"Bi Ca Tán Sở" là một bài hát do Trương Lương đặt ra cho hòa theo tiếng tiêu thổi để làm tan rã quân đội Sở Bá Vương Hạng Võ.
Trương Lương tự Tử Phòng, người nước Hán, đời Tần Hán (221 trước - 195 sau Dương lịch), phò Hán Bái Công Lưu Bang. Lúc bấy giờ, Hạng Võ bị tướng soái nhà Hán là Hàn Tín bao vây tại Cửu Lý San ở phía bắc thành Từ Châu. Tuy lâm vào tình thế nguy ngập: thiếu lương, nhưng bên cạnh vua còn 8 ngàn tử đệ theo từ lúc ban đầu, ở vào lúc cùng, họ quyết tử chiến mở con đường máu, thẳng về Giang Đông tu chỉnh binh mã để tiếp tục cuộc chiến đấu.
Như vậy là một mối nguy cho Hán, dù có đại thắng bằng binh lực tất phải trả một giá rất đắt bằng xương máu. Vì thế, Trương Lương hiến kế là tìm cách phân tán 8 ngàn tử đệ để cô lập Hạng Võ. Có thế mới bắt Hạng Võ được.
Trương Lương liền thừa lúc đêm khuya thanh vắng, trời cuối thu lạnh lẽo, Trương đi qua lại từ Kê Minh san đến Cửu Lý san, vừa thổi tiêu vừa hát:
Nguyên văn:
悲歌散楚
九月深秋兮,四野飛霜,
天高水涸兮,寒雁悲愴。
最苦戎邊兮,日夜徬徨,
披肩執銳兮,骨慄沙崗。
離家十年兮,父母生別,
妻子何堪兮,獨宿孤房。
雖有腴田兮,誰與之守,
鄰家酒熟兮,孰與之嚐。
白髮依門兮,望穿秋水,
稚子憶念兮,淚斷肝腸。
胡馬嘶風兮,尚知戀土,
人生客久兮,寧忘故鄉。
一旦交兵兮,踏刃而死,
骨肉為泥兮,衰草濠梁。
魂魄悠悠兮,枉知所倚,
壯志寥寥兮,付之荒唐。
當此永夜兮,追思退省,
及早散楚兮,免死殊方。
我歌豈誕兮,天譴告汝,
汝其知命兮,勿謂渺茫。
漢王有德兮,降軍不殺,
哀告歸籍兮,放汝翱翔。
勿守空營兮,糧道已絕,
指日擒羽兮,玉石俱傷。
楚之聲兮,散楚卒,
我能吹兮,協六律。
我非胥兮,品丹陽,
我非鄒兮,歌燕室。
仙音徹兮,通九天,
秋風起兮,楚亡日。
楚即亡兮,汝焉歸?
時不待兮,如電疾。
歌兮歌兮三百字,
字字句句有深意。
望汝莫作等閒看,
入耳關心,你們牢牢地謹記。
Bi Ca Tán Sở (nguyen Am)
Cửu nguyệt thâm thu hề, tứ dã phi sương,
Thiên cao thuỷ hạc hề, hàn nhạn bi thương.
Tối khổ nhung biên hề, nhật dạ bàng hoàng,
Phi kiên chấp nhuệ hề, cốt lật sa cương.
Ly gia thập niên hề, phụ mẫu sinh biệt,
Thê tử hà kham hề, độc túc cô phòng.
Tuy hữu du điền hề, thuỳ dữ chi thủ,
Lân gia tửu thục hề, thục dữ chi thường.
Bạch phát y môn hề, vọng xuyên thu thuỷ,
Trĩ tử ức niệm hề, lệ đoạn can trường.
Hồ mã tê phong hề, thượng tri luyến thổ,
Nhân sinh khách cửu hề, ninh vong cố hương.
Nhất đán giao binh hề, đạp nhẫn nhi tử,
Cốt nhục vi nê hề, suy thảo hào lương.
Hồn phách du du hề, uổng tri sở ỷ,
Tráng chí liêu liêu hề, phó chi hoang đường.
Đương thử vĩnh dạ hề, truy tư thoái tỉnh,
Cập tảo tán Sở hề, miễn tử thù phương.
Ngã ca khởi đản hề, thiên khiển cáo nhữ,
Nhữ kỳ tri mệnh hề, vật vị diểu mang.
Hán vương hữu đức hề, hàng quân bất sát,
Ai cáo quy tịch hề, phóng nhữ ngao tường.
