*
VƯƠNG BỘT Đằng Vương Các
滕王閣
王勃
滕王高閣臨江渚﹐ 佩玉鳴鸞罷歌舞。 畫棟朝飛南浦雲﹐ 朱帘暮捲西山雨。 閑雲潭影日悠悠﹐ 物換星移幾度秋。 閣中帝子今何在﹐ 檻外長江空自流。
Đằng Vương Các
Vương Bột
Đằng Vương cao các lâm giang chử Bội ngọc minh loan bãi ca vũ Họa đống triêu phi Nam phố vân Châu liêm mộ quyển Tây sơn vũ Nhàn vân đàm ảnh nhật du du Vật hoán tinh di kỷ độ thu Các trung đế tử kim hà tại? Hạm ngoại Trường giang không tự lưu Dịch thơ: Đằng Vương các
Gác Đằng cao ngất bãi sông Còn đâu tiếng ngọc, nhạc rung rộn ràng? Mây mai vờn nóc phố Nam Rèm châu chiều cuốn thấy ngàn Tây mưa Đầm in mây lửng, ngày đưa Sao dời vật đổi mấy mùa vèo trôi Đằng Vương giờ khuất xa rồi! Trường giang nước cứ chảy xuôi bên thềm. Nguyễn Lãm Thắng (dịch)
LẠC TÂN VƯƠNG Dịch thủy tống biệt
易水送別 駱賓王
此地別燕丹, 壯士髮衝冠。 昔時人已沒, 今日水猶寒。
Dịch thủy tống biệt
Thử địa biệt Yên Đan Tráng sĩ phát xung quan. Tích thời nhân dĩ một, Kim nhật thủy do hàn.
Dịch thơ:
Dịch thuỷ tống biệt
Chốn này biệt Thái tử Yên Tóc tráng sĩ dựng ngược lên che đầu Người xưa khuất bóng về đâu? Mà nay nước cuộn một màu lạnh căm. Nguyễn Lãm Thắng (dịch) Tại ngục vịnh thiền
Lạc Tân Vương
駱賓王
在獄詠蟬
西陸蟬聲唱, 南冠客思深。 不堪玄鬢影, 來對白頭吟。 露重飛難進, 風多響易沉。 無人信高潔, 誰為表予心。
Tại ngục vịnh thiền
Tây lục thiền thanh xướng Nam quan khách tứ thâm Bất kham huyền mấn ảnh Lai đối bạch đầu ngâm Lộ trọng phi nan tiến , Phong đa hưởng dị trầm Vô nhân tín cao khiết Thùy vi biểu dư tâm
Tại ngục vịnh thiền
Ngày thu vẳng tiếng ve kêu Trong tù, khách nhớ quê nghèo lắm thay! Bất kham cái bóng cánh gầy Ngâm nga trước mái tóc này bạc phơ Sương rơi nặng, cánh vật vờ Gió xua mạnh, lấp tiếng tơ rã rời Thanh cao, ai biết trên đời Ai chia sẻ nỗi bùi ngùi lòng ai! Nguyễn Lãm Thắng (dịch)
DƯƠNG QUÝNH Tòng quân hành
Dương Quýnh
从军行
杨炯
烽火照西京, 心中自不平。 牙璋辞凤阙, 铁骑绕龙城。 雪暗凋旗画, 风多杂鼓声。 宁为百夫长, 胜作一书生。
Tòng quân hành
Dương Quýnh
Phong hoả chiếu Tây kinh Tâm trung tự bất bình Nha chương từ Phượng khuyết Thiết kỵ nhiễu Long thành Tuyết ám điêu kỳ sắc Phong đa tạp cổ thanh Ninh vi bách phu trưởng Thắng tác nhất thư sinh Tòng quân hành
Lửa hiệu rọi Tây Kinh Lòng riêng dậy bất bình Ấn ngà rời Phượng khuyết Ngựa sắt rối Long thành Màu cờ hoen tuyết phủ Gió gào chen trống canh Thà đứng đầu trăm lính Hơn làm chàng thư sinh. Nguyễn Lãm Thắng (dịch)
TRẦN TỬ NGANG Đăng U Châu Đài Ca
Trần Tử Ngang
七言古詩
陳子昂
登幽州臺歌
前不見古人, 後不見來者; 念天地之悠悠, 獨愴然而涕下。
Đăng U Châu Đài Ca
Tiền bất kiến cổ nhân Hậu bất kiến lai giả Niệm thiên địa chi du du Độc sảng nhiên nhi thế hạ
Đăng U Châu đài ca
Trước… không thấy bóng cổ nhân Sau… thì chửa thấy người lần chân qua Đất trời dằng dặc bao la Xót lòng riêng, mà lệ sa trăm chiều. Nguyễn Lãm Thắng (dịch)
Cảm Ngộ
Trần Tử Ngang
Cảm Ngộ
Lan nhược tự xuân hạ Thiên uất hà thanh thanh U độc không lâm sắc Chu nhuy mạo tử hành Trì trì bạch nhật vãn Niệu niệ thu phong sinh Tuế hoa tận dao lạc Phưong ý cánh hà thành.
