|
Tùy bút - Bút kýNghĩa tử là nghĩa tận: Nghĩa trang Quân đội Biên Hòa Webmaster * đăng lúc 12:18:00 PM, Jan 05, 2024 * Số lần xem: 12394
#1 |
#2 |
* đăng lúc 08:20:59 AM, Aug 15, 2016 * Số lần xem: 9492
Nghĩa tử là nghĩa tận: Nghĩa trang Quân đội Biên Hòa
Bức tượng Thương Tiếc,
Nghĩa trang Quân đội Biên Hòa
” Thế giới đã có không ít những bài học về tinh thần hòa giải dân tộc qua những giai đoạn lịch sử khác nhau. Hoa Kỳ đã trải qua thời nội chiến phân tranh khốc liệt giữa hai miền Nam-Bắc, kéo dài từ năm 1861 đến năm 1863.
Khi cuộc nội chiến kết thúc, tử sĩ của cả hai miền đều được an nghỉ bên nhau tại Nghĩa trang Quốc gia Arlington ở thủ đô Washington DC. Mỗi năm có gần 4 triệu người Mỹ đến viếng Arlington với lòng thành kính biết ơn những người đã nằm xuống cho đất nước đứng lên. Họ hoàn toàn không phân biệt liệt sĩ là người của quân đội miền Nam hay miền Bắc. “
***
Sài Gòn xưa có xa lộ Biên Hòa là con đường huyết mạch nối liền Sài Gòn với Biên Hoà. Đây là xa lộ đầu tiên tại miền Nam do Hoa Kỳ xây dựng năm 1959 và khánh thành năm 1961. Hãng thầu phụ trách xây dựng xa lộ là RMK-BRJ của Mỹ, họ áp dụng công nghệ tân tiến của thời đó là đổ bê-tông toàn bộ con đường.
Xa lộ Biên Hòa dài 31km, rộng 21m, bắt đầu từ cầu Phan Thanh Giản (nay là cầu Điện Biên Phủ) và kết thúc tại ngã tư Tam Hiệp, Biên Hoà. Khi người Mỹ xây dựng, họ cũng tính đến trường hợp khẩn cấp, xa lộ có thể sử dụng làm phi đạo dã chiến cho các loại phi cơ quân sự. Tuy nhiên, từ năm 1971 xa lộ được xây vách ngăn giữa tim đường phân đôi xa lộ thành 2 chiều riêng biệt.
Xa lộ Biên Hòa
(Tổng thống Ngô Đình Diệm khánh thành ngày 28/4/1961)
Tuy nhiên, chủ đề của bài viết này không nói về xa lộ Biên Hòa mà là Nghĩa trang Quân đội Biên Hòa nằm phía trái dọc theo xa lộ nếu đi từ Sài Gòn. Ngày nay, nếu có dịp viếng nghĩa trang này, người Sài Gòn không khỏi chạnh lòng trước cảnh điêu tàn, đổ nát của những nấm mồ hoang phế tại đây.
Được thành lập từ năm 1965 với quy hoạch 30.000 mộ phần, Nghĩa trang Quân đội tính đến năm 1975, đã là nơi an nghỉ của khoảng 16.000 tử sĩ. Trong số đó có hơn 10.000 quân nhân tử trận trong hai chiến trường đẫm máu nhất: Tết Mậu Thân năm 1968 và Mùa hè đỏ lửa năm 1972.
Dù sao đi nữa, xét về khía cạnh nhân bản, những người sống vẫn còn được an ủi là nghĩa trang chỉ mới đạt một nửa công suất thiết kế. Nếu 30.000 mộ được lấp kín, niềm đau thương sẽ tăng gấp đôi khi cuộc chiến vẫn chưa chấm dứt. Tuy nhiên, xét về mặt chính trị, sự hoang phế của Nghĩa trang Quân đội ngày nay nằm ở trách nhiệm của chính quyền mới. Ông cha ta đã có câu nghĩa tử là nghĩa tận. Dù tử sĩ trước khi nằm xuống có khoác áo quân đội miền Nam hay miền Bắc thì họ vẫn là người Việt.
Năm 1964, nghĩa trang Quân đội ở Gò Vấp trở nên chật hẹp, không gánh vác được hậu quả của chiến tranh khi những người lính tử trận được đưa về ngày một nhiều. Cuộc chiến vẫn tiếp tục leo thang, phần lớn sĩ quan thuộc khu vực thủ đô đều được chôn tại nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi. Ở Mạc Đĩnh Chi, đất cũng bắt đầu khan hiếm và việc chôn cất ngày một tốn kém hơn.
Từ những lý do đó, người ta nghĩ đến một nghĩa trang rộng lớn hơn. Đơn vị Chung sự, chuyên lo hậu sự cho những chiến sĩ đã nằm xuống, cũng có nhu cầu về cơ sở để hoạt động. Kiến nghị được trình lên cấp trên, thông qua hệ thống Cục quân nhu, Tổng tham mưu, Tổng cục Tiếp vận. Các sĩ quan Quân nhu, Công binh, Địa ốc Tổng tham mưu đã phải bay trực thăng trên không phận Thủ Đức, Bình Dương, Biên Hòa, nghiên cứu địa thế thật đẹp dành làm nơi an nghỉ cho các chiến hữu.
