|
Tùy bút - Bút kýChuyện của một người di cư nhức đầu vừa phải (II) Nguyễn Bá Trạc * đăng lúc 04:36:56 PM, Sep 08, 2022 * Số lần xem: 2376
#1 |
* đăng lúc 08:42:39 AM, May 23, 2012 * Số lần xem: 590
Chuyện Một Người Di Cư Nhức Đầu Vừa Phải ( I)
II
5.
Nàng tiên ở dưới nước
Thủy Tiên, tên tiếng Việt: Nàng tiên ở dưới nước là thứ hoa mọc từ những củ trông như củ hành tây. Lá Thủy Tiên dẹp, ngắn hơn lá hành. Hoa Thủy Tiên màu trắng nhụy vàng, tất nhiên đẹp hơn hoa hành vốn là thứ hoa cục mịch không có lấy màu sắc gì rõ rệt cứ trổ đại trên đầu những ngọn lá mà người ta không kịp nhổ mang ra chợ. Nhưng đối với những người có tinh thần thực dụng, có quan tâm đến vấn đề ẩm thực (nói riêng), kinh tế (nói chung), Thủy Tiên chỉ là một thứ hoa vô bổ, vô ích, vô dụng. Không người Việt Nam nào xào thịt bò hay nấu phở với lá Thủy Tiên. Không người Mỹ nào dọn món hamburger mà lại dính dáng chi tới củ Thủy Tiên. Giữa hai miếng bánh mì hình tròn, người ta kẹp vào thịt bò bằm, lát cà chua, đổ thêm nhiều sốt đỏ lầy nhầy, rồi những lát hành thái mỏng chứ không phải là những lát Thủy Tiên và yum-yum-yum, cái cách của người Mỹ muốn nói ngon ơi là ngon.
Trong một thế giới lưỡng phân, một bên Mỹ, một bên Nga, cả hai chế độ Tư Bản-Cộng Sản cùng nhau tranh thắng ở tinh thần duy vật và chủ nghĩa thực dụng, đua nhau cân nhắc tính toán chi li giữa tổn phí và hiệu năng thì một chậu Thủy Tiên càng kém giá trị hơn hành, kém hơn bột mì, có lẽ kém cả cái đinh ốc chứ đừng nói gì đến một viên đạn.
Nguyễn Văn X. định bình phẩm như thế khi Cookie mang đến biếu một chậu Thủy Tiên đang nở. Ông cũng định nói đùa: Nhân dịp gia đình tôi đoàn tụ, giá bà chịu khó ra chợ thực phẩm Ðông Phương mua cho một chai nước mắm hay một bao gạo Texas hột dài thì chúng tôi sẽ hoan nghênh và cảm kích hơn.
Cái chậu bằng đất nung màu nâu xẫm thường bán ở tiệm Nhật trong đó sáu củ Thủy Tiên Mỹ Narcissus trồng chụm vào nhau trên cát, vươn lên những ngọn lá xanh mọc thẳng, những cụm hoa nở ra xúm xít. Cookie trồng chậu hoa này có lẽ cách đây từ hai tháng khi nghe X. thường hay nhắc nhở về những ngày Tết ở Hà Nội, những cành đào màu hồng và cách ông thân sinh của X. tỉa hoa Thủy Tiên. Mười cái Tết xa nhà. Một cái Tết nữa sắp đến. X. nghĩ. Bà ta ngồi bên lò sưởi giương mắt thao láo nhìn và nghe X. say sưa trong một dĩ vãng đầy khói nhang trầm, những tờ giấy bạc mới của người lớn mừng tuổi cho trẻ con, và ông X. bấy giờ - hơn ba mươi lăm năm trước ở cái xứ sở xa xôi lạ lùng kia hãy còn là một đứa bé với những phong tục tập quán khác biệt, ông ta chạy tung tăng trong góc phố ở một cái chấm nhỏ trên bản đồ Ðông Nam Á, cái gì ở đấy cũng khác ở đây: thịt gà thì dai và đậm đà hơn thịt gà Mỹ, thịt lợn cũng vậy. Cá tươi hơn. Tôm hùm to hơn, ngon hơn. Trẻ con dễ dậy hơn. Người già được săn sóc và kính trọng. Vợ chồng không mấy khi ly dị. Ði làm không vất vả quá, không bị lo đuổi sở hay mất việc. Tiền kiếm ra ít thôi nhưng vật giá nói chung đều rẻ. Ðời sống không có nhiều áp lực. Con người kém logic nhưng không đối xử với nhau lạnh nhạt quá. Toàn là những thứ Cookie không có và muốn có.
"Thủy Tiên ở xứ tôi khác ở đây. X. nói. Cách chơi hoa cũng thế. Ngày Tết ba tôi hay tỉa củ Thủy Tiên rồi trồng trong nước. Ở miền Bắc Việt Nam ngày Tết nhà nào cũng có cành đào hoặc một chậu Thủy Tiên, cũng như ở Mỹ nhà nào cũng có cây thông vào dịp Giáng sinh."
Chữ tỉa, X. giải thích một cách khó khăn. Chính X. cũng không biết tỉa như thế nào. Trước khi Việt Nam chia đôi vào năm 1954, X. và gia đình ở Hà Nội. Lúc ấy ông mới có 12 tuổi. Trí nhớ của ông càng ngày càng lờ mờ trong khi bệnh nhức khớp xương ngày càng tệ hại. X. nói với Cookie: Hình như ở chợ Tầu San Francisco người ta có bán củ Thủy Tiên gửi từ Ðài loan hay Hồng kông sang. Giống Thủy Tiên này khác với Thủy Tiên ở đây. X. nhắc lại. Hai người rủ nhau đi San Francisco tìm khắp các tiệm bán hoa lẫn tiệm bách hóa nhưng không có. Chưa có. Shui Sin hả? Shui Sin phải đến tháng Giêng tháng Hai mới có. Họ nói.
Cái gì ở đây cũng khác. X. nghĩ. Ðề tài dĩ vãng này không đơn giản mỗi khi phải đặt định giá trị tùy theo lúc ông suy tưởng cái gì. Về tình cảm? Chính trị, kinh tế? Văn hoá hay xã hội? Có hôm ông nghĩ đến những người làm công ở Việt Nam, những người ở. Gần như ở Việt Nam gia đình nào tại thành thị truớc đây cũng có một người ở, thường là các con bé dưới quê lên. Lương bổng không là bao. Ăn ngủ tại nhà chủ. Giờ làm việc không nhất định. Có thể 24 giờ mỗi ngày, 365 ngày mỗi năm. Mỗi năm chủ may cho hai bộ quần áo. Rộng rãi hay không tùy người. Cơm chủ nhà ăn xong, người ở bưng mâm cơm dọn xuống bếp ăn. Chủ bảo gì làm nấy.
X. nghĩ đến khu La Kai ở Chợ Lớn buổi tối đầy thực khách ngồi bên những bàn ăn ngoài trời. Mùi mì vịt tiềm bốc lên thơm phức lẫn mùi cua nướng, sò nướng, mùi sầu riêng chín. Dưới ánh đèn điện và đèn khí đá, người ta nhồm nhoàm ăn uống trong khi bọn ăn mày đứng vây quanh. Những đứa bé chỉ chờ người ta ăn xong là giành nhau miếng xương vịt hay chút nước còn sót lại. Những người phế binh què quặt. X. nghĩ. Nhất là những người phế binh què quặt. Phế binh ở khắp nơi.
Các điều này, X. ít nói trong việc trao đổi văn hóa với Cookie. Có thể ông có nói nhưng không nhấn mạnh. Ông có nói về quy luật tàn khốc của chiến tranh, những tội ác cả hai phía Quốc Gia lẫn Cộng Sản. Nhưng không nói nhiều. Lúc xót xa cho bạn hữu thân nhân đã 10 năm sống dở chết dở trong các trại cải tạo Cộng Sản, ông cũng không nói nhiều. Lúc nghĩ đến xứ sở suy sụp, những đứa trẻ gầy gò thiếu ăn, cũng không nói nhiều. Trí suy tưởng có bộ máy thắng biết lọc lựa, biết dừng lại cho người ta có thể sống sót, không bị ưu uất quá nặng, không bị đau dạ dày quá nhiều, không mất ngủ quá lâu, hàng ngày có thể tiếp tục đi làm như cái máy dầu mỡ trơn tru, cuối tháng lãnh lương trả tiền thuê nhà, tiền điện, hơi nóng, đồ ăn, xăng nhớt, trả góp cái xe, tiền mua những hộp đồ tiếp tế gửi về Việt Nam gồm có: vải đen, thuốc trụ sinh, thuốc đau tim cho bà cụ, thuốc tê thấp cho ông cụ, đôi khi kèm vài món quà tình cảm linh tinh. Những cái ấy có nói lên vài điều nho nhỏ nhưng cụ thể và có thể làm được.
Hôm ông gọi điện thoại báo tin cho Cookie biết ông bà cụ sắp sang được Mỹ trong chương trình Ra đi có trật tự, bà reo lên "Oh my God. Chúa ơi. Really? Thực sao?". Bà ta hỏi hàng chục câu hỏi làm ông không kịp trả lời. Trong mấy năm quen biết, Cookie khá rành rẽ về gia đình ông X., những người ở bên kia quả đất: Một ông chú đi cải tạo trong hốc núi rừng Việt Bắc hơn sáu năm sau đau phù thũng về đến Sài Gòn ba ngày thì chết. Một bà thím viết thư cho hay các em đi vượt biên bị bắt cả, thím một mình đã lớn tuổi nay không thể làm ăn gì, anh làm ơn bố thí cho thím một ít thuốc men để bán đi lấy tiền sinh sống qua ngày. Bố mẹ còn kẹt lại. Nửa gia đình ở ngoài Bắc từ trước 1954. Nửa gia đình trong Nam nhà nào cũng tan tác. "Oh my God. Chúa ơi. Really. Thực sao?". Cookie lại nói. Vâng X. nói. Tết năm nay gia đình tôi sẽ đầy đủ. Ông trầm ngâm. Tất nhiên không trọn vẹn. Ông nghĩ ngợi. Nhưng chúng tôi cứ cảm ơn tất cả những gì Trời đã ban cho chúng tôi. X. nói. Ðáy lòng ông nói. Ông nghĩ đến tất cả những người bạn quen biết, những người Việt Nam tan tác trên đất Mỹ, Pháp, Gia nã đại, Anh, Úc...mỗi người một phương. Những gia đình chia cách vợ chồng con cái. Những người vợ đã muời mùa xuân chờ đợi mỏi mòn. Lúc ôm áo quần lên đường đi học tập những người chồng có hẹn 10 ngày, hay ba tháng sau anh sẽ trở về. Những người đàn bà, trẻ con chết chìm trên vùng biển Thái lan, Mã lai, Nam dương. Những cướp bóc hãm hiếp. Vâng. X. nói. Tôi cảm ơn Trời.
Tôi cảm ơn Trời mặc dù tôi vẫn hỏi có Trời hay không có Trời? Không có Trời sao người qua được bên đây? Nếu có Trời sao người bị ở bên đây? Nếu có Trời, Việt Nam sao khổ mãi? Không có Trời, ai sống đến ngày nay?
Những lưỡi lê cắt tuột bàn tay
Miếng thịt da chết chẳng vẹn thây
Ngọn chông đâm suốt qua thân thể
Tiếng khóc con thơ tiếng đoạ đầy
Việt Nam ơi,
Có mây in bóng dòng sông cũ
Có tiếng em thơ gọi lúa về
Có trưa nhắm mắt nằm mơ ngủ
Có tiếng người đêm vắng khóc tỉ tê
Những cái tên trên những mặt bàn
Những bạn bè những cuộc hợp tan
Những kẻ hy sinh ngoài chiến trận
Những thây người phanh ruột đổ gan
Người đói, người tù. Không chăn chiếu thuốc thang. Người bỏ xác đại dương. Vậy có Trời hay không có Trời? X. vẫn nói: Cảm ơn Trời. Những bài thơ cũ của X. có hỏi gì thì cứ hỏi, bây giờ X. vẫn nên nói cảm ơn Trời khi gặp lại ông bà cụ thân sinh sau mười một năm chia cách. Một lần nữa: Cảm ơn Trời.