Vật thủ không doanh hề, lương đạo dĩ tuyệt,
Chỉ nhật cầm Vũ hề, ngọc thạch câu thương.
Sở chi thanh hề, tán Sở tốt,
Ngã năng xuy hề, hiệp lục luật.
Ngã phi Tư hề, phẩm Đan Dương,
Ngã phi Trâu hề, ca Yên Thất.
Tiên âm triệt hề, thông cửu thiên,
Thu phong khởi hề, sở vong nhật.
Sở tức vong hề, nhữ yên quy?
Thì bất đãi hề, như điện tật.
Ca hề ca hề tam bách tự,
Tự tự cú cú hữu thâm ý.
Vọng nhữ mạc tác đẳng nhàn khan,
Nhập nhĩ quan tâm, nhĩ môn lao lao địa cẩn ký.
Trương Lương tập quân Hán học tiếng Sở hát theo.
Canh khuya, đêm vắng, khí trời lạnh lẽo, lá vàng rụng bay lả tả, tiếng tiêu thâm trầm, giọng hát bi thảm đồng vọng vào dinh Sở. Ban đầu, Sở quân chỉ buồn bã than thở, nhưng sau cùng, nghe đến chừng nào thì càng cảm thấy như ruột gan tan nát, rồi nước mắt đầm đìa ... đoạn bàn nhau bỏ trốn.
Chỉ trong một đêm, tám ngàn tử đệ cùng quân sĩ các dinh, mười phần bỏ trốn hết bảy tám.
Binh Sở không đánh mà tự nhiên vỡ tan để Sở Vương phải ôm hận đầy lòng, buông lời than ai oán:
Lực bạt san hề khí cái thế,
Thời bất lợi hề chuy bất thệ...
Tạm dịch:
Sức nhổ núi chừ khí hơn đời,
Thời bất lợi chừ ngựa chẳng đi...
Thơ dịch của hà thượng nhân :
Tiết tháng chín, trời cao nước cạn
Bốn bề sương tiếng nhạn bi ai
Gì hơn lính thú cõi ngoài
Tấm thân vò võ hôm mai đoạn trường
Bãi cát trắng nắm xương vô chủ ...
Ðã mười năm bác mẹ mong chờ
Vợ con đơn chiếc vơ vơ
Ruộng tuy có đó bây giờ ai trông ?
Kẻ hàng xóm rượu đong dù sẵn
Biết làm sao nâng chén cùng vui ?
Bạc phơ mái tóc ngùi ngùi
Sớm hôm tựa cửa, con tôi chốn nào ?
Tiếng trẻ khóc nghe vào đứt ruột
Ôi ! Ngựa Hồ gió bấc kêu thương
Huống ai đất khách canh trường
Lòng nào chẳng nhớ cố hương cho đành ?
Trước gươm giáo tử sanh thế đó
Xương thịt này lấp xó, vùi nương
Cô hồn không chỗ tựa nương
Hùng tâm tráng sĩ hoang đường mà thôi !
Lúc canh vắng ai ơi tỉnh lại
Sở sắp tan, mau phải tìm đường
Hãy nên tự vấn thiên lương
Mới mong thoát khỏi tai ương tày đình
Ta lãnh ý cao xanh nhân đức
Soạn lời ca, ai thức nào ai ?
Nếu như biết được mạng trời
Quăng gươm bỏ giáo xin mời về đây !
Vua nhà hán xưa rày tha thiết
Vì nghĩa nhân không giết quân hàng
Muốn về sẽ được về làng
Chứ đừng giữ trỳi khi lương không còn
Chỉ mai mốt quân dồn bốn phía
Bắt Hạng Vương : ngọc đá thành tro !
Hỡi ai , quân Sở hiểu cho
Thanh âm nước Sở dặn dò đồng hương
Nghe tiếng sáo Trương Lương réo rắt
Nghe lời ca Yên Thất nỉ non
Chín tầng mây thẳm chon von
Gió Thu có thấy héo hon tấc lòng ?
Nước Sở mất đừng hòng bỏ chạy
Thời cơ đâu có đợi chờ ta !
Lời lời nhắn nhủ thiết tha
Nên chăng, phải trái thật là phân minh
Anh em hỡi, này tình, này lý
Lọt vào tai phải nghĩ nông sâu
Kíp nên tính liệu làm sao
Chần chờ khi hối tài nào kịp cho
SG sáng 7 tháng 6 năm 1986
hà thượng nhân