Đầu năm 1965, Liên đoàn 30 Công binh Kiến tạo đóng tại Hóc Môn đảm nhận công tác xây dựng và những chiếc xe ủi đất đầu tiên của Tiểu đoàn 54 Công binh bắt đầu hoạt động. Năm 1966, doanh trại của Liên đội Chung sự và khu nhà xác được xây dựng để tiếp nhận những di hài tử sĩ đầu tiên. Công binh tiếp tục làm đường, phân lô, xây Cổng Tam Quan, dựng Đền Liệt Sĩ, đúc các tấm ciment và làm mộ bia.
Nghĩa trang Quân đội được xây dựng theo mô hình của một con ong. Đầu ong hướng về phía xa lộ Biên Hòa với mũi kim là con đường đâm ra xa lộ. Từ Cổng Tam Quan có hai con đường dẫn lên Nghĩa Dũng Đài cao 43m. Đầu ong là đền thờ chiến sĩ, cũng có lúc gọi là Đền Tử Sĩ hay Đền Liệt Sĩ. Phía dưới chân đền là Cổng Tam Quan nối thẳng một đường dài ra xa lộ. Con đường này làm thành cây kim nhọn của con ong và đầu kim là bức tượng Thương Tiếc ngay bên xa lộ.
Không ảnh Nghĩa Trang Quân Đội VNCH tại Biên Hòa, Việt Nam trước năm 1975 (bạn bấm vào ngay giữa tấm không ảnh này để xem chi tiết)
Bức tượng Thương Tiếc là hình ảnh người lính ngồi nghỉ chân trên bệ đá, súng để ngang đùi, nét mặt buồn bã. Tác giả pho tượng đồng đen này là nhà điêu khắc Nguyễn Thanh Thu, ông đã chọn người mẫu là một hạ sĩ quan thuộc binh chủng nhảy dù.
Bức tượng Thương Tiếc là hình ảnh người lính ngồi nghỉ chân trên bệ đá, súng để ngang đùi, nét mặt buồn bã
Người ta kể rằng vào những buổi chiều mờ sương, anh lính rời bệ đá, đi lững thững xuống con suối gần đó để uống nước. Còn có rất nhiều huyền thoại về bức tượng Thương Tiếc. Sau ngày 30/4/1975, tượng Thương Tiếc đã bị phá sập. Người ta nói anh lính đã chui vào lò nấu kim loại tái sinh… và như thế đã được đầu thai sang kiếp khác.
Từ chân Nghĩa dũng đài, lưng ong chia làm hình nan quạt hướng ra 4 phía và tạo thành một lưới nhện. Phần đuôi ong hẹp, phần dưới dài ra như quả trứng. Các ngôi mộ giống nhau chia thành từng khu. Khu quốc gia dành cho các vị lãnh đạo, khu tướng lãnh, khu cấp tá, cấp úy và binh sĩ.
Quân nhu nhận tử sĩ từ mặt trận được đưa về bất kể ngày đêm để chôn cất, trong đó có những người lính tham gia các trận Mậu Thân 68, trận Mùa Hè 72, trận Hạ Lào, trận Cambodia. Tử sĩ của các đơn vị tổng trừ bị đem về từ 4 quân khu bên cạnh các tử sĩ thuộc quân khu thủ đô và các tiểu khu lân cận. Tử sĩ của các quân chủng, nữ quân nhân, thiếu sinh quân, tất cả đều nằm trong lòng đất Biên Hòa.
Tử sĩ chôn từ trung tâm Nghĩa Dũng Đài lần lượt tỏa ra các khu bên ngoài. Đã có trên 10 tướng lãnh nằm tại nghĩa trang Biên Hòa trong đó có cả các vị đại tá được vinh thăng sau khi tử trận. Người có cấp bậc cao cấp nhất được chôn tại Nghĩa trang Quân đội Biên Hòa là cố Đại Tướng Đỗ Cao Trí. Hiện nay ngôi mộ này đã được gia đình cải táng nhưng tại vị trí cũ vẫn còn dấu tích.
Trên đường vào nghĩa trang, đi theo con đường chánh xuyên tâm, lên dốc cao, phải qua Cổng Tam Quan, một công trình xây cất giản dị nhưng bề thế và chân phương. Giữa cảnh hoang tàn rêu phong hiện nay, Cổng Tam Quan vẫn giữ được đường nét vững vàng và gần như còn nguyên vẹn dù cỏ mọc, rêu phong.
Qua Cổng Tam Quan là con đường dẫn đến ngôi Đền Tử Sĩ trên một ngọn đồi nhỏ có 4 lối dẫn lên từ bốn phía. Đây là nơi để linh cữu trước khi chôn cất. Đây cũng là nơi Tổng thống, Thủ tướng hay các giới chức cao cấp trong chính quyền chủ tọa các buổi lễ chiêu hồn tử sĩ.