*
San Jose, 14 tháng 1 năm 1986
Anh B. thân,
Còn bao nhiêu ngày nữa đến Tết Bính Dần? Ðể đếm lịch xem. Hai mươi lăm ngày nữa. Tết năm nay nhằm Chủ nhật mùng 9 tháng Hai tây. Khỏi đi làm. Ờ nhà ăn Tết, đỡ lắm. Ông Pharmacy Kim có cho một quyển lịch ngày tây ngày ta, có đề rõ: Tết Nguyên Ðán Bính Dần, nên thắp hương xuất hành hướng Ðông Bắc hoặc Tây Nam lúc nửa đêm Giao thừa, tức làø khoảng 12 đến 3 giờ sáng. Vậy năm nay chắc chắn sẽ có đi chùa lúc nửa đêm.
Ông bà cụ tôi qua, dẫu thiếu tiền cũng cứ đi vay để ăn Tết lớn, để cúng tạ tổ tiên. Tất phải có bánh chưng, có thể nấu lấy, gói lấy. Ði ra cái công viên gần nhà thiếu gì ø củi. Cái mục nửa đêm canh nồi bánh chưng ngoài vườn thú lắm nhá. Tất phải có các thứ mứt, chợ Việt Nam đã đủ thứ mứt bí, mứt gừng, mứt quất. Chỉ sợ không tiền mà mua. Mấy hôm nay bà cụ tôi hái sạch đám chanh Mỹ, ông cụ cạo vỏ, bà cụ đem phơi làm chanh muối. Có lẽ phải yêu cầu bà cụ muối dưa hành lẫn dưa cải. Phải có thịt lợn ngâm nước mắm, hay thịt gà nấu đông.
Thú thực với anh bây giờ ngồi viết đến đây tôi mới bắt đầu nghĩ ra mùi Tết chứ hàng ngày đi làm cùi cụi có nghĩ đến Tết nhất gì đâu.
Ông bà cụ tôi qua như thế đã được gần một tháng rồi. Tất nhiên, biết bao là cảm xúc.
Sáng nay tôi thức dậy sớm ngồi uống trà với ba tôi, đọc lá thư của một cậu em họ ở Hà Nội gửi qua Tiệp Khắc nhờ người gửi sang đây cho tôi. Chú em lúc chia tay nhau ở Hà Nội năm 1954 mới có 10 tuổi. Tôi nhớ ông cụ nó, chồng cô tôi, lúc gia đình tôi sắp di cư vào Nam có cười bảo: Thế là mày dô Nam với Bảo Ðại. Còn tao ở lại với cụ Hồ? Bà tôi cho biết sau này một đứa em của nó sinh ở Hà Nội lúc nhà tôi đã vào Nam, đi bộ đội và chết ở chiến trường miền Nam. Dạo ở Hà Nội ngày Tết anh em quây quần với nhau trong căn nhà bà nội tôi ở đường Hàng Bông Thợ Nhuộm, trước mặt vườn hoa Cửa Nam. Tết nào bà tôi cũng muối củ cải. Ðể nguyên củ, nén chặt trong cái vại lớn. Muối cả cà bát rồi ngâm tương. Ba tôi thì hay tỉa Thủy Tiên. Lúc vào Nam ba tôi không tỉa nữa. Bà tôi ở lại ngoài Bắc với ba người con gái, một người có chồng theo kháng chiến đi từ 1945 mãi đến 1975 mới về. Lúc ba tôi cùng chú tôi và hai người cô nữa vào Nam, bà nội tôi vẫn nghĩ là û con cháu ra đi chỉ hai năm trở về, vì sẽ có hiệp thương, vì sẽ có tổng tuyển cử, và mọi người rồi sẽ lại quây quần với nhau ở căn nhà đường hàng Bông Thợ Nhuộm.
Sáng nay tôi có hỏi ba tôi cách tỉa hoa Thủy Tiên. Ba tôi nói phải kiếm một cái gọng ô, đập dẹp ra mài nhọn làm dao tỉa. Củ Thủy Tiên có nhiều nhánh dính vào nhau. Mỗi nhánh tỉa dọc ra một khía, bóc từng lớp cho đến khi thấy giò hoa thì ngừng lại. Tỉa phía nào, giò hoa sẽ mọc theo hướng ấy, mọc uốn xuống chứ không thẳng lên nếu không tỉa. Như thế một cụm hoa tỉa khéo sẽ có những cuộn lá cong, lượn vòng rất đẹp. Lúc ba tôi nói, tôi hình dung lại được một bát Thủy Tiên như thế. Những cái rễ trắng muốt mọc dài trong nước. Những cái lá xanh cong toả ra như ngón tay. Hoa vươn lên với cánh trắng nhụy vàng tỏa mùi thơm nhẹ nhàng dễ chịu trong không gian trộn lẫn mùi nhang trầm phảng phất suốt mấy ngày Tết trong khi ngoài đường tiếng pháo nổ râm ran.
Nghe hai bố con ngồi ở bàn nhà bếp nói chuyện, mẹ tôi thức dậy. Mấy hôm nay San Jose rất lạnh. Cả thung lũng đặc nghẹt sương mù. Mẹ tôi có vẻ mệt, co ro đi ra đi vào. Cụ bưng cái chậu Thủy Tiên mọc thẳng của tôi mở cửa ra để ngoài vườn.
Bà cụ nhăn mũi lại nói: "Thủy Tiên ở đây đẹp thì có đẹp nhưng mà hôi không chịu nổi."
Hy vọng bài tôi gửi kịp cho anh đánh chữ. Nhân dịp báo Tết, tôi cũng xin nhờ anh cho viết thêm ít giòng. Năm mới cầu chúc tất cả các độc giả của tôi nếu gia đình chia cách thì sẽ sớm được đoàn tụ và xin cầu chúc tất cả mọi người hạnh phúc an vui.
6.
Ðêm hiện dần lên những chấm sao
San Jose, ngày 2 tháng 1 năm 1986
Anh Q.D.,
Từ hai tháng nay sau khi anh ngỏ ý muốn tôi góp bài cho tờ Tuổi Hoa tục bản ở Mỹ, gần như mỗi ngày tôi đều cảm thấy cái hối thúc của một món nợ: lời hứa riêng đối với một người bạn, bổn phận chung đối với con em Việt Nam chúng ta.
Tới nay, tôi vẫn chưa gửi cho anh được, một phần như anh đã rõ: gia đình tôi may mắn đoàn tụ, ông bà cụ tôi vừa đến Mỹ với con cháu sau hơn mười năm xa cách. Mấy tuần nay cả gia đình tôi lúc nào cũng chộn rộn và bận bịu với niềm vui ấy.
Mặt khác, thú thực với anh trước đó tôi đã có viết được hơn tám trang giấy nhưng bỏ dở không viết tiếp. Những gì đã viết đều lỏng lẻo mông lung, không thực sự cảm thấy nói với ai. Ai sẽ là người đọc tờ Tuổi Hoa? Ai sẽ đọc bài viết của tôi? Ðó là những em bé hay là các thanh niên thiếu nữ? Ðó là con em vừa ở Việt Nam sang Mỹ đợt sau này, hãy còn nói, đọc và viết chữ Việt rành rẽ? Hay đó là những bạn trẻ độc giả của những tờ báo như Tuổi Hoa xưa và bây giờ đã có con cái tay bồng tay mang? Các em hiện ở trung học mà gia đình sang Mỹ đợt 1975 thì lúc rời Việt Nam phần lớn mới sáu, bảy tuổi. Cứ cho là trên dưới mười tuổi. Các em ấy đọc chữ Việt rất khó khăn. Nhiều em đã vào đại học, có lòng muốn đọc sách báo chữ Việt để học hỏi và chia sẻ với cha anh, nhưng việc đọc của các em cũng đã vất vả. Nhiều em phải dùng tự điển tra từng chữ kép, từng chữ Hán Việt phổ thông, nói gì đến những chữ có điển tích như cầu Ô hay sông Ngân.
Sau hơn mười năm ở Mỹ, cái lo lắng làm sao cho con em thông thạo Anh ngữ để bắt kịp chương trình nhà trường không còn tồn tại nữa. Nhưng cái lo làm sao duy trì chữ Việt cho con em không bị cắt đứt với cha anh và tổ quốc thì càng ngày càng đáng được quan tâm hơn. Trong mối quan tâm ấy chúng ta đang lúng túng như người đánh gươm với cối xay gió.
Lớp đàn anh đàn chị có thiện chí xung phong đi làm công tác mở lớp Việt ngữ không phải là thiếu. Nhiều anh chị còn chịu khó lái xe đến tận nhà đưa đón các em đi học vào cuối tuần. Nhưng các lớp học vẫn vắng thưa. Chưa có phương pháp tổ chức tốt? Hay chưa có công thức sư phạm hữu hiệu? Và như thế các cố gắng càng ngày càng lẻ loi và trở nên... lãng mạn?
Tôi lúng túng trong đêm khuya khi ngồi xuống viết tám trang giấy cho tờ Tuổi Hoa về những núi non làng mạc xa xưa, những con khướu, con sáo, chim sơn ca bay vụt lên giữa cánh đồng. Tuy vậy, theo lời anh yêu cầu, tôi đã cố gắng viết, cố tưởng tượng ra một cô bé Việt Nam để nói chuyện, để kể câu chuyện các con đường xưa cũ ở Hà Nội về mùa hè trời đầy sao, ở Huế nơi tôi sinh ra trong một mùa nước lụt, bà ngoại tôi phải chồng hai cái giường lên nhau cho khỏi ướt và cắt rốn cho tôi bằng cái mảnh chai.
Ngồi trong đêm mùa đông lạnh lẽo, trầm ngâm với trang giấy trắng, tôi đi ngược quá khứ về bên kia quả đất, về tận những ngày ba mẹ tôi mới gặp nhau. Ba tôi rời Hà Nội vào Huế làm việc cho sở Thiên văn năm hai mươi ba tuổi: hàng ngày ông thả những quả bóng bay lên trời xem gió mây đi về hướng nào. Huế là nơi ba tôi sửa soạn đi hỏi bà chị ruột của mẹ tôi, nhưng một người sau này là dượng tôi đến gặp yêu cầu ngưng đám hỏi lại: dượng tôi đã quen biết dì tôi từ trước và cũng đã định đi hỏi dì. Ba tôi đồng ý, cuối cùng đi hỏi mẹ tôi bấy giờ mới có mười tám tuổi, “chưa biết gì” như sau này mẹ tôi thường kể lại một cách vui vẻ. Tất nhiên, tôi bỏ bớt chi tiết, không kể hết những chuyện như ông ngoại tôi có hai vợ, cả ba ông bà tôi đều chung sống dưới một mái nhà với tất cả các cậu mợ cô dì tôi một cách êm ả hạnh phúc. Tôi tránh nói về đề tài này cũng như ở Mỹ nhiều người Việt tránh không nói về chuyện ăn thịt chó.
Tôi gọi tên cô độc giả của tôi là Mỹ Phương.
Tôi viết tám trang giấy dở dang dưới hình thức một lá thư:
Cháu Mỹ Phương, thế nào là nơi chôn nhau cắt rốn? Ðó là nơi người ta sinh ra đời. Bà ngoại tôi đã chôn cái cuống nhau của tôi dưới một gốc cây đào trong căn vườn của bà ở Huế.
Cháu Mỹ Phương,
Còn thế nào là quê cha đất tổ? Ðó là nơi xuất phát gốc tích ông cha bên ngành nội. Ðó là nơi trái tim ta hướng về nguồn cội dẫu có khi ta chưa hề may mắn có dịp đặt chân đến. Ðối với tôi đó làng Mọc thuộc tỉnh Hà đông. Ðối với cháu, giản dị là nước Việt Nam dẫu cho nếu cháu có sinh ra ở Mỹ.