Dịch thơ:
Cảm Ngộ Xuân đã tàn, hè đến Lan, nhược thêm biếc xanh Một mình gom sắc núi Cành tím, hoa thắm xinh
Chậm chân ngày trắng xế Gió về hiu hắt thu Tuổi hoa theo mùa rụng Dấu ý thơm… được ru? Nguyễn Lãm Thắng (dịch)
TRƯƠNG CỬU LINH Tự quân chi xuất hĩ
Trương Cửu Linh
自君之出矣
張九齡
自君之出矣 不復理殘機 思君如月滿 夜夜減光輝
Tự quân chi xuất hĩ
Trương Cửu Linh
Tự quân chi xuất hĩ , Bất phục lý tàn ky . Tư quân như nguyệt mãn , (1) Dạ dạ giảm quang huy .
(1) Có bản ghi là “mãn nguyệt”
Tự quân chi xuất hỹ
Chàng ra đi từ ngày… Thiếp quên ngồi khung cửi Nhớ chàng như trăng đầy Mờ dần theo mỗi tối. Nguyễn Lãm Thắng (dịch)
HẠ TRI CHƯƠNG
Hồi hương ngẫu thư (kỳ nhất)
賀知章 回鄉偶書
少小離家老大回, 鄉音無改鬢毛衰; 兒童相見不相識, 笑問客從何處來。
Hồi hương ngẫu thư (kỳ nhất)
Thiếu tiểu ly gia, lão đại hồi Hương âm vô cãi, mấn mao thôi Nhi đồng tương kiến, bất tương thức Tiếu vấn, khách tòng hà xứ lai
Hồi hương ngẫu thư (bài 1)
Đi… còn bé, về… già nua Giọng quê không đổi, tóc thưa bạc màu Trẻ nhìn, không hỏi một câu Còn cười bảo: “Khách nơi nào đến chơi?!”
Hồi hương ngẫu thư (kỳ nhị)
Hạ Tri Chương
回鄉偶書其二 賀知章
離別家鄉歲月多, 近來人事少消磨。 惟有門前鏡湖水, 春風不改舊時波。
Hồi hương ngẫu thư kỳ nhị
Hạ Tri Chương
Ly biệt gia hương tuế nguyệt đa , Cận lai nhân sự thiểu tiêu ma . Duy hữu môn tiền Kính hồ thủy , Xuân phong bất cải cựu thời ba .
Dịch thơ: Bài 2:
Bài dịch 1: Xa cách quê nhà bao tháng năm Gần đây người cũ khuyết đôi phần Chỉ còn hồ Kính in thềm cửa Làn sóng xưa đùa với gió xuân.