Tháng 3/1975, Thủ tướng Trần Thiện Khiêm lên thăm nghĩa trang và làm lễ đặt vòng hoa. Không ai có thể nghĩ đây là lần viếng sau cùng của một viên chức cao cấp sau biến cố tháng 4.
Nghĩa trang có các toán quân danh dự canh gác theo lễ nghi quân cách tại Vành Khăn Tang của Nghĩa Dũng Đài. Quân nhân từ các quân binh chủng mặc sắc phục được điều động về theo đơn xin khi họ có đủ điều kiện. Với vóc dáng trẻ trung, khỏe mạnh, cao lớn, đoàn quân này được huấn luyện để canh gác và biểu diễn các thao tác nghi lễ như các đoàn quân danh dự tại nghĩa trang Arlington, Hoa Kỳ.
Sau Đền Tử Sĩ, phải đi một đoạn rất dài mới đến đỉnh một dải đất cao, chính giữa trung tâm là Nghĩa Dũng Đài. Đây là công trình quan trọng nhất mà Công binh Việt Nam đã thực hiện từ tháng 11/1967.
Trên nền đất phẳng, Công binh đổ 10,000m3 đất làm thành một ngọn đồi nhân tạo trong gần hai tháng. Trên ngọn đồi nhỏ này, Công binh xây bệ tròn, chính giữa là ngọn kiếm hướng mũi lên trời. Cây kiếm có thân bốn cánh hình chữ thập cao 43m. Chân của chữ thập đường kính 6,5m và trên mũi nhọn là 3,5m, có bậc thang để leo lên đỉnh và đứng trên này sẽ nhìn thấy thành phố Sài Gòn.
Nếu không có biến cố năm 1975, Nghĩa trang Quân đội khi hoàn chỉnh sẽ là Nghĩa trang Quốc gia. Đây sẽ là nơi an nghỉ của không riêng gì tướng lãnh, sĩ quan và binh sĩ mà còn là nơi chôn cất các thành viên chính phủ thuộc các ngành hành pháp, lập pháp và tư pháp.
Công trình xây dựng nghĩa trang do điêu khắc gia Lê Văn Mậu phụ trách, được dự kiến bước vào giai đoạn 2, kéo dài 6 năm, với ngân khoảng 100 triệu, tiền VNCH năm 1973. Bức tượng Thương tiếc,Cổng Tam Quan và Đền Tử Sĩ đã hoàn tất trước năm 1970. Nghĩa Dũng Đài với ngọn tháp cao cũng đã làm xong, Vành Khăn Tang vĩ đại chung quanh đang gần đến giai đoạn khánh thành vào ngày Quân Lực 19/6/1975 thì biến cố tháng 4/1975 ập đến.
Không biết đây là cảnh ‘bình minh’ hay ‘hoàng hôn’ của bức tượng Thương Tiếc ?
Trong thập niên 1990, những người tù cải tạo rời khỏi Việt Nam để đi định cư tại Mỹ. Khi họ trở về thăm quê hương, không ít người, bằng cách này hay cách khác, đã trở lại Nghĩa trang Quân đội để viếng các chiến hữu đã nằm xuống tại quê nhà.
Năm 1994, cơ quan IRCC, Inc. đã cử người về thăm lại Nghĩa Trang Quân Đội và ghi nhận phần lớn mộ phần còn tồn tại nhưng đang trong tình trạng hoang phế. Cuối năm 1997, chương trình tảo mộ hàng năm được bắt đầu thực hiện dưới hình thức thân hữu gia đình và làm từng toán nhỏ để tránh sự dòm ngó của chính quyền. Ngoài ra, anh em thương phế binh Sài Gòn cũng được hỗ trợ tiền bạc từ bên ngoài để âm thầm chăm lo cho những ngôi mộ vô chủ.
Thế giới đã có không ít những bài học về tinh thần hòa giải dân tộc qua những giai đoạn lịch sử khác nhau. Hoa Kỳ đã trải qua thời nội chiến phân tranh khốc liệt giữa hai miền Nam-Bắc, kéo dài từ năm 1861 đến năm 1863.
Khi cuộc nội chiến kết thúc, tử sĩ của cả hai miền đều được an nghỉ bên nhau tại Nghĩa trang Quốc gia Arlington ở thủ đô Washington DC. Mỗi năm có gần 4 triệu người Mỹ đến viếng Arlington với lòng thành kính biết ơn những người đã nằm xuống cho đất nước đứng lên. Họ hoàn toàn không phân biệt liệt sĩ là người của quân đội miền Nam hay miền Bắc.
Bên mộ Tổng thống Kennedy, Nghĩa trang Arlington
(Hình tác giả chụp năm 1971).
Năm 1863, Tổng thống Mỹ Abraham Lincohn đã khánh thành nghĩa trang Quốc gia với lý do thật giản dị, “tất cả những người chết đều là đồng bào”. Ông Lincoln tuyên bố trong diễn văn khánh thành nghĩa trang ngày 19/9/1863: “Tại đây chúng ta đoan quyết rằng cái chết không bao giờ là vô ích – rằng, dân tộc này, nhờ ơn Chúa, sẽ có sự hồi sinh mới của tự do – rằng một Chính phủ của nhân dân, do nhân dân và vì dân sẽ không thể bị phá hủy trên trái đất này”.