Cháu Mỹ Phương, sau khi ra đời được hai tháng, ba mẹ tôi ẵm tôi xuống tàu hỏa về Hà Nội. Làng Mọc thuộc tỉnh Hà đông chỉ cách Hà Nội có 10 cây số tức là khoảng sáu dặm Anh. Những ngôi mộ của ông nội và tổ tiên tôi đều nằm trên một cánh đồng bên ngoài làng. Cánh đồng này có lúc lúa mạ mọc lên xanh mát, có mùa lúa chín vàng bốc lên mùi đất dịu tỏa rộng khắp không trung.
Tôi kể cho Mỹ Phương nghe về Hà Nội, nơi tôi lớn lên trong một căn gác:
"Tôi ở Hà Nội, ngõ Tân Hưng, góc đường Ga hàng Cỏ, trước cửa nhà là một gốc hoàng lan, mùi hương thơm sững sờ giấc ngủ, ba chục năm rồi hoa vẫn còn thơm."
Sau này tôi viết như thế trong một quyển sách đánh dấu mười năm rời khỏi nước với tất cả những cảm xúc chân thật. Tôi không chỉ nghĩ đến mùi hoa ngọc lan, hoa móng rồng hay mùi đất, mùi lúa. Tôi cũng nghĩ đến mùi đêm khuya, con đường phố Hà Nội mùa hè trên trời đầy sao, dưới đất những con ve thô kệch bám vào gốc cây, cột đèn. Những con ve đau đớn quặn mình để thoát khỏi cái vỏ cứng sau bảy năm dưới bùn đất đợi chờ, đợi chờ chờ đợi như chúng ta bây giờ, cho đến một buổi sáng mùa hè ấm áp tươi đẹp kia ve lột vỏ thoát ra với đôi cánh óng ả, bay lên cất tiếng hát vang khắp các phố phường, trên những cây phượng, cây hoa gạo nở tràn trề ánh sáng.
Phố phường Hà Nội nhỏ bé thôi.
Sau chiến cuộc 1945 nhà bà nội tôi ở phố cửa Nam sập mái. Nhiều căn nhà khác cũng vậy. Lính Ma Rốc, da đen rạch mặt, lính Lê Dương da trắng vẫn thường uống rượu say sưa phá phách ngoài đường. Bấy giờ tôi học vỡ lòng ở trường Khuông Việt, chùa Quán Sứ. Lớn hơn một chút, vào trường tiểu học Sinh Từ. Gần đấy là Văn Miếu, nơi tôi hay đến chơi với những bức tường rêu cũ kỹ, những rễ đa rườm rà buông xuống. Ðây là nơi thờ phượng những người soi sáng văn học Việt Nam. Công nghiệp những vị ấy mãi mãi còn ghi trên bia đá. Tôi không đọc được chữ Nho nhưng tôi thích ở đấy trong cái không khí trầm mặc của những mái ngói tường rêu, mặt nước hồ xanh màu đồng cũ, những hàng cột uy nghi, cỏ bông lau bay trong gió mùa thu mưa phùn gây gấy lạnh.
Hà Nội cũng như Huế là nơi có nhiều thi sĩ.
Cháu Mỹ Phương, Thi sĩ là gì? Họ là những ngôi sao.
Họ rung động trong chúng ta như chấm sáng rung động trên bầu trời cao, xa.
Những bài thơ của họ là ánh sáng mỏng manh trong lòng có khi sáng lên rực rỡ có khi mờ nhạt đi.
Cháu Mỹ Phương, Thi sĩ là ai? Ai cũng là thi sĩ trong một đêm nhìn lên bầu trời đen tối thấy lòng đợi chờ và rung động, thấy xao xuyến và hy vọng, thấy tỏa ra ánh sáng lấp lánh nhịp nhàng.
Anh Q.D.,
Viết đến đây tôi bỏ dở. Quả thực nó lỏng lẻo và mông lung.
Nói cho ngay tôi không biết rõ Mỹ Phương.
Mỹ Phương bao nhiêu tuổi? Cháu sinh ở Mỹ hay ở Việt Nam?
Cháu sinh ra ở một trại tị nạn hay trên một con thuyền vượt biên lênh đênh giữa biển?
Bố mẹ cháu còn sống hay đã chết?
Bố cháu có còn ở trong trại tù cải tạo ở Việt Nam?
Mẹ cháu có bị hãm hiếp cướp bóc trên vịnh Thái Lan?
Tôi không có bố cục cho những điều định viết. Làm gì có bố cục. Ý nghĩ của tôi suốt mấy hôm ấy cứ vẩn vơ: Ðêm hiện dần lên những chấm sao, lòng trời đương thấp bỗng nhiên cao. Tôi đọc đi đọc lại bài thơ của Nguyễn Bính nhan đề là „Ðêm sao sáng“ do người Cộng Sản in trong tập thơ Việt Nam 1945-1975 của nhà xuất bản Tác Phẩm Mới, Hà Nội 1976. Bài thơ này viết tháng 12, 1957 tức là hai năm sau khi đất nước chia đôi. Trong một quyển sách khác in tại miền Nam, người ta ghi Nguyễn Bính chết ngày 20 tháng 1 năm 1966 lúc 47 tuổi.
Ðêm hiện dần lên những chấm sao
Lòng trời đương thấp bỗng nhiên cao
Sông Ngân đã tỏ đôi bờ lạnh
Ai biết cầu Ô ở chỗ nào?
Tìm mũ Thần Nông chẳng thấy đâu
Thấy con vịt lội giữa dòng sâu
Sao Hôm như mắt em ngày ấy
Rớm lệ nhìn tôi bước xuống tầu
Chùm sao Bắc Ðẩu sáng tinh khôi
Lộng lẫy uy nghi một góc trời
Em ở bên kia bờ vĩ tuyến
Nhìn sao thao thức mấy năm rồi!
Sao đặc trời sao sáng suốt đêm
Sao đêm chung sáng chẳng chia miền
Trời còn có bữa sao quên mọc
Anh chẳng đêm nào chẳng nhớ em!
Những sông Ngân, cầu Ô, sao Bắc Ðẩu, mũ Thần Nông, liệu Mỹ Phương có hiểu không? Và các biến cố lịch sử? 1945? 1954? Dòng sông Bến Hải, vĩ tuyến 17? Và cách trình bày, suy diễn các biến cố lịch sử, Mỹ Phương liệu có hiểu và tìm được cho mình một sử quan trung thực?
Mấy hôm ấy tôi cũng đang nghĩ rất nhiều về ba mẹ tôi. Tôi đã làm thủ tục bảo lãnh sang Mỹ đoàn tụ gia đình trong chương trình Ra đi có trật tự và chờ đợi năm năm rồi. Ba mẹ tôi cũng đánh điện từ hơn một năm trước cho biết đã có giấy xuất cảnh. Tôi lại nghĩ đến một người bạn thân từ thuở bé, đến nay gần 10 năm vẫn bị giam cầm không xét xử trong trại tù Cộng Sản mà người ta cứ gọi là trại Học tập. Nhiều bạn cũ của N. và tôi muốn nhờ những cơ quan Văn bút quốc tế can thiệp cho N. đoàn tụ với vợ con hiện ở Texas nhưng tôi cứ chần chừ băn khoăn cầm mãi mớ giấy tờ không biết có nên hay không nên. Rồi lại những sông Ngân, cầu Ô, những chia cách mòn mỏi đợi chờ ám ảnh trong trí tôi. Lại Huế, Ðà Nẵng, Hà Nội... Bất ngờ quá, một buổi sáng nhận tin: Ba mẹ tôi đã sang đến trại tị nạn Thái Lan, ở đó 10 ngày. Hiện đã sum họp với gia đình tôi như anh đã biết.
Ba tôi năm nay 73 tuổi. Cụ vẫn mạnh khỏe nhưng đi đứng khó khăn vì sưng khớp xương. Mẹ tôi không ốm yếu nhiều như tôi tưởng. Ngày gặp gỡ vui mừng khôn tả. Hôm nay sau hai tuần lễ gặp mặt, gia đình tôi vẫn còn cái không khí nôn nả cảm động của một cuộc hội ngộ sau hơn 10 năm trời.
Ba tôi nhìn thấy trong nhà những bài báo và quyển sách mới xuất bản của tôi ở Mỹ nhưng không có vẻ quan tâm. Cụ lấy trong tủ sách cuốn Dọc đường gió bụi tức là cuốn Kiến văn lục của cụ Trần Trọng Kim ngồi đọc lại mấy hôm nay.
Anh Q.D.,
Rời khỏi nước sang đến Mỹ tôi mới xuất bản được một quyển sách văn chương nhưng nói ra, anh đừng cười, con đường văn nghiệp của tôi kể cũng khá dài.
Dạo ở Hà Nội năm 1952, hai năm trước khi di cư vào Nam, ba tôi có tập cho tôi viết lách. Lúc ấy tôi mười tuổi, viết cái truyện ngắn đầu tiên nhan đề là „Con sáo“. Ba mươi ba năm trôi qua, tôi chỉ còn nhớ được cái nhập đề: “Tôi có nuôi một con sáo” để tả lại con chim mà tôi nuôi chăm chút, hàng ngày lang thang trên các bãi cỏ vỉa hè Hà Nội bắt châu chấu cho nó ăn, nó thân thiết với tôi như thế nào và khi nó chết tôi buồn bã như thế nào.
Sáng qua khi thức dậy sớm tôi thấy ba tôi đang ngồi uống nước trà, đọc một cuốn sách khác của một người bạn tôi mới xuất bản mang đến nhà tặng. Ba tôi vốn ít nói. Tôi ngồi xuống cạnh ba tôi. Cả hai bố con đều ngượng nghịu trong lúc chuyện trò. Tôi hỏi ba tôi có gặp lại hết các cô các chú ở ngoài Bắc không. Tôi hỏi về một đứa em họ mồ côi ở Hà Nội mà tôi có tự ý đăng nguyên lá thơ của nó trong quyển sách mới của tôi. Cuối cùng tôi hỏi: "Ba có nhớ cái truyện ngắn ‚Con sáo’ con đăng ở Hà Nội không. Ba có nhớ cái tờ báo ấy tên gì không?"
Ba tôi đáp: "Trẻ Việt."
Ðúng cái tên ấy. Cái tên mà mấy chục năm qua tôi không thể nhớ ra. Không ngờ ba tôi vẫn còn giữ được những chi tiết nhỏ bé ấy cho tôi từ trong một dĩ vãng xa vời.
Năm 1954, ba tôi đã một lần rời bỏ xứ sở miền Bắc và một nửa gia đình tại Hà Nội đem tôi di cư vào Nam. Bà nội tôi mất ngoài Bắc trong cuộc xa cách hơn ba mươi năm ấy. Năm nay, 1985, ba me tôi lại rời bỏ quê nhà. Tại sao cứ chia ly mãi.
Khi gặp mặt ở phi trường mọi người đều chảy nước mắt hàn huyên thăm hỏi. Me tôi vốn nói nhiều. Me tôi nói: Kỳ này đi thăm các con cháu, ông bà phải đi xa quá. Vượt cả một đại dương. Me tôi nhất định gọi đây là một cuộc đi thăm. Trên đường từ phi trường về nhà, me tôi cũng nói chuyện không ngớt. Me tôi bảo: Me mong sao sớm có ngày về. Ba me chỉ ước nguyện có thế thôi. Lập tức, tôi nghĩ đến cái cảnh chia ly giữa me tôi với bà ngoại tôi, các cậu các dì tôi ở Việt Nam, chắc cũng rất nhiều nước mắt.
Hôm qua Tết dương lịch, cũng là ngày sinh nhật thứ 24 của con gái tôi. Năm 1986 đã bắt đầu.
Trong lúc các cháu trổ tài nấu nướng, ba me tôi ngồi sắp xếp những tấm ảnh trắng đen mang từ Việt Nam. Hai cụ mang theo một cuốn trích lục gia phả, một cái nón lá, một xấp ảnh cũ. Tất cả chỉ có thế. Tôi giúp các cụ đóng khung một số hình. Những tấm ảnh ba me tôi từ ngày mới cưới, me tôi kẻ lông mày nhỏ và cong, tay vịn cành hoa. Tấm ảnh đen trắng tô thêm màu bằng tay. Lần đầu tiên tôi nhận ra ngày trẻ me tôi rất đẹp và ba tôi cũng vậy.
