Vương Hàn 王翰
(687 – 726)
Vương Hàn 王翰 (687-735) tự là Tử Vũ 子羽, người đất Tấn Dương (nay là huyện Thái Nguyên, tỉnh Sơn Tây). Thưở nhỏ, tính hào phóng, thích uống rượu. Ông thi đậu tiến sĩ, làm quan đến chức Giá bộ viên ngoại lang. Vì kiêu căng nên nhiều người ghét, bị đổi ra làm Trưởng sử Nhữ Châu, sau đổi làm Biệt giá Tiên Châu, rồi bị biếm làm Tư mã Đạo Châu và mất tại đây.
Lương Châu từ kỳ 1 28
Lương Châu từ kỳ 2 6
Xuân nhật tư quy 3
***************
Xuân nhật tư quy 春日思歸
Ngày xuân nhớ nhà
春日思歸
楊柳青青杏發花,
年光誤客轉思家。
不知湖上菱歌女,
幾個春舟在若耶。
Xuân nhật tư quy
Dương liễu thanh thanh hạnh phát hoa,
Niên quang ngộ khách chuyển tư gia.
Bất tri hồ thượng lăng ca nữ,
Kỷ cá xuân chu tại Nhược Da.
Dịch nghĩa
Dương liễu xanh xanh, cây hạnh ra hoa,
Dáng xuân huy hoàng này lại khiến kẻ lưu lạc nhớ nhà.
Không biết trong các cô gái đang hát khúc hái ấu trên hồ kia,
Có bao nhiêu cô đã chèo thuyền du xuân trên con suối Nhược Da!
Bản dịch của Nguyễn Minh @hoasontrang
Dương liễu xanh, ra hoa cây hạnh
Xuân huy hoàng làm khách nhớ nhà
Bao nhiêu cô hát lăng ca
Đã từng trên suối Nhược Da chèo thuyền?
***********************************
涼州詞其一
|
Lương Châu từ kỳ 1
|
Lương Châu từ kỳ 1
|
葡萄美酒夜光杯,
欲飲琵琶馬上催。 醉臥沙場君莫笑, 古來征戰幾人回。 |
Bồ đào mỹ tửu dạ quang bôi
Dục ẩm tỳ bà mã thượng thôi Tuý ngoạ sa trường quân mạc tiếu Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi. |
Rượu đào rót chén ngọc nhâm nhi,
Chưa thoả, tiếng đàn giục ngựa đi. Chinh chiến xưa nay ai trở lại? Sa trường say ngủ, chớ cười chi! |
nguon http://dungdd113.blogspot.com/2012/04/uong-thi-suu-tam.html
Lương Châu nay thuộc tỉnh Cam Túc, giữa Lan Châu và Vũ Uy, trước đây là nơi hàng bao thế kỷ người Hồ và người Hán đánh nhau. "Lương Châu từ" là một điệu hát cổ của nói về chuyện trận mạc biên ải. Những điệu hát cổ như: Thượng chi hồi, Chiến thành nam, Thương tiến tửu, Quân mã hoàng, Viễn như kỳ, Hoàng tước hành, Lạc mai hoa, v.v... được các thi nhân thời trước lấy làm đầu đề để sáng tác.
Bản dịch của Trần Trọng San
Rượu bồ đào, chén dạ quang
Muốn say, đàn đã rền vang dục rồi
Sa trường say ngủ, ai cười ?
Từ xưa chinh chiến mấy người về đâu!
Bản dịch của Nguyễn Lãm Thắng
Rượu ngon nồng chén dạ quang
Sắp nâng, trên ngựa giục vang tỳ bà
Say lăn lóc, chớ cười ta
Mấy ai chinh chiến về nhà, xưa nay?