Bài dịch 2: Quê nhà cách biệt bao thu Người xưa mòn nửa, bây giờ tìm đâu? Còn chăng hồ Kính mặt chau Gió xuân chẳng đổi được màu sóng xưa. Nguyễn Lãm Thắng (dịch)
VI THỪA KHÁNH Nam hành biệt đệ
Vi Thừa Khánh
南行別弟
韋承慶
澹澹長江水, 悠悠遠客情。 落花相與恨, 到地一無聲。
Nam hành biệt đệ
Vi Thừa Khánh
Đạm đạm Trường Giang thuỷ Du du viễn khách tình Lạc hoa tương dữ hận Đáo địa nhất vô thanh.
Nam hành biệt đệ
Nước biếc Trường giang chảy lặng lờ Người xa, man mác sóng tình xô Rẽ đôi mối hận… hoa sầu rụng Chạm đất âm thầm… không tiếng tơ. Nguyễn Lãm Thắng (dịch) TỪ AN TRINH Văn lân gia lý tranh
聞鄰家理箏 徐安貞
北斗橫天夜欲闌, 愁人倚月思無端。 忽聞畫閣秦箏逸, 知是鄰家趙女彈。 曲成虛憶青蛾斂, 調急遙憐玉指寒。 銀鎖重關聽未闢, 不如眠去夢中看。
Văn lân gia lý tranh
Từ An Trinh
Bắc đẩu hoành thiên dạ dục lan, Sầu nhân ỷ nguyệt tứ vô đoan. Hốt văn họa các Tần tranh dật, Tri thị lân gia Triệu nữ đàn. Khúc thành hư ức thanh nga liễm, Điệu cấp dao lân ngọc chỉ hàn. Ngân thược trùng quan, thính vị tịch, Bất như miên khứ mộng trung khan.
Văn gia lân lý tranh
Bắc đẩu ngang trời, đêm cạn hơn Tựa trăng nghĩ vẩn, dạ xao buồn Chợt nghe gác vẽ đàn Tần vọng Đã biết lầu bên gái Triệu buông Khúc vẹn, tưởng mày chau nét liễu Điệu nhanh, e ngón buốt tê hồn Lắng nghe, khoá bạc sao chưa mở? Thử ngủ! trong mơ gặp mặt không? Nguyễn Lãm Thắng (dịch) | *
TRƯƠNG HÚC Đào hoa khê
張旭
桃花谿
隱隱飛橋隔野煙, 石磯西畔問漁船; 桃花盡日隨流水, 洞在清谿何處邊?
Đào hoa khê
Ẩn ẩn phi kiều cách dã yên, Thạch ky tây bạn vấn ngư thuyền Đào hoa tận nhật tùy lưu thủy Động tại thanh khê hà xứ biên
Đào hoa khê
Cầu treo thấp thoáng khói đồng Bên ghềnh Tây, hỏi ngư ông đâu rồi? Suốt ngày nước chảy hoa trôi Suối trong dấu động ở nơi mé nào? Nguyễn Lãm Thắng (dịch)
TRƯƠNG NHƯỢC HƯ Xuân giang hoa nguyệt dạ
春江花月夜
张若虚
春江潮水连海平,海上明月共潮生。 滟滟随波千万里,何处春江无月明。 江流宛转绕芳甸,月照花林皆似霰。 空里流霜不觉飞,汀上白沙看不见。 江天一色无纤尘,皎皎空中孤月轮。 江畔何人初见月,江月何年初照人。 人生代代无穷已,江月年年只相似。 不知江月待何人,但见长江送流水。 白云一片去悠悠,青枫浦上不胜愁。 谁家今夜扁舟子,何处相思明月楼。 可怜楼上月裴回,应照离人妆镜台。 玉户帘中卷不去,捣衣砧上拂还来。 此时相望不相闻,愿逐月华流照君。 鸿雁长飞光不度,鱼龙潜跃水成文。 昨夜闲潭梦落花,可怜春半不还家。 江水流春去欲尽,江潭落月复西斜。 斜月沉沉藏海雾,碣石潇湘无限路。 不知乘月几人归,落月摇情满江树。
Xuân giang hoa nguyệt dạ
Xuân giang triều thủy liên hải bình, Hải thượng minh nguyệt cộng triều sinh. Diễm diễm tùy ba thiên vạn lý, Hà xứ xuân giang vô nguyệt minh.