Những tấm ảnh xưa cũ ba me tôi mang theo đem tôi về lại những căn nhà có bốn năm bậc thềm cao để tránh lụt lội trong mùa mưa ở Huế. Xa hơn nữa, căn nhà ở phố cửa Nam Hà Nội, nơi ông tôi có xây cái bể cạn hình bán nguyệt gắn vào tường, dưới trang trí hình cá hoá long gắn bằng những mảnh sành, trên là một hòn giả sơn có trồng những bụi cỏ tóc tiên. Ba me tôi mang sang cho tôi tất cả thời thơ ấu: buổi trưa mùa hè Hà Nội, buổi sáng mùa thu ở Huế, những con ve, những người bạn tấm bé cả hai miền, những ngôi sao, con sáo và cả những tờ báo thiếu niên thủa xa xưa.
Tám trang giấy tôi không viết tiếp nữa. Tôi để dở dang dưới cái tên "Ðêm hiện dần lên những chấm sao", câu đầu trong bài thơ Nguyễn Bính, người khởi xướng Ðoàn Văn hoá Cứu quốc, rồi Phó Chủ tịch tỉnh bộ Việt Minh tỉnh Rạch Giá, người đã ngủ nóp để sáng tác ở rừng U minh trong Ban Văn nghệ khu 8, đã phiêu lưu từ Bắc vào Nam rồi từ Nam ra Bắc - và, theo một người làm thơ có quen biết và chịu nhiều ảnh hưởng của Nguyễn Bính là Kiên Giang thì sau 1954 tập kết ra Bắc, Nguyễn Bính theo nhóm Ðất Mới và Nhân Văn Giai Phẩm nổi lên chống chế độ đỏ, bị bao vây và cầm tù, bị bắt buộc phải phản tỉnh.
Phần tôi tất cả những gì sâu đậm tôi nghĩ về Nguyễn Bính lại là những vần lục bát: Nhà ta ở dưới gốc cây dương, cách động Hương sơn nửa dặm đường hoặc là Hà Nội ba mươi sáu phố phường, lòng chàng có để một tơ vương... Hồi học tiểu học ở Hà Nội mỗi ngày ôm cặp da lấm mực qua lại đường Sinh Từ, tôi thường dừng lại một tiệm sách ngắm nghía một cuốn thơ in trên giấy thô, ngoài bìa vẽ ngọn sóng màu xanh nhạt. Ðó là Nguyễn Bính của “Lỡ bước sang ngang”. Ðó là Nguyễn Bính, thi sĩ đầu đời của tôi. Ðó là Nguyễn Bính trước thời chia cách Bắc Nam, thời ba tôi rời Hà Nội vào Huế đi làm ở Thiên văn, mỗi ngày thả bóng bay lên trời xem gió mây đi hướng nào. Thời xa lắc xa lơ đó trước một cuộc chia cách đông tây của chúng ta ngày nay với người chết chìm ngoài biển khơi và người ngắc ngoải trong nhà tù mà người ta cứ gọi là trại Học tập.
Anh Q.D.,
Tôi không viết tiếp được vì những lý do lung tung như thế, xin anh thứ lỗi. Nhưng nếu thấy lá thư này thích hợp và có thể xem như một bài viết cho tờ Tuổi Hoa tục bản ở Mỹ, anh tùy nghi sử dụng. Anh có thể đặt tên nó là Con Sáo hoặc cứ giữ cái tên mà tôi đã đặt cho tám trang giấy dở dang kia.
Năm 1957, Nguyễn Bính ở ngoài Bắc nhìn trời sao nhớ một người ở miền Nam vĩ tuyến. Bây giờ chúng ta đứng bên này quả đất nhìn sao mà nhớ cả quê hương.
Cuộc đời Nguyễn Bính thế nào, quả thực tôi không biết rõ ngoài những tài liệu rời rạc mất còn, tùy sử quan, tùy những trôi nổi đông tây nam bắc giữa các mâu thuẫn chính trị mịt mờ. Nhưng tôi biết, chúng ta vẫn có cùng một câu hỏi với Nguyễn Bính: Ai biết cầu Ô ở chỗ nào?
Vâng, ai biết cầu Ô ở chỗ nào?
Và các con em của chúng ta ở Mỹ đọc báo Việt liệu có hiểu những chữ cầu Ô và sông Ngân? Và khi hiểu rồi thì liệu chúng có trả lời được cái cầu Ô kia nó ở chỗ nào?
Thân ái.
7.
Tình hoang mang gợi tứ hoang mang
Trời đất bốn mùa xuân hạ thu đông. Mùa nào thức ấy. Xuân, hoa nở bướm bay. Hè,ø mặc quần cộc lái xe đi tắm hồ. Thu, nhìn lá rơi nghe chuông nhà thờ đổ. Ðông, lạnh co ro, bật hít tơ lên rồi mà sáng ngủ dậy vẫn nhức xương chết bỏ.
Thi sĩ, phần lớn làm thơ về mùa xuân. Lúc khí trời ấm áp chim chóc đậu trên giây điện như những nốt nhạc đứng trên khuông nhạc. Tiếng của chim líu lo đẩy người ta bước ra ngoài trời ngắm hoa đào hoa mận. Ðủ thứ hoa. Vô số là hoa.
Nói thế không có nghĩa là không có thi sĩ làm thơ về mùa thu, mùa hè hay mùa đông.
Thi sĩ mùa thu thích nói về lá vàng, lá khô và con nai. Thi sĩ mùa hè hay nói về hoa phượng đỏ, ve sầu kêu ra rả. Ðây là nói về các thi sĩ Việt Nam thuở đi học của những thế hệ 40, 50, 60, và ngay cả 70.
Còn mùa đông ở Mỹ? Thi sĩ Việt Nam buồn da diết.
Thi sĩ nhớ vợ, nhớ con, nhớ nhà.
Trời lạnh dưới không độ, nhìn ra chỉ thấy màu trắng xóa. Nửa đêm không ngủ, co cẳng ngồi sản xuất thiếu gì là thơ. Vần nào chẳng lạnh?
Nhưng nói chung, thơ có mùa.
Thơ có cơn như sốt rét ngã nước, hay nói rõ hơn, động kinh.
Thơ, có khi chỉ một lần.
Thơ có khi đi luôn: thi sĩ trở về làm cán sự xã hội, nhà buôn, thợ điện. Không bao giờ thi sĩ nữa.
Giang Yêm, đời Lương bên Tầu: lúc trẻ thơ văn được đời ca tụng. Lúc già, thơ văn chẳng lão luyện hơn mà lại thoái bộ đi. Ấy người ta đồn: Giang Yêm bơi thuyền ngừng ở bến nước mà ngủ, mộng thấy một ông bước tới đòi xấp lụa. Chàng Giang rút trong người ra tám thước lụa trả lại. Tại sao tám thước, ai ø biết? Từ đó văn thơ chẳng ra gì. Cái đó kêu là Giang Lang Tài Tận.
Tất nhiên cũng có những thi sĩ suốt đời. Thi sĩ bốn mùa. Mùa nào cũng thơ. Ði ba bước: bài ngắn. Bẩy bước: bài dài. Vòng trở lại là thơ Liên hoàn. Chợt chụm chân dừng lại: thơ Yết hậu. Diêm Vương phán hỏi mang gì đó? Be.
Thơ là nhạc. Nhạc là nhịp. Thơ thoát ra từ tiếng trống.
Trống của trẻ con Việt Nam là trống múa lân. Múa sư tử. Nó đơn giản:
Bằng bằng
Bằng bằng
Bằng bằng trắc bằng bằng.
Tiếng bằng gõ trên mặt trống. Tiếng trắc gõ trên thành trống. Ðiệu thơ của bé thơ là điệu thơ mạnh khoẻ. Mỗi nhịp thơ gọn như nhịp trống tùy theo tiếng dùi gõ trên da trống tùng tùng hay thành trống cắc cắc.
Tùng tùng cắc cắc suốt một thời thơ ấu trong những buổi trưa hè kia lúc bé thở bé thơ thiu thiu ngủ, bà mặc yếm ôm cháu nằm trên võng, tóc bà trắng, tóc bà bay phất phơ. Bà quạt nhè nhẹ cái quạt giấy. Bà cất tiếng ru à ơi. Tiếng láy trong bài ru làm cho những nhịp thơ đơn giản của tiếng trống sư tử trở nên mịn màng như những đường cong.
Cái cò...là cái (à) cò vàng
Mẹ đi đắp đàng, con ở (ơi à) với...(à) ai?
Ðột nhiên, bà bảo: Con ở với bà, bà không có vú. Con ở với chú, chú là đàn ông. Rồi lại lục bát. Song thất lục bát. Bẩy chữ. Năm chữ. Thơ dong chơi du lịch trong sách vở sang tận đời Ðường đời Tống bên Tầu.
Bằng bằng trắc trắc trắc bằng bằng
Trắc trắc bằng bằng trắc trắc bằng
Thơ ủ dột. Thơ cho người buồn phiền. Thơ cho đau thương cô quạnh. Thơ đuổi giặc. Thơ khẩu hiệu. Thơ quảng cáo. Thơ cho mọi mục tiêu.
Phẫn chí làm thơ mà đắc chí cũng làm thơ, thế là thế nào?
Thế là thơ kiêu kỳ. Thơ khinh mạn. Thơ vĩ đại. Thơ nhỏ nhen. Thơ khúm núm. Thơ khiêm tốn. Thơ dịu dàng. Thơ giận dữ hùng tráng. Thơ dỡn chơi. Thơ âu yếm và yêu thương.
Thơ nghĩa là thơ nghĩa là thơ
nghĩa là một buổi thấy bơ vơ
một tay cái bút tay tờ giấy
ta giết ta đâm hết thì giờ.
Vậy, thơ đến từ lúc nào? Tất có người biết mà có người không biết.
Cô gái kia da mặt đậm đà như trái bàng quân, thời xuân trẻ cô khoác một sợi giây đỏ trên mái tóc thề. Cô làm thơ từ hồi đi học. Cô đâu có biết? Chàng thi sĩ hai buổi đến trường nhìn cô. Chàng chờ cô về.
Nhưng thơ vẫn không hay.
Thơ đi không ai biết.
Thơ đến không ai hay.
Ði luôn như đã nói. Có khi lại về. Ði đi rồi lại về về, đi đi về về ấy cũng là thơ. Thơ lục bát tự do:
Nhưng cũng là thơ vẫn là thơ
những giòng trôi suôn sẻ như mơ
với lòng yêu thích tôi ghi xuống
với nhiệt tình và với hững hờ.
Ðây là nói về những ngày âu sầu thơ đi qua Mỹ.
Ðời xưa, thi sĩ không làm việc vất vả. Họ có nhiều thì giờ rong chơi đi đi về về với thơ. Họ khoái làm thơ liên hoàn bởi lẽ như thế. Còn các ông sư: tụng kinh thì nhiều mà nói thì ít. Ấy họ hay làm thơ thiền, ba bốn câu ngắn ngủn.
Thơ là người, người cũng là thơ.
Người là thơ, người không cần phải viết. Nếu đời là thơ, trời cũng là thơ. Nếu trời là thơ, ngủ một giấc cũng là thơ. Ðồi núi là thơ. Hoa lá một buổi sớm mai vươn vai thức dậy, ấy cũng là thơ.
Ðời vốn là thơ cần chi viết?
Dấu lặng cũng là nhạc. Nhạc tức là thơ.
Chắc gì chàng thi sĩ làm thơ tình kia đã là tình nhân?
Có những tình nhân đắm đuối.
Có những mối tình lớn và đẹp hơn hết thẩy những mối tình lại không có lấy một giòng thơ.
Cũng như những sinh mạng Việt Nam hàng trăm ngàn vùi thây ngoài biển cả, trong trại tù, hàng triệu trên bãi chiến trường. Không có lấy một quyển sách đáng giá bi thương.
Khi người ta yêu nhiều và yêu thật, người ta làm gì có thời giờ viết thơ tình? Người ta chỉ yêu thôi. Chỉ biết yêu thôi chẳng biết gì.
Còn khi đau thương?
Khi đau thương tuyệt độ? Người ta làm sao kể lể? Ta chỉ đau thôi chẳng nói gì.
