XUÂN - Xuân du phương thảo địa (*)
mùa Xuân nhớ lối cỏ xanh thơm
Nhớ hội làng quê nhớ mái rơm
Chờ mẹ trở về cho miếng bánh
Trong gian nhà cũ xới lưng cơm
Bờ ao rau muống cùng ông Nguyễn
Cái quạt mo xưa, với chú Bờm
Ngày trước mỗi Xuân và mỗi Tết
Ðầu làng cuối xóm trống tom tom
205
HẠ - Hạ thưởng lục hà trì (*)
mùa Hạ ao sen tắm mát chơi
Cánh diều chớp chới giũa lưng trời
Mới chiều chiều xuống vài tia nắng
Chưa tối bay về mấy cánh dơi
Quê cũ những ai ngồi nhớ bạn
Ðường xa nhiều kẻ nghĩ thương đời
Ðêm khuya tiếng võng buồn hiu hắt
Giọng mẹ ru con thoáng rã rời
206
THU - Thu ẩm hoàng hoa tửu (*)
nhấp chén Hoàng Hoa nhớ cố hương
Từ xa đất nước mấy tang thương
Ðành hay lúc ấy vài cơn mộng
Ðâu biết giờ đây vạn dặm đường
Người Việt bâng khuâng mơ đất Việt
Tây phương não nuột nhớ Ðông phương
Mùa Thu, ôi ! Những mùa Thu trước
Ðà Lạt lòng mình những vấn vương
207
ÐÔNG - Đông ngâm bạch tuyết thi. (*)
những vấn vương ngâm bạch tuyết thi
Gió đêm lạnh lẽo đóa hoa quỳ
Thanh nhàn thuở trước không tìm kiếm
Rỗi rãi giờ đây có mấy khi
Mái đẩy, mái nhì xưa Thuận Hóa *
Ðêm mưa , ngày nắng đất Ca Li
Ngày xưa trong nước mơ đi Mỹ
Ở Mỹ giờ sao lại nhớ quê ?
* Hò mái đẩy, mái nhì : điệu hò của
người chèo đò ở miền Trung
Huệ Thu
(*) Cổ Nhân có bài Tứ Thời thi
(Bài thơ bốn mùa):
Tứ Thời Thi
春夏秋冬
春遊芳草地,
夏賞綠荷池,
秋飲黃菊酒,
冬吟白雪詩.
Dịch âm:
Xuân du phương thảo địa
Hạ thưởng lục hà trì
Thu ẩm hoàng hoa tửu
Đông ngâm bạch tuyết thi.
Dịch nghĩa:
Mùa xuân đi thăm nơi cỏ mọc
Mùa hạ thưởng thức ao sen xanh
Mùa thu uống rượu cúc vàng
Mùa đông ngâm thơ tuyết trắng