Giang lưu uyển chuyển nhiễu phương điện, Nguyệt chiếu hoa lâm giai như tiển. Không lý lưu sương bất giác phi, Đính thượng bạch sa khan bất kiến.
Giang thiên nhất sắc vô tiêm trần, Hạo hạo không trung cô nguyệt luân. Giang bạn hà nhân sơ kiến nguyệt ? Giang nguyệt hà niên sơ chiếu nhân ?
Nhân sinh đại đại vô cùng dĩ, Giang nguyệt niên niên vọng tương tự. Bất tri giang nguyệt chiếu hà nhân, Đãn kiến trường giang tống lưu thủy.
Bạch vân nhất phiến khứ du du, Thanh phong giang thượng bất thăng sầu. Thùy gia kim dạ biên chu tử, Hà xứ tương tư minh nguyệt lâu ?
Khả liên lâu thượng nguyệt bồi hồi, Ưng chiếu ly nhân trang kính đài. Ngọc hộ liêm trung quyển bất khứ, Đảo y châm thượng phất hoàn lai.
Thử thời tương vọng bất tương văn, Nguyệt trục nguyệt hoa lưu chiếu quân. Hồng nhạn trường phi quang bất độ, Ngư long tiềm dược thủy thành văn.
Tạc dạ nhàn đàm mộng lạc hoa, Khả liên xuân bán bất hoàn gia. Giang thủy lưu xuân khứ dục tận, Giang đàm lạc nguyệt phục tây tà.
Tà nguyệt trầm trầm tàng hải vụ, Kiệt Thạch, Tiêu Tương vô hạn lộ. Bất tri thừa nguyệt kỷ nhân qui, Lạc nguyệt dao tình mãn giang thụ.
Xuân giang hoa nguyệt dạ
Triều lên ngang mặt sông xuân Biển đêm, trăng cũng sáng ngần sóng xô Sóng xô lấp loáng xa mờ Trăng xuân ăm ắp ngập bờ sông xanh Cồn hương sông lượn vòng quanh Rừng hoa trăng chiếu, hoa thành tuyết phơi. Từng không sương tựa không trôi Bãi sông trắng cát, ai người nhận ra? Trời, sông trong suốt chan hòa Trên không trăng sáng, chỉ là trăng thôi. Ai nhìn trăng trước, trăng ơi! Hỏi trăng rọi xuống kiếp người khi nao? Người sinh mãi, đến khi nào? Trăng năm năm, vẫn dạt dào trên sông Trăng soi ai? Khó hiểu lòng Sông dài chỉ thấy đưa dòng nước xuôi Vẩn vơ mây trắng vờn trôi Cây phong xanh, lá buồn rơi bên bờ Đêm nay ai dạo thuyền thơ Lầu trăng ai đó tương tư lặng ngồi Thương vầng trăng cũng bồi hồi Chiếu đài gương, rọi cảnh người biệt ly Rèm châu cuốn, trăng nào đi Lau đá đập áo, lầm lì trăng soi Chung vầng trăng, lẻ chỗ ngồi Nguyện theo trăng, chiếu sáng người viễn phương Chở trăng, hồng nhạn khó tường Cá rồng lặn nhảy chỉ vương sóng ngầm Đêm qua mơ thấy hoa tàn Thương người đi, nửa mùa xuân chưa về Cũng đành nước cuốn xuân đi Trăng tàn trên bãi, trăng về mái Tây Trăng chìm mặt bể sương đầy Dòng Tương, đỉnh Kiệt dạn dày thẳm không Theo trăng mấy kẻ về cùng? Trăng tàn, sóng gợn đến rùng mình cây. Nguyễn Lãm Thắng (dịch)