Cuộc nội chiến kết thúc, 20 vạn tù binh miền Nam được thả về nhà mà không cần cải tạo và cũng không có lễ ăn mừng chiến thắng. Lý do, một lần nữa cũng dễ hiểu, “những người bại trận cũng là đồng bào”.
Lớp hậu duệ của những người Đức đã bỏ mình trong những trận mưa pháo của hạm đội Hoa Kỳ và Anh Quốc cùng con cháu những chiến binh Anh-Pháp-Mỹ đã gục ngã trước họng súng đại liên của Đức quốc xã trong ngày đổ bộ lên bãi biển Normandy (6/6/1944) hồi Đệ nhị thế chiến… ngày nay đều cùng quay trở về thăm mộ bia của cha ông đến từ cả hai chiến tuyến.
Tại Trung Hoa, Nghĩa trang Hoàng Hoa Cương của quân đội Tưởng Giới Thạch – trong đó có cả mộ phần của liệt sĩ chống Pháp Phạm Hồng Thái đến từ Việt Nam – vẫn được chính phủ Hoa Lục trùng tu và chăm sóc cẩn thận. Ngày nay nghĩa trang này đã trở thành di tích lịch sử, thu hút một lượng khách du lịch đông đảo. Họ có thể là những người đến tham quan thắng cảnh và cũng có thể là hậu duệ của những tử sĩ đã nằm xuống tại đây.
Mộ Phạm Hồng Thái trong nghĩa trang Hoàng Hoa Cương.
Tại Việt Nam, biết bao gia đình có con em phục vụ dưới hai mầu áo khác nhau nhưng mẹ Việt Nam vẫn không hề phân biệt trong những dịp cúng giỗ. Tình cảm thiêng liêng đó đã có từ trước 1975 và tiếp tục duy trì sau ngày Sài Gòn mất tên. Sao chúng ta không mở lòng như người mẹ bình thường đã và đang làm?
Người mẹ bên nấm mộ mới chôn (1972)
Nghĩa tử là nghĩa tận. Tại sao chúng ta không làm được như những dân tộc khác đã làm? Đối với những người còn sống, chúng ta vẫn có thể phân biệt chính kiến nhưng đối với người đã chết, liệu sự phân biệt đối xử đó có hợp với đạo lý muôn đời của người Việt hay không?
Học sinh trường Quốc Gia Nghĩa Tử tham dự lễ Quốc Khánh 1/11/1969
tại Nghĩa trang Quân đội Biên Hòa.
********************************
SỰ LINH HIỂN TẠI NGHĨA TRANG QUÂN ĐỘI BIÊN HÒA
Câu chuyện mà ca sĩ Diamond Bích Ngọc trình bày sau đây là một sự thật 100 %. Đây là kinh nghiệm cá nhân của chị, đồng thời được sự chứng kiến của rất đông những người cùng đi với chị trong đợt cứu trợ nhân đạo). VW: Câu chuyện của chị liên quan đến những dấu hiệu hiển linh của Nghĩa Trang Quân Đội (ở Biên Hòa) ra sao? DBN: Tôi có dịp đi về Việt Nam làm thiện nguyện. Đây là công việc nhân đạo của riêng cá nhân tôi, không nhân danh bất cứ một tổ chức, hội đoàn nào.
SỰ LINH HIỂN TẠI NGHĨA TRANG QUÂN ĐỘI BIÊN HÒA
Tượng Thương Tiếc trước ngày miền Nam bị cộng sản xâm chiếm
Cổng vào Nghĩa trang Quân đội VNCH sau 30/4/75 trở thành rêu phong, hoang phế
Ca sĩ Diamond Bích Ngọc
Câu chuyện mà ca sĩ Diamond Bích Ngọc trình bày sau đây là một sự thật 100 %. Đây là kinh nghiệm cá nhân của chị, đồng thời được sự chứng kiến của rất đông những người cùng đi với chị trong đợt cứu trợ nhân đạo).
VW: Câu chuyện của chị liên quan đến những dấu hiệu hiển linh của Nghĩa Trang Quân Đội (ở Biên Hòa) ra sao?
DBN: Tôi có dịp đi về Việt Nam làm thiện nguyện. Đây là công việc nhân đạo của riêng cá nhân tôi, không nhân danh bất cứ một tổ chức, hội đoàn nào. Tôi cũng xin nói lại một lần nữa, tôi đã bỏ tiền túi ra để thực hiện các chuyến đi về Việt Nam làm nhân đạo, đến các trại dưỡng lão, trại cùi, trại cô nhi để cho quà, giúp tài chánh … trong phạm vi khả năng của tôi. Khi ngồi trên máy bay, tôi đã định bụng là sẽ ghé vào Nghĩa Trang Quân Đội tại Biên Hòa. Thực ra mà nói, trước năm 1975, tôi còn rất bé, gia đình cũng không có ai đi lính. Nhưng dường như có một động lực nào đó kỳ lạ, thúc giục tôi phải tới thăm Nghĩa Trang Quân Đội.