Thơ của đau thương là tiếng khóc. Vần của đau thương là nước mắt. Chữ của đau thương là đêm đen. Nhịp của đau thương là giấc ngủ mơ hồ trên xương máu, trên chia ly mà những ngón tay không gõ.
Ðó, vì sao một thi sĩ Việt Nam, Quách Tấn viết: Tình hoang mang gợi từ hoang mang.
8.
Mắt mềm
Ông X., một người Việt Nam bốn mươi tư tuổi từ ngày sang Mỹ bị bệnh phong thấp bỗng nhận thấy cái đau nhức ở khớp xương đầu gối và ở bên vai trái bớt dần. Sau mười một năm ở Mỹ, càng ngày ông càng sợ mùa đông như thỏ sợ nước. Mấy tháng qua sống như con dán thập thò kẹt tủ, chui nhủi trong nhà tối, cửa lúc nào cũng đóng kín, phòng luôn hôi nồng mùi dầu nóng hăng hắc để thoa bóp khớp xương. Thất nghiệp, kiếm chưa ra việc. Nợ nần. Xe hỏng không tiền sửa. Không di chuyển đi đâu. Không thăm ai. Thêm vào căn bệnh nhớ nhung và suy nghĩ mông lung của người xa xứ biến qua hình thái khác: lở loét dạ dày, ợ chua, ưu uất và tiêu cực kinh niên.
Cuối tháng ba 1986, sau mùa đông lạnh lẽo và những cơn bão dai dẳng kéo dài, một hôm màu xám đục trên bầu trời biến mất. Buổi sáng có chim mockingbird hót trên mái nhà. Thỉnh thoảng đàn vịt trời đập cánh bay qua. Rồi nắng ấm rực rỡ đổ xuống trên các con đường có hoa me đất sáu lá, mầm cây peony mọc nụ trắng vươn khỏi mặt đất lúc nào không hay. Hôm sau trời lại nắng. Hôm sau nữa cũng nắng. Cứ như thế mùa đông qua hẳn.
Một buổi sáng thức dậy, mở tung cửa sổ, cuốn mành nhựa, vén cao lá màn ố vàng. Ngồi nheo mắt nhìn đám mây. Khẽ gãi vết mốc dưới cần cổ, lớp bụi khô trên làn da thiếu nắng lả tả rơi xuống. Ông ngắm ánh sáng trên hàng cây.
Bất chợt, trong cơn hứng chí của một ngày nắng mới, ông lấy giấy bút viết cho một người bạn ở Santa Ana. Lá thư dài khoảng bảy trang giấy viết tay. Lời lẽ như sau:
San Jose, 29 tháng 3 năm 1986
Xin loan báo cho văn sĩ được biết: Bẵng một thời gian, trên này văn chương lưu vong tưởng chừng tàn tạ, bỗng trở lại mạnh mẽ như mùa xuân.
Năm nay nó đến muộn. Ấy chỉ vì bắc Cali liên tiếp bị bão. Hết bão lại mưa. Mưa lại bão. Bão rớt. Cam nho lê táo còn thối cả chớ gì đến văn chương. Nhưng may thay cái gì vơi lại đầy. Hôm nay nắng to. Ðêm qua trăng khuyết nhưng trăng đã sáng. Sao hôm sao mai đã chiếu tỏ ngời. Cứ điềm này văn chương đang đơm hoa kết trái.
Bắc Cali đã chuẩn bị kỹ. Tuần rồi người ta ra mắt đến ba quyển sách Việt ngữ một lúc. Các văn, thi, hoạ sĩ, triết gia, biên khảo kiêm võ sĩ thay phiên đăng đàn nói chuyện trước máy phóng thanh. Họ đều chụp ảnh đăng báo Việt ngữ y hệt miền nam Cali hay là Texas, Washington D.C., Seattle, những miền có cộng đồng người Việt lớn mạnh, có tiệm ăn tiệm phở. Các nhạc sĩ đang lau chùi dây đàn. Các ca sĩ ậm ừ thử tiếng. Nhạc sĩ P.D. vừa lên đây dắt theo cả ca sĩ Mỹ hát tiếng Việt. Ai nấy chuẩn bị xếp hàng xuất hiện trước công chúng biểu diễn tài khéo về mọi ngành thi ca vũ nhạc kịch Việt Nam. Kịch bản có người in rồi. Kịch sĩ tuyển rồi. Triển lãm hội họa Việt Nam khởi sắc lắm. Tất nhiên có cả tranh lụa. Xin nói rõ cho văn sĩ và thế giới biết: San Jose mới đích thực là thủ đô văn hóa của người Việt lưu vong. Gia Nã Ðại là đồ bỏ, Ba Lê là đồ bỏ. Santa Ana, Orange County tục gọi là quận Cam dưới nam Cali dù có xuất bản nhiều báo Việt, xét kỹ chỉ là thủ đô thương mại. Thương mại là thế nào? Nó là cái cân có đổ thủy ngân. Nó muốn lệch bên nào cũng được.
Quận Cam ơi hỡi quận Cam
Buôn đi bán lại làng nhàng thế thôi
Nhưng buôn với bán! Quanh quẩn đua nhau mở tiệm cà phê hủ tiếu, phở bò, phở gà, lúc lời, lúc lỗ. Than ôi! Quân tử thực vô cầu bão. San Jose đây không cần ăn uống bao nhiêu. Dẫu vậy cũng đủ dăm tiệm cà phê hủ tíu cho các văn nghệ sĩ Việt Nam lui tới đàm đạo với nhau về tất cả các vấn đề to nhỏ. Vấn đề gì? Nói cho ngay có khi bí. Có khi chỉ ngồi đực mặt nhìn nhau rung đùi là la lá. Ấy chính là:
Một lũ văn veo túm tụm nhau
Ðứa thì than khổ đứa than đau
Ðứa ngồi đực mặt là la lá
Ðứa ngẩn tò te đứa lắc đầu
Lắc chán tất phải gật. Chẳng biết gây sự với ai thì gây sự với nhau. Nhưng đó là dĩ vãng: Chửi rồi lại đồng ý. Không đồng ý biết giao du với ai? Quan điểm chính trị? Tương lai nước nhà? Văn chương hải ngoại? Sinh hoạt cộng đồng? Bảo tồn văn hoá? Bây giờ chúng tôi đồng ý. Chúng tôi đồng ý cái gì? Ðồng ý rằng chúng tôi chán cả Cộng Sản lẫn Tư Bản. Chúng tôi yêu nhau và chúng tôi chống hết. Chúng tôi yêu mình lẫn yêu người. Chúng tôi đi vào giai đoạn thảo luận cởi mở, yêu thương hết lòng, chắc sẽ có ngày đồng ý hết lòng. Thưa văn sĩ: Ðồng ý chính là một cái tát vào mặt bọn xuyên tạc hay nói xấu người Việt Nam ta chia rẽ, không biết gật gù với nhau.
Văn học nghệ thuật như thế mà về mặt lễ lạc cổ truyền San Jose cũng dẫn đạo. Giổ tổ Hùng Vương? Hội Tết Nguyên Ðán? Lễ nào cũng đủ. Tết nào cũng có. Gần đây lễ Hai Bà Trưng to đáo để. Chị em cầm kiếm, cầm cờ, áo đỏ, áo vàng, chỉ thiếu hai con voi đi song đôi. Ðược cái chị em xếp hàng hát rất to. Họ hát gì? Hát y như các nữ sinh Trưng Vương ngày xửa ngày xưa. Mắt phượng mày ngài quắc lên. Chị em hùng tráng quá làm các bà già xưa là nữ sinh Trưng Vương thích chí nhịp chân đồm độp, các ông già nam sinh Chu Văn An phải kín đáo kéo lưng: Xin làm ơn giữ trật tự. Có kỷ luật mới có sức mạnh.
Mục này tất nhiên phe tiêu cực bàn ra tán vào. Có kẻ nại đến thánh Khổng bên Tầu. Ðức thánh Khổng nói gì? Ngài nói: Nhân nhi bất nhân, như lễ hà? Nhân nhi bất nhân như nhạc hà? Người đã bất nhân thời có lễ mà làm sao nên lễ? Người đã bất nhân dẫu có nhạc mà làm sao nên nhạc? Theo nơi lẽ trời mà bổ tiết văn trật tự gọi là lễ. Gốc ở đạo người biểu hiện nơi tiết tấu thanh âm thời gọi bằng nhạc. Vậy nên làm lễ làm nhạc tất phải lấy gốc ở lòng Nhân mà tỏ rõ ra, vậy lễ mới nên lễ, nhạc mới nên nhạc. Ðại khái như thế...như thế... Cho nên đức thánh Khổng ngài còn nói ví dầu người đã bất nhân thời lẽ trời mất hẳn mà đạo người chẳng ra gì, lễ nhạc làm ra đó chỉ thấy ngọc lụa chuông trống mà thôi, có gì là lễ nhạc thiệt đâu? Tức là: Lễ vân, lễ vân ngọc thạch vân hồ tai. Nhạc vân, nhạc vân, chung cổ vân hồ tai.
Ðiểm này thiết tưởng San Jose ít phải e dè. Chúng tôi là tỉnh chuyên nghề điện tử. Chúng tôi có thán phục các tiến bộ kỹ thuật của người nhưng vẫn duy trì gốc Nhân của mình. Cộng đồng toàn chuyện tử tế: không cãi cọ, không chửi bới, không cướp bóc, không bắn người. Nói cho đúng lâu lâu cũng có nhưng chuyện xảy ra đã mấy tuần rồi. Ở đây đạo nhân (có người dịch sang tiếng Mỹ là đạo Man?) bao trùm khắp cả. Tại sao giỏi thế? Ấy cũng một phần nhờ phim Tầu phổ biến rộng rãi. Trẻ con có quên tiếng Việt, chữ Việt ít nhiều nhưng vẫn đều đặn xem phim Tầu. Video tape mỗi bộ 15, 20 cuốn, đủ Trung, Hiếu, Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín. Nhờ mấy bộ phim này, trẻ con Việt Nam vẫn đàng hoàng. Nhiều đứa bỏ quần Jean mặc quần Tầu thắt giải rút. Nhiều đứa đi giày Tầu 2 đồng 99 xuống một đôi. Như vậy kể cũng hơi quá nhưng đâu cần ba cái chi tiết lẻ tẻ.
Ngoài ra, bọn hủ nho hay chấp nhất, kể làm gì. Lúc sinh thời ngài Lý Bạch có bài thơ chào bọn họ như vầy:
Lỗ tẩu đàm ngũ kinh
Bạch phát tử chương cú
Vấn dĩ kinh tế sách
Mang như trụy yên vụ
Dịch nghĩa: Mấy ông đồ Lỗ đàm đạo năm kinh. Tóc bạc trắng với mấy đoạn sách chết. Hỏi đến mưu lược kinh tế thì hoang mang như lạc vào khói mù!
Tạm dịch nôm:
Bạc đầu mấy bác hủ nho
Nhai đi gặm lại dăm pho sách Tầu
Chợt nghe người hỏi đến câu
King bang tế thế lắc đầu chịu thua.
Tỉnh chúng tôi đây sáng suốt quyết định theo đường lối chính nho chứ tuyệt nhiên bỏ hẳn cung cách Tống nho, hủ nho. Chúng tôi lại còn biết rút tỉa cái tinh túy của Ðông với Tây phối hợp với nhau như AÂm với Dương. "Trước phải hiểu lịch sử nước nhà, sau phải coi phong trào thế giới. Ðâu là dại? Ðâu là khôn? Ðâu là quốc túy phải giữ gìn? Ðâu là cái hại phải cắt đứt?" Câu này có kẻ bảo là của cụ Phan Châu Trinh, có người quyết là của cụ Nguyễn Bá Học. Của ai cũng được miễn nội dung đúng thì thôi.
