Lục Du 陸遊 (1125-1209)
Lục Du 陸遊 (1125-1209) tự Vụ Quan 務観, hiệu Phóng Ông 放翁, người Sơn Âm, Việt Châu (nay thuộc Nhạn Môn Đạo, tỉnh Sơn Tây), thời Nam Tống ông đã làm quan Tri châu, Tri phủ, còn làm quan Quốc sử biên tu, ông là một vị thi nhân ái quốc. Sống vào thời kỳ hai hai triều Tống Kim đánh nhau, Lục Du trở thành một người rất trăn trở vì mất nước. Khi đó người Nữ Chân (vương triều Kim) đã đánh chiếm xuống phía nam, đất nước chia năm xẻ bảy, dân tình ly tán loạn lạc. Ông đã từng vào đất Nam Trịnh (Tứ Xuyên hiện nay) theo phong trào chống Kim, đã từng mặc giáp cưỡi ngựa vượt qua sông Vị cùng những toán kỵ mã yêu nước, ban đêm đột kích quân Kim nhiều lần. Ông có "Kiếm nam từ" chuyên tập lưu truyền đến nay.
Nhưng thời tuổi trẻ ông đã bị một bi kịch về chuyện hôn phối. Năm 20 tuổi ông kết hôn với người em cô cậu tên Đường Uyển 唐婉. Mẹ Lục Du không thích Đường Uyển và cũng không tán thành cuộc hôn nhân này, đã cưỡng ép chia cách họ. Mười năm sau hai người gặp lại nhau ở Thẩm Viên, Lục Du viết lên tường một bài từ rất bi phẫn là "Thoa đầu phượng" 釵頭鳳. Không lâu sau, Đường Uyển chết, Lục Du vẫn còn lưu luyến mãi, viết bài thơ tình nổi tiếng "Thẩm viên" 沈園 được truyền tụng đến nay.
Nhưng thời tuổi trẻ ông đã bị một bi kịch về chuyện hôn phối. Năm 20 tuổi ông kết hôn với người em cô cậu tên Đường Uyển 唐婉. Mẹ Lục Du không thích Đường Uyển và cũng không tán thành cuộc hôn nhân này, đã cưỡng ép chia cách họ. Mười năm sau hai người gặp lại nhau ở Thẩm Viên, Lục Du viết lên tường một bài từ rất bi phẫn là "Thoa đầu phượng" 釵頭鳳. Không lâu sau, Đường Uyển chết, Lục Du vẫn còn lưu luyến mãi, viết bài thơ tình nổi tiếng "Thẩm viên" 沈園 được truyền tụng đến nay.