Về tới Việt Nam, tôi thuê một chiếc xe để di chuyển cho tiện. Như mọi người về Việt Nam đều biết, các tài xế lái xe hiện nay phần lớn đều rất trẻ, chỉ độ hơn 20 tuổi thôi. Do đó, khi tôi hỏi là có biết Nghĩa Trang Quân Đội ở đâu không, các em trẻ đều trả lời là không biết. Cậu tài xế tôi mướn để chở đi từ khách sạn đến các trại cô nhi viện, dưỡng lão v.v. cũng trong tình trạng không biết nơi mà tôi muốn đến là Nghĩa Trang Quân Đội ở đâu. Cậu ta mới nói là thôi để em về hỏi lại người chú cho biết đích xác ở đâu. Sáng hôm sau, cậu ta hớn hở cho biết là biết nơi rồi. Thế là cả phái đoàn lên xe, trực chỉ tới Nghĩa Trang Quân Đội. Khi đi đến Biên Hòa, thực tế mới thấy là muôn vàn khó khăn. Khu vực xa lộ Biên Hòa bị ngăn giữa bởi một “con lươn” chắn ngang (divider), cứ hun hút mà đi. Lúc đó gần 3 giờ chiều, trời mưa lâm râm. Tôi cứ cầu nguyện, thì thầm khấn vái rằng : “Các anh lính linh thiêng ơi, xin chỉ đường cho chúng tôi tới nơi đi, chứ không ai trong xe biết đích xác vị trí của nghĩa trang ở đâu …” Trời ơi, anh biết sao không?
VW: Chuyện gì vậy, có… sao không? Đụng xe hả?
DBN: Tự dưng lúc đó, ngay bên tay trái, có một ngã rẽ vào. Như tôi đã nói, xa lộ ngăn cách bởi “con lươn” đi hoài không có bảng hiệu chỉ dẫn là quẹo vào đâu gì cả. Vậy mà tự nhiên khi xe chúng tôi quẹo vào, đúng là đường vào Nghĩa Trang Quân Đội. Đó là dấu hiệu lạ đầu tiên. Khi xe chúng tôi dừng chân tại một quán nhỏ ngay ngã ba để hỏi thăm đường vào Nghĩa Trang Quân Đội, người chủ quán mới chỉ ra bãi đất trống phía trước quán, cho biết là trước đây, bức tượng “Thương Tiếc” được đặt tại chỗ đó (xem ảnh minh họa). Theo hướng chỉ của người chủ quán, chúng tôi mới thấy cái cổng nằm tít lít phía trong sâu
Mồ mả hoang phế, nhiều cái bị đập phá, đào bới
VW: Khi chị dừng bước trước cổng Nghĩa Trang Quân Đội, nơi các chiến sĩ VNCH đã nằm yên nghỉ tại đó, cảm tưởng của chị ra sao?
DBN: Tôi là người Công Giáo, trong giáo luật có điều luật đặt ra là nên cầu nguyện cho kẻ sống và người chết. Xưa kia, bố tôi làm ở Bộ Nội Vụ, tuy chỉ làm về hành chánh. Nhưng chiến tranh Việt Nam là một sự đau thương chung cho cả một dân tộc, do đó, khi đứng trước cổng nghĩa trang, tôi rất xúc động, ngậm ngùi cho sự hy sinh của những thanh niên trẻ vì lý tưởng. Phải nói là nhờ có sự hy sinh của các chiến sĩ này, chúng ta mới có được đời sống an vui như hiện nay. Trở lại với câu chuyện của chúng ta. Khi tôi đến được cổng nghĩa trang, cũng không biết lối nào đi vào được, vì nhà của dân đã bao xung quanh, không sao đi vào được. Thì lúc đó, phép lạ xảy ra lần thứ hai …
VW: Là sao? Ma hiện ra hả?
DBN: Không phải là ma. Mà là một người thật, bằng xương bằng thịt. Đó là một người đàn ông da cháy nắng, rắn rỏi. Khuôn mặt không có gì đặc biệt. Điểm duy nhất đáng nhớ là ông ta mặc một cái quần lính cũ, đầu đội mũ lính. Mình mặc áo thun 3 lỗ. Ổng đi xe đạp, từ xa, chúng tôi thấy ổng ngoắc ngoắc xe của mình, ra dấu cho biết là đi về hướng đó … Tôi thấy vậy, liền nói cậu tài xế đi theo hướng chỉ của người đàn ông đó. Khi người đàn ông đạp xe đạp đó đi xuyên qua một bờ tường bị đổ, bể, xe chúng tôi cũng theo con đường lớn đi qua bức vách, chúng tôi lúc đó mới nhìn thấy một khu đất rộng mênh mông, với hàng ngàn ngôi mộ của nghĩa trang quân đội (xem minh hoạ (không thấy lên lưới)). Cảnh quan thì mênh mông, nhưng rất um tùm cây. Do đó, chúng tôi phải ngừng xe lại, cả đoàn đi bộ. Người đàn ông vẫn đạp xe đi trước, tay vẫn ngoắc. Lúc đó tôi mới đưa ra một đề nghị là nên dừng lại ở một ngôi mộ nào đó cũng được, đọc kinh tượng trưng chung cho các chiến sĩ bị hy sinh. Vì ngôi mộ nào cũng thế. Tôi vừa nói xong, người đàn ông đó, bỗng dừng lại phía trước. Và vẫn ở một khoảng cách xa xa, ông ta chỉ vào một ngôi mộ và ra dấu cho chúng tôi nên dừng lại ở ngôi mộ này. Chúng tôi không ai bảo ai, đều dừng lại ngôi mộ người đàn ông ra dấu. Ai nấy cũng mệt, nên không còn để tâm để trí gì đến người đàn ông tốt bụng kia. Thế là ổng đi mất tiêu, không thấy đâu nữa.