Ấy bây giờ gặp gỡ nhau ở quán phở sau khi long trọng bắt tay theo lối AÂu Mỹ nhiều người còn kỹ càng chắp lại theo thế hoa sen hoặc theo thế quả đấm xá nhau cho đủ lễ. Dẫu sao những chuyện hiểu lầm, hiềm khích lặt vặt từ 11 năm qua sáng tỏ rồi. Mùa này chúng tôi thiên về việc nói tốt. Có khi càng tốt càng hay. Tỉ như ai làm một bài thơ thì được gọi là Thi sĩ. Hai bài gọi là Thi hào. Ba bài là Thi bá. Bốn bài trở lên là Thi vương. Trên 100 bài kể là Thi đế. Thi đế có quyền gì? Thi đế là những bậc có quyền ăn chịu ở các quán phở, được đi giày chân trái sang chân phải. Ngoài ra còn được mặc quần ngủ tức là mặc quần pyjamas dạo phố mà khỏi sợ ai nói gì.
Ngồi xuống với nhau, chúng tôi hiểu lập tức ta sai chỗ nào đúng chỗ nào? Người sai chỗ nào, đúng chỗ nào. Không phải cái gì của ta cũng đúng. Không phải cái gì của người cũng bảnh. Chúng tôi nghiêm chỉnh nghiên cứu thảo luận để đón chờ những ngày nắng ráo như ngày hôm nay mà xây đắp tương lai tươi sáng.
Chúng tôi hiện rất bằng lòng với cộng đồng Việt Nam điạ phương mình. Chúng tôi sẵn sàng tiếp tục các công cuộc sáng tác mới thuộc về mùa hạ mùa xuân. Lại nữa, thưa văn sĩ, Văn chương là cái gì? Văn là vẻ đẹp, chương là vẻ sáng. Mùa hạ mùa xuân vừa đẹp vừa sáng. Tự nó đã là văn chương. Tự nó có nắng ấm. Tự nó có hoa nở. Nó có gởi thông điệp gì không? Có thể có, có thể không.
Ấy là chuyện chung. Còn về phần mình, tiện đây xin tin văn sĩ biết: Hôm qua tôi đã cả gan nhận lời đi cưỡi ngựa với bạn chúng ta, bà Cookie, mặc dầu cái chân còn hơi đau. Chân đau thì mặc chân đau, tôi yêu thiên nhiên có kém gì? Nên chúng tôi đã dong ngựa lên những ngọn đồi xem hoa mơ hoa mận. Nếu anh hỏi cưỡi ngựa có khó chăng? Không, cưỡi ngựa dễ lắm chứ. Chỉ cần nhớ lúc cưỡi ngựa phải hoà hợp với con ngựa. Ðừng cứng ngắc trên lưng ngựa. Phải giữ lấy cái tâm điểm của sức mạnh và quyền lực. Cái điểm ấy ở đâu? Việc học cưỡi ngựa cũng như học triết Ðông. Học bằng Trí lẫn Tâm. Hãy nói với con ngựa. Hãy nói bằng lời. Hãy nói bằng cả tinh thần và tâm linh.
Cái tâm điểm là ở chỗ ấy. Khi ngồi trên lưng ngựa phải xem như để một cục cà rem trên đỉnh đầu, lúc cà rem chẩy nó phải chẩy dọc xuống tận gót giầy. Cái đầu lắc theo nhịp ngựa, mặc nó, giữ cho cục cà rem chẩy xuống. Khi ngựa nhịp qua phải, ép qua phải. Khi nó ép qua trái, ép qua trái. Ði với nhịp ngựa như đi với nhịp đời. Muốn kiềm chế ngựa trước hết phải đi với nhịp ngựa trước đã.
Hãy ngồi sâu trên yên nhưng ngồi thoải mái.
Hãy thấy thế giới như thấy một toàn thể chứ không phải là một bộ phận cứng ngắc nhỏ bé vụn vặt.
Hãy giữ cho mắt mềm.
Ðừng cau mắt như người hằn học. Ðừng thâu nhãn quang vào một điểm như nhìn vào đường hầm.
Khi mắt mềm, thân hình người cưỡi ngựa cũng mềm mại thoải mái, con ngựa sẽ cảm được, biết được, sẽ đi theo hiệu lệnh như theo bạn đồng hành thân ái.
Thưa văn sĩ Q., tôi có bị bong da ở bàn toạ nhưng hôm nay lại khoẻ khoắn thoải mái hơn mấy tháng thiếu vận động. Thiếu khí trời. Thiếu sinh lực. Ngoài ra rất vui khi được biết ở trại nuôi ngựa có nhiều người cũng yêu cả mùi phân ngựa như ta yêu mùi phân bò. Họ bảo đó là mùi thiên nhiên, mùi đất, cỏ, rơm rạ, đồi núi rừng cây chứ không phải như mùi xăng nhớt, dầu máy ngột ngạt trên xa lộ, trong xưởng thợ.
Thư ngắn tình dài, đến đây tạm dứt. Gửi lời chào đoàn kết.
Ðoàn kết là sống, chia rẽ là chết.
*
Viết xong lá thư, ông Nguyễn Văn X. ký tên vào góc giấy: Thi sĩ X.. Chữ X. viết hoa kéo dài. Gấp lá thư lại bỏ vào bì. Ðưa tay rút ngăn kéo. Lấy con tem 22 xu dán vào bì. Lấy bút đề địa chỉ lên bì thư. Cầm cái bì thư đứng dậy, chân trái còn hơi đau nhưng đã bớt nhiều so với mấy hôm trời lạnh. Mở cửa bước ra gài cái thư lên hộp thư đặt cạnh cửa ra vào. Mỗi ngày người phát thư đến lúc 3 giờ chiều sẽ lấy thư đi. Bước vào bếp nhắc cái điện thoại treo tường áp lên tai. Bấm một hàng bẩy con số. Ðầu bên kia chuông điện thoại reo hai lần. Lần thứ ba chuông ngừng. Một giọng nói đàn bà thâu băng từ trước đều đặn cất lên bằng tiếng Anh: "Xin chào! Ðây là điện thoại của Cookie. Rất tiếc hiện giờ tôi không có mặt. Sau khi nghe một tiếng Bip, xin vui lòng để lại tên, số điện thoại và điều gì cần nhắn. Khi trở về tôi sẽ gọi lại. Cám ơn."
9.
Thư của một người di cư nhức đầu vừa phải
Bạn, trước mặt tôi là tấm ảnh một người đàn ông đi xe gắn máy mặc cái quần trắng bằng vải thô. Quần ống rộng, thắt giải rút, mặc thoải mái. Quần này người ta thường dùng trong những buổi tập võ Nhật như Judo, Aikido hoặc võ Ðại hàn Taekwondo, Hapkido. Thiết nghĩ không cần phải dùng chuyển ngữ vì những chữ này trở thành phổ thông quốc tế.
Phía trước xe gắn máy là cái giỏ đựng đồ. Trong giỏ, một bao giấy màu nâu, hai cuốn giấy dựng đứng, có thể là hai cái bản đồ hoặc hai tấm khẩu hiệu cuộn tròn. Thoáng nhìn người ta nhầm tưởng là hai khúc bánh mì khổ lớn.
Người đàn ông mặc áo cụt tay mầu đen loại thể thao.
Trên đầu, anh ta quấn cái khăn tay màu đỏ kiểu tướng cướp biển trong truyện trẻ con AÂu Châu, hoặc kiểu một người lính Thủy quân lục chiến Mỹ đánh trận ở Việt Nam trên phim ảnh, hoặc như một phi công Thần phong Nhật bản thời đệ nhị thế chiến. Tất nhiên cái khăn quấn trên đầu các phi công Thần phong không phải là mầu đỏ mà là mầu trắng. Mầu của sự trở về. Mầu an nghỉ tinh khiết. Còn mầu đỏ, mầu máu. Mầu chiến thắng, mầu của sức mạnh bạo tàn.
Mặc dầu vậy, trong tấm ảnh người đàn ông đi xe gắn máy lại có vẻ giống như một nông dân miền Nam nước Pháp đang ung dung đạp xe đi mua bánh mì về cho vợ con. Ông ta chắc chắn hiền hoà hơn anh D. người Việt Nam hào hùng sinh trưởng ở xứ Nghệ, gốc nông dân, hay là anh P. cựu Ðại úy Pháo binh trước ngụ ở xóm Bàn cờ Sài Gòn, thường tự hào về khoa khiêu vũ, hay ngay cả anh C. một bác sĩ quân y khả kính, chánh quán làng Bạch mai Hà Nội, gầy ốm nhưng nhiều nghị lực đến nỗi chúng tôi phát sợ. Tất cả những anh D. P.C. và tôi đều có một điểm giống nhau thuộc về nguồn chủng tộc và xuất xứ địa lý, nay lại di cư đến cùng một tiểu bang ở nước Mỹ, ít nhất tôi có thể kể như vậy.
Nhưng bạn ơi, sự giống nhau trong nhiều trường hợp chưa chắc nói lên một điều gì. Thường nó chỉ làm cho người ta hoang mang như khi suy ngẫm về chân lý. Tuy vậy tôi vẫn có thói quen của người đi tìm sự giống nhau để chuyển những câu chuyện lạ hoắc thành chuyện quen thuộc mà kết luận đơn giản. Ðiều này cũng xẩy ra cho nhiều người khác trong chúng ta, những kẻ rời bỏ, ra đi, những kẻ kém hài lòng với những gì mới mẻ, nên phải thường xuyên so sánh đối chiếu tỉ giảo với các sự việc cũ kỹ trong đời sống hàng ngày. Lại nữa chúng ta đều đặn đào bới dĩ vãng, dẫu cho các biến động có sôi sục cách nào thì nó cũng đã xẩy ra, chúng ta đang sống, nhưng chúng ta vẫn cứ lục lọi ký ức về sự thống khổ để tiếp tục thống khổ triền miên hoặc lấy cớ định hướng cho lộ trình mới, cũng thường moi móc ký ức về những quãng đời bình an và niềm vui sướng mà an ủi lẫn nhau dẫu sau đó chúng ta có ngậm ngùi và buồn rầu nhiều hay ít.
Tôi có thể lặp lại đa số người ta thích chấp nhận các chân lý quy ước phổ thông, nó giúp người ta ngừng lại, nó giúp người ta phản ứng dễ chịu hơn là chạy hun hút theo cái xa thẳm và biến đổi vô chừng.
Ðiều ấy cũng giống như khi đọc lịch sử, đối diện với các biến động, suy nghĩ đôi chút, đối diện với quy luật của biến động, ngất ngây khám phá ra cái hấp dụ của những khả năng tâm thần có tính siêu hình, nhưng đến khi người ta thất lạc giữa đời sống, lại chối bỏ, ngoảnh mặt đi, giả vờ không thấy, không biết, rồi quay lại bình thản ngồi ăn sáng với trang nhất của những tờ nhật báo bên cạnh ly cà phê sữa bò ngọt lợ, xem tin tức trên vô tuyến truyền hình, đọc những lá thư nhà đầm đìa nước mắt, lo những món tiền nợ trả góp, giải quyết mối hiềm khích nhỏ nhặt hàng ngày. Có phải vì đó người ta dựa vào lý luận mặc dầu người ta cũng biết lý luận chỉ nằm trong giới hạn kiến thức hay kinh nghiệm cá nhân.
Những điều ấy xẩy ra cho tôi như cách tôi kể chuyện đây, nó giúp tôi thỏa hiệp, nó làm tôi tưởng tôi mạnh mẽ như anh D. bạn tôi, một người gốc gác nông dân xứ Nghệ, to khỏe nhưng vụng về. Tất nhiên tôi có thể kể xứ Nghệ ở đâu, nó là tỉnh điạ đầu miền Trung nước Việt, có thể nói là cũng đẹp. Tôi có thể kể chuyện dài xứ Nghệ với nhiều chi tiết lý thú để bạn theo dõi, tò mò, say sưa với kỹ thuật thắt nút mở nút, để bạn cảm phục hay cười ồ. Nhưng điều ấy tạo nên những chi tiết lòe loẹt nào có ích gì? Bạn có thể hỏi. Nhưng mặt khác tôi cũng có thể nói: đáng tiếc, chúng ta yêu sự thật nhưng ghét cái rườm rà của chi tiết. Chúng ta thích cái gì dễ hiểu, đừng dài giòng, phức tạp quá, ví dụ như chuyện người đàn ông đi xe gắn máy quấn khăn đỏ phải có liên hệ gì với những chuyện này, các biến cố nào đã xẩy ra để người ta có thể chăm chú lắng nghe.