Tương Tiến Tửu
Lý Bạch
將進酒
李白
君不見黃河之水天上來, 奔流到海不復回。 又不見高堂明鏡悲白髮, 朝如青絲暮成雪。 人生得意須盡歡, 莫使金樽空對月。 天生我材必有用, 千金散盡還復來。 烹羊宰牛且為樂, 會須一飲三百杯。 岑夫子,丹丘生, 將進酒,君莫停。 與君歌一曲, 請君為我側耳聽。 鐘鼓饌玉不足貴, 但願長醉不願醒。 古來聖賢皆寂寞, 惟有飲者留其名。 陳王昔時宴平樂, 斗酒十千恣歡謔。 主人何為言少錢, 徑須沽取對君酌。 五花馬,千金裘, 呼兒將出換美酒, 與爾同銷萬古愁。
Tương Tiến Tửu
Lý Bạch
Quân bất kiến Hoàng hà chi thủy thiên thượng lai, Bôn lưu đáo hải bất phục hồi! Hựu bất kiến cao đường minh kính bi bạch phát, Triêu như thanh ti mộ thành tuyết. Nhân sinh đắc ý tu tận hoan, Mạc sử kim tôn không đối nguyệt! Thiên sinh ngã tài tất hữu dụng, Thiên kim tán tận hoàn phục lai. Phanh dương tể ngưu thả vi lạc, Hội tu nhất ẩm tam bách bôi. Sầm phu tử, Đan Khâu sinh. Tương tiến tửu, Quân mạc đình! Dữ quân ca nhất khúc, Thỉnh quân vị ngã trắc nhĩ thính. Chung cổ soạn ngọc bát túc quý, Đãn nguyện trường túy bất nguyện tỉnh! Cổ lai thánh hiền giai tịch mịch, Duy hữu ẩm giả lưu kỳ danh. Trần Vương tích thời yến Bình Lạc, Đẩu tửu thập thiên tứ hoan hước. Chủ nhân hà vi ngôn thiểu tiền, Kính tu cô thủ đối quân chước. Ngũ hoa mã, Thiên kim cừu, Hô nhi tương xuất hoán mỹ tửu, Dữ nhĩ đồng tiêu vạn cổ sầu.
Dịch thơ: Bạn chẳng thấy nước Hoàng hà từ trên trời tuôn xuống Cuồn cuộn trôi nhanh ra bể chẳng quay về? Lại chẳng thấy gương sáng lầu cao rọi mối sầu tóc trắng? Buổi sớm xanh tơ, chiều như tuyết ơ hờ!
Khi đắc ý, người ơi! nên vui trọn Đừng để chén vàng trơ cạn dưới trăng mơ Trời sinh ra ta, tất không là vô dụng Tiêu hết nghìn vàng, rồi lại có, không lo
Hãy vui lên! Dê đã mổ và trâu bò đã giết Uống một mạch thôi, ba trăm chén mới hào! Bác Sầm hỡi! anh Đan ơi! có biết Rượu sắp dâng rồi! có dừng lại được đâu!
Đã vì bạn, ngại ngần chi? Ta cứ hát Hãy vì ta, bạn hãy lắng tai nghe Cỗ tiệc lớn, trống chuông rền, đâu đáng quý Ta muốn say tuý luý, tỉnh mà chi?