VW: Ngôi mộ mà phái đoàn dừng lại có gì đặc biệt?
DBN: Khi đi qua các ngôi mộ, tôi có đọc lướt qua những tên người chết, và nhận ra nhiều người chết quá trẻ. Phần lớn là trẻ cỡ 19, 20 mà thôi. Nói về ngôi mộ lính mà người đàn ông chỉ, lúc đó tôi cũng không còn quan tâm ai là ai nữa. Chỉ thấy trong lòng dâng lên một niềm thương cảm vô cùng, khiến tôi không sao ngăn được dòng lệ rơi. Khóc ơi là khóc, không ngăn lại được. Cho đến khi vừa khóc, vừa thắp nhang, đọc kinh cho người nằm dưới ngôi mộ, mà tôi định bụng là cầu nguyện tượng trưng chung cho các chiến sĩ, khi tỉnh ra, nhìn vào bia mộ, ôi chúa mẹ ơi ! Anh biết sao không?
VW: Sao? Hồn ma hiện lên hả?
DBN: Không có ma cỏ gì hết. Mà ngôi mộ tôi cầu xin, là một chiến sĩ vô danh, mà theo hình tôi nhìn ( xem minh hoạ ), người đó chính là nhân vật trong bức tượng “Thương Tiếc” mà thiên hạ vẫn đồn đại là linh thiêng ! Cứ theo cái hình, người chiến sĩ vô danh này có ngày tử và ngày an táng. Tôi biết nhiều về người lính của bức tượng linh thiêng này từ nhà văn Lệ Hằng, hiện ở Úc. Chị đã kể cho tôi nghe nhiều về người lính này. Lúc đó, nhớ lại những chuyện chị kể, tôi nổi hết gai ốc lên. Chợt nghĩ tới người đàn ông mặc đồ lính, nón lính nọ, tôi mới hết cả hồn. Khi đi ra tới đầu đường, ngừng lại ở quán nước, tôi mới kể cho ông bà chủ quán nghe, cũng được họ xác nhận các câu chuyện, đồng thời kể thêm cho tôi những câu chuyện linh thiêng khác mà trong suốt thời gian họ bán quán, anh linh của hồn ma người lính vẫn cứ lảng vảng ở khu vực nghĩa trang để làm một vài việc gì đó, kiểu như giúp đỡ người này tìm mộ người kia hay người khác. Người ta gọi ông lính đó là “ông Đồng Đen”, vì bức tượng được đúc bằng đồng đen.
VW: Những câu chuyện gì nói về ông lính đó?
DBN: Có nhiều, nhiều lắm, đại khái là những trường hợp ông lính giúp, cứu những đứa trẻ khi đi băng qua xa lộ, không bị xe cán vì quá nguy hiểm khi băng qua. Chuyện ông lính đi xin nước uống, và gần đây, ông lính xin những người có khả năng, hay ở ngoại quốc về hãy rộng tay xây dựng, chỉnh trang lại Nghĩa Trang Quân Đội, nơi các người lính nằm yên nghỉ. Càng nghe những câu chuyện như vậy, tôi càng nổi gai ốc.
VW: Sau đó thì sao?
DBN: Sau đó, về lại Mỹ, tôi đã xin các danh sách các người lính hy sinh, để dành tiền bạc gởi về cho những người bên Việt Nam, nhờ họ vào dịp tiết Thanh Minh, xin tảo mộ, đặt vòng hoa, rẫy cỏ, sửa soạn, chỉnh trang lại mộ phần cho một số các ngôi mộ của chiến sĩ vô danh. Vì tôi thấy cỏ mọc um tùm quá, không ai coi sóc, nên có lẽ hương hồn của các anh chiến sĩ không được vui. Tôi chỉ làm trong khả năng nhỏ bé của mình như vậy.
VW: Khi chị đi như vậy, có ai cùng đi, và làm chứng cho những gì chị nói không?