Do đó tôi lìa bỏ trực giác hoặc những khả năng bén nhạy khác, tự lùa mình như cừu đi vào các biện chứng có hệ thống. Tôi còn quá quắt hơn, ví dụ đơn giản luôn cả lý luận bằng sức mạnh, dựa trên các chứng nghiệm thiên nhiên, tôi bảo đây mới đích thực và khi biết như thế, tôi an toàn.
Việc ấy tạo nên những hậu quả thô kệch cho bạn, cho tôi, cho thế giới ngày nay mà chúng ta đang phải lãnh chịu đây, thực ra nó vừa có tính thiên nhiên vừa có tính nhân tạo, như là ngửi mùi các đám mây phóng xạ từ nhà máy nguyên tử do chính chúng ta kiêu hãnh dựng nên, như là rời bỏ quê nhà đến sinh sống ở một cõi đời xa xôi mù mịt.
Việc ấy giống như bạn tôi, người nông dân xứ Nghệ có thể nói là cũng biết mềm mỏng khi cần, có thể nói trời ban cho anh ta một khối óc vượt trên trung bình, trời lại cho anh ta những bắp thịt rắn chắc, rồi anh phải bỏ đất mà đi, và anh ta thì hơi vụng. Bạn hãy đồng ý như thế. Người ta đi tìm sự đồng ý là để cảm thấy an toàn cho bất cứ điều gì như một quan điểm, giá trị, ý thức thẩm mỹ, nghệ thuật, ngay cả khi cãi cọ lặt vặt người ta cũng tìm đồng minh. Khi trơ trọi quá người ta tìm cách đồng minh với Thượng đế.
Bạn, xin nói thêm: Người ta tưởng người ta biểu dương trí tuệ và linh hồn cao quí khi nhắc đến Thượng đế, nhưng trong nhiều trường hợp người ta nói về Thượng đế, to tiếng phủ nhận hay chấp nhận Thượng đế chỉ vì người ta đau khổ, tham lam, ngu muội hay đê hèn.
Bạn lại hỏi vậy có liên quan gì đến câu chuyện mà tôi nói đây, bắt đầu bằng tấm ảnh của người đàn ông đi xe gắn máy quấn cái khăn tay đỏ trên đầu? Nhưng người đàn ông ấy có đáng gì để nói hơn so với những điều khác chúng ta có thể trao đổi với nhau, tỉ như ý niệm đối lập về giá trị làm cho người ta kinh sợ đến nỗi người ta trở nên nói lắp, nghiến răng trong giấc ngủ, khổ sở vì nghiện rượu, như ý niệm yêu đời và bất mãn với cuộc đời làm cho người ta say mê cách mạng, say mê hành động, say mê văn chương nghệ thuật, hoặc chìm đắm trong các suy tưởng tôn giáo và siêu hình?
Bạn tôi anh P. một cựu Ðại uý Pháo binh có thể giải thích rõ điều này với tất cả những ai kiên nhẫn lắng nghe. Anh ta vốn hay nói. Anh có thể kể hết những chuyện bông đùa như trẻ con nhẩy nhót chạy chơi từ đầu nọ sang đầu kia trong căn phòng của một ngôi nhà trống. Ðiều anh nói, đôi khi lại cho chúng ta khá nhiều chi tiết quan trọng như những thùng nước ngọt trên con tàu vượt biên đầy ắp đàn ông đàn bà trẻ con Việt Nam bỏ xứ đi dưới bão tố gay gắt, như cái vít lửa bé tí trong dàn máy nổ lại vĩ đại với hàng trăm sinh mạng, như ánh nắng đầu tiên của một buổi sớm mai mùa xuân trong ngày thoát nạn đến định cư tại một thành phố băng tuyết lạnh lẽo ở miền bắc trung bộ nước Mỹ.
Các chi tiết khác mà phần tôi có thể kể thêm được như anh C. bạn tôi, một cựu Bác sĩ quân y khả kính đã có thái độ cao cả trong hầm tối, từng ngồi viết hàng ngàn bài thơ bằng những giòng chữ nhỏ nhít suốt tám năm bị giam cầm trong các trại cải tạo sau khi Việt Nam tuyên bố thống nhất, độc lập, tự do. Anh ta chọn ở lại sau một cuộc chiến t, rút cục cũng chọn ra đi sau hoà bình khó thở.
Cũng có những chi tiết khác đôi khi khá cần thiết như đùa cợt, là viên thuốc quý cho lúc tinh thần suy sụp, gia vị cho buổi gặp gỡ và những câu chuyện ngượng ngùng nhạt nhẽo. Như nụ cười, vẻ đáng yêu của cô con gái xinh tươi. Và tôi cũng nói như thế khi tôi nghĩ đùa cợt giống như đóa hoa. Những đóa hoa đỏ, trắng, tím, đặt trên cái xe gỗ con con ở góc đường Haste và Telegraph gần đại học Berkeley. Những đóa hoa lúc nào cũng mỉm cười dưới nắng mà chào khách bộ hành bước qua, bất kể đấy là một anh sinh viên Tầu Lục Ðịa hay Tầu Ðài Loan sang Mỹ du học, một du khách Phi châu khoác máy ảnh, mắt mở lớn, hay một gã di cư Việt Nam âu sầu bước đâu cũng lê trên dĩ vãng.
"Est ce que le globe terrestre est beau? Ah, oui, très beau"
Tấm ảnh người đàn ông quấn khăn tay đỏ trước mặt tôi có lẽ là ảnh người chồng cũ của L. Jacobs hay có thể chỉ là một người bạn trai của L. "Trái đất này thật đẹp phải không? À, vâng, đẹp lắm." Tai tôi đã nhiều lần nghe L., người gốc Do thái, reo lên bằng tiếng Pháp giọng Mỹ. Ðôi khi tôi cũng muốn tru tréo như thế với giọng Việt Nam "Ah, oui, très beau". À vâng, đẹp lắm. Hoặc tiếng Lào, tiếng Mỹ, tiếng Tây ban nha, bất cứ tiếng nào có thể làm cho tôi tin được như vậy, mãi mãi. Forever, forever. Như các cặp tình nhân. Mãi mãi, mãi mãi. Nhưng đâu có phải. Hay có phải? Cái gì đẹp đẽ mãi mãi? Trái đất này.
Một buổi sáng ở San Francisco, mây bay là là trên mặt vịnh. Không ai còn nhìn thấy cây cầu Golden Gate ỏ đâu. Thành phố chỉ chực khóc, có lẽ thời tiết xấu. Hôm ấy tôi cũng muốn tru tréo lên Ah, oui, très beau. Nước mắt ở lưng trời. Sương mù thấp và đục. Nước mắt không rơi. Bạn ơi, nếu anh thấy cuộc đời tiêu cực, có lẽ nó sẽ tiêu cực, và ngược lại, hãy thử coi.
L. mặc cái áo khoác mầu đen. Váy dài có những cánh hoa cam. Cổ áo gắn huy hiệu màu đen với những chữ A màu đỏ.
"Chữ A viết tắt cái gì vậy?
"Anarchy."
Vô chính phủ, nàng nói. Cặp mắt không động đậy sau cặp kính trắng. Chúng tôi ghé vào tiệm cà phê góc đường, từ đó, có thể nhìn thấy những đoàn người mặc quần áo lạnh xám túa ra khỏi miệng hầm tàu điện ngầm. Họ vội leo khỏi các bậc thang, trồi lên trên mặt đất.
Tôi uống cà phê. Cắt miếng bơ mỏng trét lên cái bánh bột mì trộn nho đen. Người ta mở nhạc, tiếng đàn như những con dao cứa vào thớ gỗ. Khách trong quán đều ẩm mốc. L. nói bây giờ hãy còn sớm. Lát nữa bọn Boheme sẽ ra đây. Bọn trí thức, nhà văn, nghệ sĩ. Chúng quanh quẩn uống cà phê nói dóc, linh hoạt hơn nhưng chẳng làm nên cái gì. Tôi bảo phải. Chỉ làm phân bón. Mà không có phân bón thì câylại èo uột.
Ðêm đầu đến nhà L. tôi gọi điện thoại cho P. cựu Ðại úy Pháo binh lúc quá nửa đêm. P. gắt lên. Làm cái gì mà gọi giờ này. Chẳng làm gì. Tôi nói. Chỉ nằm vậy thôi. L. nắm ngón tay tôi. Tôi nhìn lên tường. Bức tường treo tấm tranh con cóc vĩ đại có đôi mắt đỏ giương thao láo. Nhìn nó, tôi bảo chỉ muốn chết phứt. Tôi có thể nhẩy từ cây cầu Golden Gate xuống biển như lão W. người Nga gốc Do thái, chú họ của L.. Tôi có thể kê đầu lên đường sắt cho một trăm toa tầu chạy qua. Tôi có thể dùng dao cắt bánh mì đâm vào bụng xẻ ngược lên như võ sĩ Nhật bản. L. gác cái chân mềm như miếng thịt bò lên chân tôi. Nàng nói trên giường này đã có ba người đàn ông đòi chết, chẳng ngạc nhiên gì về những chuyện như thế. Tôi hỏi ba người đó là ai. Ờ, toàn những tay nghệ sĩ không biết lo liệu cho mình. Trước hết, thằng cha Ba Tây chồng cũ của tôi. Rồi thằng A Phú Hãn vẽ bức tranh con cóc. Một thằng Chí Lợi chơi nhạc dân ca. Bây giờ là anh. Chẳng có thằng cha di cư nào lại dại dột, trừ lão W. xin xỏ mãi mới sang được Mỹ lại nhẩỷ xuống biển sâu. Tôi hỏi thằng cha A Phú Hãn vẽ tranh con cóc này là họa sĩ à? Nó nghĩ thế. L. trả lời. Tôi bảo cái tranh con cóc này lạ lắm Nó có đôi mắt đỏ. Mắt quỷ. Khi tắt đèn vẫn cứ trừng trừng ở đầu giường. Nó thấy hết. Nó thấy thằng cha Ba Tây. Nó thấy thằng A Phú Hãn vẽ ra nó. Nó thấy thằng Chí Lợi chơi nhạc dân ca. Nó thấy tôi. Nó thấy những điều người ta muốn che dấu đi như che các chi tiết, che vụ lão W. nhẩy xuống biển, che dấu nhau những thùng nước ngọt trên các con tầu vượt biên, che nỗi u buồn. L. nhỏm dậy vớ chai rượu với cái ly ở đầu giường. Tợp một tợp. Uống buổi sáng, buổi trưa, buổi chiều, buổi tối là tốt nhất. Vào những giờ đó, người ta quên được những gì người ta mất.
Quên đôi mắt thao láo không bỏ sót chi tiết. Nhìn thấu suốt những gì không muốn phân tích sỗ sàng. Vả chăng tôi cũng chỉ là một người thường thường, lỡ đã có cái thẩm mỹ cổ điển của người xứ tôi. Ðôi khi tôi niệm Phật. Ðôi khi lo âu một cách hờ hững. Tôi ghét sự bạc nhược và thô bỉ của tôi. Tôi giả vờ coi nhẹ nhiều chuyện ví dụ cơm áo nhưng có lẽ không phải. Tôi bắt đầu lười biếng và thiếu kỷ luật. Sức mạnh bản thân tôi chỉ là đối thủ loại xoàng đối với cuộc đời mỗi khi tôi nói, suy tưởng và hứa hẹn. Tôi tự vệ bằng lý luận. Thế là không sòng phẳng. Bọn chúng ta kể cả anh D. người Nghệ, anh P. xóm Bàn cờ, anh C. làng Bạch mai, lúc nào chẳng đầy lý luận. Trái tim thì mềm xèo. Và hạnh phúc cùng với cảm xúc sốc nổi liên hệ nhau như hình với bóng, đôi lúc hình đi một nơi, bóng đi một nẻo. Cái bóng, trí nhớ sâu đậm, đám mây luôn bay về một phương trời xa xăm, những bãi biển và con đường phố. Ở một nơi nào xưa kia khi ngồi nhấm nháp với linh hồn trong trắng như cái áo choàng của một cô y tá, cạnh những gã thiếu niên mặt mụn không biết tắt nụ cười.