Các bậc Thánh hiền xưa đều vắng ngắt Duy chỉ còn kẻ uống rượu mới lưu danh Thời trước Trần Vương yến cung Bình Lạc Một đấu rượu vạn đồng, mặc sức uống thâu canh
Này chủ nhân ơi! Tiền làm sao thiếu được? Mua rượu mau! Để nâng chén cùng nhau Ngựa ngũ sắc, áo lông cừu quý giá Đổi rượu đi con! ta phá vạn cổ sầu! Nguyễn Lãm Thắng (dịch) CAO THÍCH Yên Ca hành
高適
燕歌行並序
開元二十六年,客有從御史大夫張公出塞而還者, 作燕歌行以示適,感征戍之事,因而和焉。
漢家煙塵在東北, 漢將辭家破殘賊。 男兒本自重橫行, 天子非常賜顏色。 摐金伐鼓下榆關, 旌旆逶迤碣石間。 校尉羽書飛瀚海, 單于獵火照狼山。 山川蕭條極邊土, 胡騎憑陵雜風雨。 戰士軍前半死生, 美人帳下猶歌舞。 大漠窮秋塞草衰, 孤城落日鬥兵稀。 身當恩遇常輕敵, 力盡關山未解圍。 鐵衣遠戍辛勤久, 玉筋應啼別離後。 少婦城南欲斷腸, 征人薊北空回首。 邊庭飄颻那可度? 絕域蒼茫更何有? 殺氣三時作陣雲, 寒聲一夜傳刁斗。 相看白刃血紛紛, 死節從來豈顧勳。 君不見沙場征戰苦? 至今猶憶李將軍。
Yên ca hành
Hán gia yên trần tại đông bắc, Hán tướng từ gia phá tàn tặc. Nam nhi bản tự trọng hoành hành, Thiên tử phi thường tứ nhan sắc. Song kim phạt cổ hạ Du Quan, Tinh kỳ uy di Kiệt Thạch gian. Hiệu úy vũ thư phi hãn hải, Thiền Vu lạp hỏa chiếu Lang Sơn. Sơn xuyên tiêu điều cực biên thổ, Hồ kỵ bằng lăng tạp phong vũ. Chiến sĩ quân tiền bán tử sinh, Mỹ nhân trướng hạ do ca vũ. Đại mạc cùng thu tái thảo suy, Cô thành lạc nhật đấu binh hy. Thân đương ân ngộ thường khinh địch, Lực tận quan sơn vị giải vi. Thiết y viễn thú tân cần cửu, Ngọc trợ ưng đề biệt ly hậu. Thiếu phụ thành nam dục đoạn trường, Chinh nhân Kế Bắc không hồi thủ. Biên đình phiêu dao na khả độ, Tuyệt vực thương mang cánh hà hữu. Sát khí tam thời tác trận vân, Hàn thanh nhất dạ truyền điêu đẩu. Tương khan bạch nhận tuyết phân phân, Tử tiết tòng lai khởi cố huân ! Quân bất kiến sa trường chinh chiến khổ, Chí kim do ức Lý tướng quân.
Dịch thơ: Yên ca hành
Đông Bắc Hán nổi cơn lửa loạn Tướng xa nhà dẹp nạn đao binh Nam nhi trọng chí tung hoành Cho thiên tử cũng nể danh phi thường
Khua chiêng trống, Du Quan xuống dẹp Cờ lượn quanh núi Kiệt trập trùng Lệnh quân giữa trận bão bùng Lửa Thiền Vu, sáng một vùng núi Lang
Cảnh xơ xác ngập tràn biên trấn Kỵ binh Hồ lướt trận gió mưa Trận tiền sống chết như đùa Mỹ nhân dưới trướng muốt mùa múa ca
Chốn sa mạc thu nhòa chân cỏ Thành trơ vơ, bóng thỏ buồn lây Chịu ơn, khinh lũ giặc choai Sức tàn, chưa giải vòng vây quan hà
Khoác áo sắt, đường xa bao khổ Sau biệt ly, lệ rỏ tuôn dòng Thành Nam thiếu phụ mong chồng Chinh phu đất Kế mỏi trông tin nhà
Chốn biên đình càng xa hiu hắt Cõi mênh mông, se sắt buồn thay! Ba mùa tử khí thành mây Lạnh lùng tiếng mỏ đêm dài cầm canh
Nhìn lưỡi kiếm bên thành phủ tuyết Xưa nay ai, tử tiết ghi công? Sa trường gian khổ, thấy không? Đến nay còn nhớ anh hùng Lý xưa.
Nguyễn Lãm Thắng (dịch)
|