Giới thiệu về tản văn của Tô Đông Pha
Phóng Hạc Ðình Kí
***** Hi Ninh thập niên thu, Bành Thành đại thủy, Vân Long sơn nhân Trương quân chi thảo đường, thủy cập kì bán phi. Minh niên xuân, thủy lạc, thiên ư cố cư chi đông, đông sơn chi lộc. Thăng cao nhi vọng, đắc dị cảnh yên, tác đình ư kì thượng. Bành Thành chi sơn, cương lĩnh tứ hợp, ẩn nhiên như đại hoàn; độc khuyết kì tây nhất diện, nhi sơn nhân chi đình, thích đương kì khuyết.
***** Xuân hạ chi giao, thảo mộc tế thiên; thu đông tuyết nguyệt, thiên lí nhất sắc. Phong vũ hối minh chi gian, phủ ngưỡng bách biến. Sơn nhân hữu nhị hạc, thậm tuần nhi thiện phi. Ðán tắc vọng tây sơn chi khuyết nhi phóng yên, túng kì sở như, hoặc lập ư pha điền, hoặc tường ư vân biểu, mộ tắc tố đông sơn nhi qui, cố danh chi viết phóng hạc đình.
***** Quận thú Tô Thức, thời tòng tân tá liêu lại, vãng kiến sơn nhân, ẩm tửu ư tư đình nhi lạc chi. Bả sơn nhân nhi cáo chi viết: "Tử tri ẩn cư chi lạc hồ? Tuy nam diện chi quân, vị khả dữ dịch dã. Dịch viết: "Minh hạc tại âm, kì tử họa chi?" Thi viết: "Hạc minh ư cửu cao, thanh văn ư thiên". Cái kì vi vật, thanh viễn nhàn phóng, siêu nhiên ư trần ai chi ngoại, cố Dịch, Thi nhân dĩ tỉ hiền nhân quân tử, ẩn đức chi sĩ. Hiệp nhi ngoạn chi, nghi nhược hữu vong kì quốc. Chu Công tác Tửu cáo, Vệ Vũ Công tác Ức giới dĩ vi hoang hoặc bại loạn vô nhược tửu giả; nhi Lưu Linh, Nguyễn Tịch chi đồ, dĩ thử toàn kì chân nhi danh hậu thế. Ta phù! Nam diện chi quân, tuy thanh viễn nhàn phóng như hạc giả, do bất đắc hiếu, hiếu chi tắc vong kì quá; nhi sơn lâm độn thế chi sĩ, tuy hoang hoặc bại loạn như tửu giả, do bất năng vi hại, nhi huống ư hạc hồ? Do thử quan chi, kì vi lạc vị khả dĩ đồng nhật nhi ngữ dã".
***** Sơn nhân hân nhiên vi tiếu viết: "Hữu thị tai?" Nãi tác Phóng hạc, chiêu hạc chi ca viết:
"Hạc phi khứ hề, tây sơn chi khuyết. Cao tường nhi hạ lãm hề, trạch sở thích. Phiêu nhiên lẫm dực, uyển ương tập hề; hốt hà sở kiến, kiểu nhiên phi phục kích. Ðộc chung nhật ư giản cốc chi gian hề, trác tương đài nhi lí bạch thạch."
"Hạc qui lai hề, đông sơn chi âm. Kì hạ hữu nhân hề, hoàng quán thảo lí, cát y nhi cổ cầm. Cung canh nhi thực hề, kì như dĩ bão nhữ. Qui lai qui lai hề, tây sơn bất khả dĩ cửu lưu".
Dịch Nghĩa:
Bài Kí: Ðình Phóng Hạc
*****
***** Niên hiệu Hi Ninh năm thứ mười (1), mùa thu ở Bành Thành (2) nước lớn, dâng lên tới nửa cánh cửa căn nhà lá của ông Trương, biệt hiệu là Vân Long sơn nhân (3). Mùa xuân năm sau, nước rút, ông dời nhà phía đông nhà cũ, tại chân núi phía đông. Lên cao mà nhìn, thấy có cảnh lạ, bèn xây đình ở trên (4). Núi Bành Thành, sườn đỉnh bốn bề bao lại, kín đáo như cái vòng lớn, chỉ khuyết một mặt phía tây, mà cái đình của sơn nhân lấp ngay chỗ khuyết đó.
***** Cuối xuân sang hạ, cỏ cây xanh tận chân trời, mà tới thu đông, ngàn dặm tuyết trăng một sắc. Trong lúc gió mưa, hoặc tối hoặc sáng cúi ngửa nhìn xa, biến hóa trăm vẻ.
***** Sơn nhân có hai con hạc rất thuần mà bay giỏi. Sáng thì hướng chỗ khuyết của núi phía tây mà thả hạc, hạc tung bay tự do, hoặc đậu nơi chân núi, hoặc lượn trên mây cao; tối thì hướng về phía đông mà về. Vì vậy gọi đình đó là đình Phóng hạc.