Lương Châu từ kỳ 2 涼州詞其二
Lương Châu từ kỳ 2
涼州詞其二
秦中花鳥已應闌,
塞外風沙猶自寒。
夜聽胡笳折楊柳,
教人意氣憶長安。
Lương Châu từ kỳ 2
Tần trung hoa điểu dĩ ưng lan,
Tái ngoại phong sa do tự hàn.
Dạ thính hồ già "Chiết dương liễu",
Giao nhân ý khí ức Trường An.
Dịch nghĩa
Ở đất Tần, hoa sắp tàn, chim bay đi gần hết
Trong khi ngoài quan ải gió cát vẫn còn lạnh lẽo
Ban đêm nghe tiếng Hồ già thổi bài "Chiết dương liễu"
Làm cho (người chiến sĩ) hồi nhớ về đất Trường An.
Bản dịch của Lang Xet Tu @www.maihoatrang.com
Chim hoa tàn tạ khắp Tần trung Nguyên văn Lương Châu từ Bồ đào mỹ tửu dạ quang bôi Dục ẩm tỳ bà mã thượng thôi Túy ngọa sa trường quân mạc tiếu Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi. Dịch nghĩa Bài từ làm ở Lương Châu Rượu nho ngon đựng trong thứ chén ban đêm phát sáng Muốn uống thì đã nghe tiếng tỳ bà trên lưng ngựa thúc giục Có say nằm nơi sa trường (1) bạn cũng đừng cười Vì xưa nay ra trận đâu được bao nhiêu người về. Dịch ra thơ Đường luật Trần Quang Trân: Bồ đào rượu ngát chén lưu ly, Toan nhắp, tỳ bà đã giục đi. Say khướt sa trường anh chớ mỉa, Xưa nay chinh chiến mấy ai về? Khương Hữu Dụng: Rượu đào chưa cạn chén lưu ly Thu Tứ: Rượu ngon chén quý mới kề môi Quỷ Môn bước đã tới nơi rồi!(2) Dịch ra thơ lục bát Trần Trọng Kim: Rượu nho kèo chén lưu ly, Uống thì trên ngựa tiếng tì giục sôi. Say nằm bãi cát chớ cười, Xưa nay chinh chiến mấy ai đã về. Thu Tứ: Bản 1: Rượu ngon chén quý vừa nâng Kề môi chửa nhắp đã ngân tiếng tỳ Nốc say nằm bãi ngủ khì Ai cười chi kẻ một đi không về... Bản 2 (thời hiện đại, người uống là cấp chỉ huy): Mác-ten rót cốc pha-lê Cụng chưa kịp uống, "... lên xe", lính mời Dô! Dô! Cấm đứa nào cười Mai giao chiến biết còn đời hay không!... Bản 3 (thời hiện đại, người uống là chiến sĩ): Gò Đen còn nửa bi-đông Mở chưa kịp uống, "Tập trung!" vang trời Biết đâu mai sớm xong đời Tối nay xài hết, miễn cười, anh em! (1) "Sa trường" có hai nghĩa: bãi cát và chiến trường, ở đây không biết nghĩa nào. (2) Thơ xưa (không nhớ tên bài) có câu: "Quỷ Môn quan! Quỷ Môn quan! Thập nhân khứ, nhất nhân hoàn!", nghĩa là: "(...) Mười người ra đi, chỉ một người trở về!". Nguyễn Du cũng có bài thơ chữ Hán nhan đề "Quỷ Môn quan", đề vịnh một chỗ núi non hiểm trở thuộc tỉnh Lạng Sơn.
Gió cát biên cương vẫn lạnh lùng
Đêm vẳng kèn Hồ bài Chiết liễu
Trường An ai gợi vấn vương lòng
Toan uống lên yên giục tiếng tỳ
Say mẹp sa trường xin chớ giễu
Xưa nay ra trận mấy ai về.
Chửa nghiêng, đàn gẩy: kíp đi thôi
Túy lúy nằm say, cười chi chứ
Nguon ongmotamhon.net/static/chimvie3/54/thutn154_VuongHanLuongChauTu.htm