DBN: Cả phái đoàn tôi đi có 5 người, ngoài tôi, tài xế, còn có cậu Tùng, cô Huyền, cậu Tôn … là nhóm thanh niên thiện chí đi theo giúp tôi. Họ đều có cơ sở riêng như tiệm tóc, tiệm vàng … Lúc đó, cả nhóm nghe đều hết cả hồn. Nhất là lúc không tìm thấy người đàn ông dẫn đường nữa. Một điểm lạ nữa là khi đi ra, trời mới đổ mưa, khi cầu nguyện thì nắng lên trông rất lạ. Rồi lúc ra về, trời mưa tầm tã, như trút nước. Lên xe, mấy chị em ngồi nói chuyện với nhau, ai nấy đều sợ hãi với những gì đã xảy ra. Mọi người trong xe đều là người Công Giáo, không tin vào chuyện ma quỉ, dị đoan. Thế mà trước mắt mình, các sự kiện lạ xảy ra làm cho ai nấy đều suy nghĩ. Ở đây cũng cần nói thêm, Nghĩa Trang Quân Đội được hệ thống theo thứ tự từ A tới Z, rộng mênh mông. Nếu không có người chỉ lối, không biết đâu mà tìm mộ này với mộ kia. Chưa kể chúng tôi là những người lạ, chưa tới lần nào. Vậy mà ngôi mộ của người lính vô danh, ngồi làm mẫu cho bức tượng lại được chỉ dẫn và chúng tôi đã tìm thấy.
VW: Mọi người ở Bolsa đều biết chị là một người rất nhạy cảm với thế giới tâm linh, vô hình, trong nhiều trường hợp khác nhau. Riêng việc người lính vô danh VNCH dẫn dắt tại Nghĩa Trang Quân Đội, chị có nghĩ rằng đó là một thông điệp, một lời nhắn gởi nào đó dành cho chị hay không?
DBN: Chuyện này xảy ra vào năm ngoái (2004), lạ ở một chỗ nữa là tuần vừa qua, tôi đọc một bài viết trên Việt Weekly, phần nhạc sĩ Nguyễn Đức Quang nói lên tâm trạng của ông khi ghé thăm nghĩa trang Chiến sĩ trận vong tại Arlington (DC), trong đó ông có đưa ra một nhận định chung, là bên cạnh tượng đài chiến sĩ Việt Mỹ, có lẽ chúng ta cũng cần có một tượng đài dành cho hai người lính VNCH và Bộ đội Bắc Việt cùng đứng với nhau. Cả hai miền đều có các chiến sĩ anh dũng hy sinh cho lý tưởng của mình, mà khi chết, họ vẫn tin rằng họ đã chiến đấu cho một nước Việt Nam hòa bình, ấm no, hạnh phúc. Khi đọc những ý tưởng của nhạc sĩ Nguyễn Đức Quang, tôi vô cùng xúc động, không cầm được nước mắt. Liền sau đó, tôi lục lại những hình ảnh tôi đã chụp tại Nghĩa Trang Quân Đội vào chuyến đi năm ngoái. Khi tôi thực hiện chuyến đi thăm nghĩa trang, tôi không hề ngờ rằng có lúc, lại có người cùng chung quan điểm với tôi, và tôi cho đó là một “mission” cho tôi, khiến tôi lưu giữ hình ảnh này. Nay tôi xin nhờ diễn đàn Việt Weekly đăng tải, để đánh động suy nghĩ của người Việt Nam ở trong cũng như ngoài nước, hãy nghĩ tới anh linh của các chiến sĩ trận vong của cả hai miền. Gia đình Việt Nam nào cũng có sự mất mát, hy sinh vì cuộc chiến, vậy thì bây giờ, sau 30 năm, hãy làm những việc gì cụ thể, để các hương hồn anh linh của hai miền được nguôi ngoai nơi suối vàng.
VW: Cảm ơn chị Bích Ngọc cũng như nhạc sĩ Nguyễn Đức Quang đã mở ra đề tài nhắc nhớ tới công ơn của các chiến sĩ trận vong của cả hai miền Nam và Bắc đã hy sinh cho lý tưởng chung của một nước Việt Nam. Những đau thương mất mát của chiến tranh phải được đóng lại bằng cái chết của họ, để đạt được một mục tiêu duy nhất là sự an vui của chúng ta hiện nay. Trở lại với đời sống ở Mỹ, chị nghĩ sao về chuyến đi, và chị sẽ làm gì trong thời gian sắp tới đối với “mission” về người lính?
DBN: Tôi chỉ xin các độc giả đọc được bài viết này, nếu về Việt Nam, xin ghé vào nghĩa trang quân đội để thắp một nén hương cho người chiến sĩ VNCH của chúng ta. Nếu không về được, cũng xin dâng lời cầu nguyện mỗi tối cho họ. Cá nhân tôi, hàng năm, dù về được Việt Nam hay không, tôi vẫn dành dụm tiền, gởi cho một số người lính còn ở lại Việt Nam, nhờ họ ra nghĩa trang quân đội làm cỏ, đắp lại một số ngôi mộ, thắp nhang … một cách tượng trưng, để tỏ lòng biết ơn người lính. Tôi tin rằng linh hồn họ rất linh thiêng và sẽ phù hộ cho những ai tin vào họ. Có một điểm lạ nữa mà tôi muốn tiết lộ trước khi kết thúc bài nói chuyện này, là : Những người thân của tôi kể lại, sau lần tôi gặp người lính dẫn tới ngôi mộ vô danh như đã kể, không ai tìm ra ngôi mộ vô danh mà tôi đã chụp được ảnh. Đồng thời, theo như người gác mộ cho hay, dường như trong nghĩa trang, chưa bao giờ ai thấy một ngôi mộ nào tương tự như vậy cả!