***** Thái thú là Tô Thức thường cùng với khách khứa liêu thuộc và các người giúp việc, lại thăm sơn nhân, uống rượu ở đình mà vui với cảnh. Chuốc rượu sơn nhân mà bảo: "Ông biết cái vui ẩn cư không? Tuy vua chúa trên ngôi (5) cũng không đổi được cái vui đó. Kinh Dịch viết: 'Hạc kêu trong sân (6), hạc con họa theo.' Kinh Thi nói: 'Hạc kêu ở đầm sâu, tiếng vọng tới trời cao'. Loài đó thanh cao nhành phóng, siêu nhiên thoát trần, cho nên Kinh Dịch vá Kinh Thi đều ví nó với bậc hiền nhân quân tử và kẻ sĩ ẩn dật. Ðùa cợt (8) ngắm nó thì có lẽ hữu ít mà vô hại; vậy mà Vệ Ý Công thích hạc đến mất nước (9). Ông Chu Công viết thiên Tửu Cáo (10), ông Vệ Vũ Công viết thiên Ức giới (11), cho rằng làm hoang toàng, mê hoặc, bại loạn thì không gì bằng rượu; vậy bọn Lưu Linh, Nguyễn Tịch lại nhờ rượu bảo toán thiên chân, lưu danh hậu thế (12). Than ôi! Vua chúa trên ngôi, thì dù thanh cao nhàn phóng như hạc kia, cũng không được thích vì thích nó thì mất nước; mà bọn ẩn sĩ ở sơn lâm, thì dù hoang toàng, mê hoặc, bại loạn như rượu kia cũng không làm hại mình được, huống chi là hạc. Do đó mà xét thì vui cũng có ba bảy đường, không nhất loại coi như nhau được".
Sơn nhân vui vẻ cười rằng: "Vậy ư?" Rồi làm một bài "Thả hạc" và "Phóng hạc" mà ca rằng:
"Hạc bay đi (hề), tới chỗ khuyết ở núi tây,
Lượn trên mà nhìn xuống (hề) lựa chỗ thích ý.
Vội khép cánh, như muốn đậu (hề)
Bỗng thấy gì, lại đập cánh bay cao.
Suốt ngày một mình ở chốn hang, ngòi (hề),
Mổ riêu xanh mà giẫm lên đá trắng."
"Hạc về đi (hề) ở phía bắc núi đông,
Ở dưới có người (hề), mũ vàng, dép cỏ, bận áo mỏng mà gảy đờn
Cầy lấy ruộng mà ăn (hề) có dư thì nuôi hạc,
Về đi, về đi (hề), núi tây chẳng nên ở lâu."
Dịch thuật Nguyễn Hiến Lê
Chú thích:
(1) Hi Ninh là niên hiệu của Tống Thần Tôn.
(2) Bành Thành nay ở tỉnh Giang Tô, huyện Ðồng Sơn.
(3) Núi Vân Long ở phía nam huyện Ðồng Sơn. Trương Thiên Kí ẩn cư ở đó.
(4) Ðình - là ngôi nhà nhỏ để nghỉ ngơi, hóng mát, hợp bạn.
(5) Nguyên văn là nam diện; quay mặt về phía Nam. Các thiên tử hồi xưa ở Trung Hoa, ngồi trên ngôi luôn quay mặt về phương Nam.
(6) Nghĩa là chỗ u tịch.
(7) Ý nói là trong chỗ tịch mịch mà tiếng hạc vọng lên cao như vậy.
(8) Ý nói coi như một món tiêu khiển, chứ không ham mê.
(9) Vệ Ý Công vì mê hạc mà không lo việc nước, bị rợ Ðịch đánh và cướp nước.
(10) Tửu Cáo là một thiên của Kinh Thư, trong đó Chu Công thay lời Vũ Vương răn Khang Thúc về việc uống rượu, đại ý nói rượu chỉ để dùng vào việc tế tự lớn, đừng uống tới say mà hư nết.
(11) Tức bài "Ức ức uy nghi" trong thiên Ðại Nhã của Kinh Thi. Vệ Vũ Công năm 95 tuổi làm bài đó để ran mình về việc uống rượu.
(12) Lưu Linh vá Nguyễn Tịch đều là người đời Tấn, ở trong nhóm Trúc lâm thất hiền. Họ chán cảnh loạn lạc đương thời, theo Lão, Trang, sống rất phóng túng, say sưa tối ngày.
Lưu Linh có bài Tửu đức tụng; còn Nguyễn Tịch thì bảo người quân tử trong thiên hạ không khác gì con rận ở trong quần. Văn của họ lãng mạn, theo chủ trương duy mỹ.