vọ
Ta chấp chúng cứ khi nhìn lúc ngó
Ta đâu sợ, đâu nhường chúng nó
Bao phen nhục nhã ê chề,
trước oai phong thần võ
Ðể đến bây giờ
Ðất của Tổ tiên cam tâm cắt bỏ
Sao chẳng học người xưa lấy thanh tre làm nỏ ?
Chúng ta đều tím ruột
Bọn nó chẳng bầm gan
Cắt thịt da phụng sự kẻ sài lang
Chợt nghĩ đến người xưa khi tuốt lưỡi gươm vàng
Lũ chúng ta
Chân yếu tay mềm
Cây tùng bách giữa phong ba vẫn cứng
Giữa giông bão cùng giang san vẫn đứng
Chúng ta hãy cùng gào thét to dù cổ
họng đã khan ...
Ðâu đây vó ngựa vượt quan san
Ðã quyết thì quân địch phải tan
Theo bước đến cùng lòng Nguyễn Trãi
Giải cho kỳ được hận Nam Quan
Cứ nghe ruột xót như là cứ ...
Càng nghĩ lòng riêng lại thấy càng ....
Không lẽ cúi đầu đành chịu nhục
Ích gì lưu lại mấy lời than !
Huệ Thu
San Jose 12 10 03
Trước Lầu Ngưng Bích
Ngưng Bích bốn bề bát ngát trông
Cồn kia dặm nọ bụi pha hồng
Liêu Dương hun hút người trong mộng
Lãm thuý lạnh lùng nguyệt trước song
Mưa nắng sân lai bao ấm lạnh
Nỗi niềm gốc Tử mấy thu đông
Chân mây thấp thoáng thuyền ai đó ?
Trăm mối tơ vương rối cả lòng !
Cung Diễm
Bài Họa
Trước lầu ngưng Bích ngẩn ngơ trông
Trời đất bao la một đoá hồng
Mây lửng đầu non chim sải cách
Trăng treo đầu ngõ gió lùa song
Lênh đênh đất khách từng bao độ
Mù mịt tin nhà đã mấy Ðông ?
Thăm thẳm ngàn trùng xa vắng quá
Khiến người hôm sớm những chờ mong
Huệ Thu
Tú Bà
Thoắt trông nhờn nhợt màu da
Ăn gì cao lớn đẫy đà làm sao
Nguyễn Du
Nương náu lầu xanh một gái già
Bướm ong chừng đã chán chường hoa
Phấn son đâu, để da nhờn nhợt
Ăn uống chi, cho vóc đẫy đà
Bảy chữ, dạy tinh trò quỷ quái
tám nghề, bày rặt chuyện yêu ma
Theo phường bán phấn buôn hương ấy
Thẹn với lòng không hở tú bà ?
Tú Lắc
Bài Họa
Cứ chi phải trẻ cứ chi già
Hỏi bán gì đây ? chỉ bán hoa
Không phấn chắc dì không trúng mánh
Có tiền hẳn mụ có thêm đà
Tám nghề chẳng thiếu nghề mai mối
Bảy chữ còn thêm chữ quỷ ma
Phụ nữ ai cho thi với cử
Mà đem chức Tú gán cho bà
Huệ Thu