Mồ mả hoang phế, nhiều cái bị đập phá, đào bới
Phỏng vấn một số nhân vật khác
Thi sĩ Nguyễn Đức An: “Nghĩa tử là nghĩa tận”
VW: Anh nghĩ sao về sự nằm xuống của các chiến sĩ trận vong trong cuộc chiến Việt Nam?
NĐA: Người Việt mình có câu: “Nghĩa tử là nghĩa tận”. Dù có thù oán, không ưa gì nhau trong bất kỳ một tình huống, một lý tưởng nào, nhưng đến khi nằm xuống, tất cả phải bỏ qua hết. Không có một chiến tuyến nào ngăn chia sự nằm xuống của các chiến binh đã hy sinh cho cuộc chiến. Theo tôi nghĩ, vong linh của các chiến sĩ hai miền Nam và Bắc cần được tôn trọng và chăm sóc chu đáo. Không nên phân biệt người chết này khác với người chết khác.
Diễn viên Trần Quang: “Không nên phân biệt chiến sĩ Nam và Bắc, khi họ đã nằm xuống vì cuộc chiến …”
VW: Anh nghĩ sao về việc khôi phục hay hủy bỏ đi một nghĩa trang quân đội, nơi người lính trận đã nằm xuống cho cuộc chiến Việt Nam?
TQ: Mỗi khi tôi đi ngang qua Nghĩa Trang Quân Đội, tôi đều nghiêng mình chào kính cẩn những vong linh chiến sĩ đã nằm xuống vì lý tưởng cuộc chiến. Chiến tranh vừa qua đã đốt đi biết bao nhiêu anh tài của đất nước. Cả hai miền đều có những hy sinh to lớn về nhân lực. Vì lý tưởng mà phải hy sinh, vậy mà, sau 30 năm, mồ không yên, mả không yên, thật là đau đớn vô vàn. Nói đến đây, trong tôi dâng lên một mối thương cảm … Cho tới giờ phút này, tôi nghĩ chúng ta nên nhìn lại vấn đề, để lưu giữ lại những gì thiêng liêng, những biểu tượng chung của cuộc chiến một cách ý nghĩa. Làm sao có thể nói hết đau thương của những gia đình khi biết tin các ngôi mộ của thân nhân mình bị dời đi, bốc đi chỗ khác. Còn các chiến sĩ vô danh lại càng đáng thương cảm hơn nữa. Vậy thì, nếu một cuộc cải táng nào đó xảy ra, để mang lại chung cho các chiến sĩ hai miền một kết hợp, để họ được nằm bên nhau, bỏ qua mọi dị biệt để họ biết rằng hy sinh của họ cho lý tưởng là có lý. Nếu nhà cầm quyền Việt Nam làm được việc này, đây là sự an ủi lớn lao của người sống tạ tội với những gì không đúng, không phải với người đã nằm xuống.
Kịch sĩ Ngọc Phu: “ Cần bù đắp cho các chiến sĩ trận vong về phần mộ”
VW: Đối với người Mỹ, sau cuộc chiến, trong nhiều chương trình tìm kiếm lại những xương cốt của các chiến binh tham chiến tại Việt Nam … Còn Việt Nam, ông nghĩ sao về những chiến binh Việt Nam của cả hai miền trong cuộc chiến, dường như chúng ta chưa thể hiện sự tôn trọng đủ đối với những anh linh của các chiến sĩ trận vong?
NP: Trước năm 75, tôi cũng là một quân nhân, trong ngành chiến tranh chính trị. Tôi đã có nhiều dịp đến thăm các tiền đồn, và thông cảm được sự chết và sự sống. Những chiến sĩ trận vong nằm xuống, nếu có thân nhân, còn có mồ yên mả đẹp. Còn các chiến sĩ vô danh, xương cốt không ai chăm sóc, đau đớn vô cùng. Dù nước nào cũng vậy, người Mỹ giàu có, với tư cách một nước lớn, người ta bỏ tiền của ra để tìm xác, cốt của các người lính Mỹ bỏ xác tại chiến trường là việc tốt. Còn người Việt, tuy không làm hết được việc đó ngay trên chính quê hương của mình, nhưng tôi tin rằng trong lòng mỗi người đều có niềm thương cảm, niềm tin vào sự linh hiể n của các chiến sĩ trận vong. Tôi nghe nói ông Nguyễn Cao Kỳ đang vận động xây dựng, tu chỉnh lại Nghĩa Trang Quân Đội, tôi rất mừng và nghĩ rằng đây là một việc làm vô cùng ý nghĩa. Nếu nhà cầm quyền Việt Nam làm được việc đó, thật là tuyệt vời. Tuy là hai chiến tuyến, hai lý tưởng khác nhau, nhưng đều là người Việt Nam. Chúng ta cần phải bù đắp cho họ về phần nghĩa trang, để các anh linh của họ không lạnh lẽo, cô đơn
ST
Ý kiến bạn đọcVui lòng login để gởi ý kiến. Nếu chưa có account, xin ghi danh.
|
|