L. hỏi anh nói cái gì. Tôi bảo giờ đã sang xuân mà trời vẫn còn lạnh. Tôi ngồi trên ghế mây bên một kệ gỗ dài đóng ngang tầm ngực, nhìn qua cửa kính. Ngồi đây còn thấy cái tháp nhà thờ nhọn bằng đồng xanh vươn khỏi con dốc chi chít những căn nhà gỗ hai, ba tầng, kiểu Victoria. Chuyến xe bus số 47 trờ tới. Những cái đầu trẻ con da đen tóc xoắn thò ra. Góc đường đèn đỏ bật lên. Xe dừng lại. Trên vỉa hè, một con bồ câu xám đi một mình. Nó lủi thủi bước lên dốc cùng chiều với những người khách bộ hành vội vã.
Bên kia đường có một tiệm dậy võ Ðại hàn treo bảng hiệu Kim Uk Chung hay Kim Ui Chok gì bây giờ không nhớ rõ.
Có buổi trưa bước vào xem ông võ sư Ðại hàn mắt một mí và các võ sinh Mỹ tập luyện. Họ mặc võ phục đen thêu rồng rắn dữ tợn. Ðấm đá la hét. Chung quanh phòng, bốn phía gắn gương. Họ vừa co tay dang chân vừa liếc mình trong gương một cách dũng mãnh và âu yếm, cả thế giới có thể biến mất sau quả đấm
Disculpanos por la largrima que cayó. Hãy tha thứ chúng tôi vì những giọt nước mắt đã rơi. En el momento que nos quitamos la guitarra, vào lúc chúng tôi cầm lấy cây đàn, De tus manos quebradas, từ bàn tay nát bấy của anh, Para parasala a uno a otro, chuyển cây đàn ấy từ người này sang người khác, Como una flecha manchada con sangre, như một mũi tên phủ máu. Tôi bảo im đi. Chắc thằng cha Chí Lợi dậy cô bài này. Tụi thiên tả. Victor Jarra chỉ là một thằng cha thi sĩ ngớ ngẩn thôi. Ðêm hôm ấy L. phân trần chẳng tả hữu gì. Hát chơi chơi vậy. Còn bạo hành từ phía nào cũng đáng ghét. Nên tôi ít hài lòng với hiện tại. Luôn luôn thấy bầu trời phải khác hơn cách nào so với bầu trời đang sống.
Có lẽ. Tôi nghĩ. Tôi cũng ghét cả cái khía bất toàn của tôi. Ghét những mảnh ký ức, chúng nó lộn xộn. Có lúc về sống trong quãng đời xa xưa của đứa bé ở Hà Nội, Hải Phòng, Ðà Nẵng, Huế. Có lúc lông bông thất lạc trong hồi tưởng vô trật tự về 11 năm trên đất Mỹ, thỉnh thoảng lại thấy các bộ mặt nhô ra từ những văn phòng mà tôi nghỉ việc đãø lâu.
Chuyến tầu hàng ngày đưa tôi rời San Jose từ sáu giờ sáng lên San Francisco lúc tám giờ ba mươi. Chuyến xe buýt buổi chiều với những người bám tay đu đưa như khỉ. Rồi xe lửa. Lại im lìm nhìn người chung quanh lặng lẽ đọc sách báo. No one to talk to? Cái bảng quảng cáo gắn trong toa xe lửa đánh dấu hỏi lớn. Không có ai để chuyện trò ư? The Family Agency offers more than a sympathetic ear. Cơ quan phụ trách dịch vụ gia đình sẽ lo cho bạn. Họ sẽ cung ứng cho bạn nhiều hơn một cái lỗ tai biết chia sẻ, thương xót.
Những cái lỗ tai biết nghe, biết chia sẻ. Thỉnh thoảng đấy là điều tôi cần. Ở đây mọi người đều cô quạnh, bất kể bạn là nhà văn, nhà thơ, nhà thợ điện hay thư ký đánh máy. Nhưng chưa nỗi nào. Tôi nghĩ. Tôi cởi cái khăn quàng cổ để lên bàn. Có lẽ còn cắt thêm một lát bánh bột mì trộn nho đen. Trước mặt tôi có thể là một người da trắng tóc muối tiêu có lỗ mũi quặp. Gã có thể nhấm nháp một đĩa mì đầy cà rốt hay khoai chiên. Cửa ra vào có gắn tấm kính nhiều mầu ráp thành hình con chim cú và một con sơn dương.
Bên cạnh cửa có lẽ có những gã trẻ tuổi tóc xoăn ngồi với những cô gái tóc xoăn. Một cô vừa uống nước suối pha mùi dâu vừa đọc sách. Liếc nhìn có thể thấy bìa cuốn truyện dịch từ tiếng Ý của Boccacio. Một trăm câu chuyện nhả nhớt do bẩy người đàn bà và ba người đàn ông kể lại trong mười ngày. Tất cả những điều này làm chán ngắt khi gợi nhớ mãi về chuyến tàu mỗi sáng mỗi tối, năm ngày mỗi tuần, bốn giờ trên tầu mỗi ngày, người ta chúi mũi vào những tờ báo và quyển sách. Một trăm quyển sách. Một ngàn tác giả. Một triệu câu chuyện.
Trên tầu lửa, bạn ơi, chỉ còn có mỗi một người linh hoạt là anh soát vé tàu. Ngồi co cẳng hoặc duỗi chân trên ghế buổi sáng sớm, lúc ấy toa tầu rộng vắng hơn buổi chiều. Nhìn ra dẫy đồi và nhà cửa tối đen từ vùng Burlingame lên San Francisco. Thằng cha soát vé tàu có vẻ tục tĩu, tôi quan sát. Sáng hôm ấy cũng là buổi sáng ngồi nhai đi nhai lại cái tin người đàn ông Việt Nam ở thành phố Alameda thất nghiệp, gã bắn chết người đàn bà và ba đứa trẻ Việt Nam ở chung nhà rồi tự tử. L. bảo thật đáng buồn. Tôi bảo tởm, sao không tự tử một mình. Nghĩ lại chừng ấy cũng chán ngắt.
Nửa đêm vùng thức dậy
mới hay đời vẫn buồn
giấc mơ còn bốc lửa
ruồi nhặng bay từng cơn.
Thỉnh thoảng viết dăm câu dở dang. Ruồi nhặng bay từng cơn là ruồi nhặng bay trên xác chết. Xác những gã đàn ông Việt Nam nhức đầu. Xác những người chết chìm. Xác của bọn cải tạo phù thủng. Còn tôi, nhức đầu vừa phải.
Ðôi khi người ta gọi bạn là nhà thơ vì bạn có làm dăm bài thơ. Gọi bạn là nhà văn vì bạn có viết một cái gì dài giòng hơn. Nhưng bạn ơi, thực ra bạn chỉ là một người Việt Nam âu sầu, bước đâu cũng lê trên dĩ vãng.
Dạo này tôi thường gặp anh C. để nói chuyện dĩ vãng, ví dụ về những người bạn xưa, trường xưa, nhưng ít gặp anh D. để cãi cọ về môn lịch sử nguồn gốc Việt Nam hay người Tầu. Cũng thường gọi điện thoại với anh P. để bàn về khoa bói toán, cười cợt đôi chút về mối hiềm khích vui vẻ giữa những anh nhà báo. Ðôi khi chơi một bản đàn. Lại đổi việc. Chán ngấy những chuyến xe bus số 38 ở đường Geary, số 30 ở đường Stockton, dừng ở đường số 4, bắt qua ga xe lửa ở đường Towsend. Những chuyến xe đầy người. Ghế ít, người nhiều. Giờ tan sở, những con khỉ đu đưa biến thành đoàn chiến binh vừa bước vừa chạy, đàn bà cũng như đàn ông. Trên toa xe lửa, như tôi kể, mỗi người một tờ báo hay quyển sách. Chiều tối, xe lửa chạy chập chờn. Nó dừng lại tất cả những nhà ga nhỏ. Mái nhà ga đen xỉn màu gỗ cũ. Tường sơn xám. Tay nắm bằng đồng lạnh cóng trong mùa đông. Lúc ấy người ta xem mình như chết rồi.
Ðôi khi người ta tưởng mình đã chết. L. Jacobs đồng ý. Sau một cuộc ly dị nát lòng và những cuộc phiêu lưu vất vả với hàng chục gã di cư đủ quốc tịch, nàng đồng ý như vậy. Ai cũng có thể chết chậm, từ cái chân lạnh dần lên cái đầu. Nhưng đột nhiên một buổi sáng ngồi ở quán cà phê nhìn con bồ câu xám lủi thủi đi bên cạnh những người bộ hành vội vã, nghe tiếng xe vừa chạy vừa thở khói như anh ho lao vừa đi vừa bịt miệng, và chuông nhà thờ buông xuống những tiếng kính coong, kính coong, có khi người ta lại nhỏm dậy phục sinh như chúa Giêsu mà biết mình đang sống.
Làm việc ở nhà thương tâm trí bên những đứa trẻ điên loạn hoặc ngù ngờ, L. Jacobs cũng biết điều ấy. Những người làm ở nhà thương thường suy nghĩ với quan điểm đanh thép về sự sống, sự chết. Những người làm ở khu tâm trí còn biết rõ thế nào là tinh thần mạnh khỏe, thế nào là ốm yếu. Họ biết cách đồng ý với nhau về cái gì gọi là bình thường, cái gì bất thường. Một đứa trẻ 16 tuổi vẫn khóc ré lên đòi bú và bắt người ta phải ôm vào lòng nựng nịu, thế là bất thường. Có lẽ.
Trong nhà thương L. phụ trách một lớp Nghệ thuật. Chữa bịnh tâm trí cho trẻ con bằng nghệ thuật. Bạn ơi, nghệ thuật hẳn nhiên có giá trị y khoa dẫu đấy là âm nhạc, hội họa, thi ca, truyện ngắn hay truyện dài.
Viết là để thoả mãn nhu cầu nói lẩm bẩm. Cũng có khi để góp hy vọng hay ảo tưởng cuộc đời thay đổi được. Và viết, bạn ơi là để làm bạn với chữ trong đêm cô quạnh hay để tìm một tấm lòng yêu mến mơ hồ. Trường hợp này là trị liệu pháp cho bệnh nhức đầu của mình.
Còn L. nàng dùng những khí cụ khác hơn bút và chữ. Nàng giải trí cho các đứa bé điên loạn hay ngù ngờ bằng những con búp bê vải bông, mặc đủ các sắc phục ngoài đời.
Búp bê gái mặc váy hồng.
Búp bê thợ thuyền mặc đồng phục xanh nước biển.
Búp bê bác sĩ mặc áo choàng trắng.
Những mẫu búp bê ấy cũng như những nhân vật tiểu thuyết ngắn hay dài, nhưng hiện thực hơn là biểu trưng, vì nếu lật lên cái váy màu hồng xinh xắn, cái quần xanh thợ thuyền, bạn sẽ thấy chúng có đủ các bộ phận của người nữ hoặc nam.
Những bộ phận ấy trông thực dị kỳ ở những con búp bê xinh xắn. Có lẽ. Những bộ phận tí xíu vậy thôi nhưng nó làm cho những đứa bé ngù ngờ khỏi thắc mắc.
Chắc chắn chúng không giống những con búp bê bầy bán ở các tiệm đồ chơi. Búp bê ở tiệm đồ chơi là những con búp bê xinh đẹp của chúng ta ngày bé, ta nưng niu khi ngủ mơ.
Búp bê trong nhà thương tâm trí, nó không sót cái gì. Nó hiện thực như cách mạng và bạo lực. Như thế giới và tất cả những lố bịch điên cuồng gắn liền với nó.
Bạn, đây là một trong những vấn đề chi tiết. Chi tiết quả là cái tầm tiểu vụn vặt mà những người làm việc lớn không để ý, còn người tỉ mỉ thì e thẹn bỏ qua. Như thế tôi có cần phải nối kết lại những gì chúng ta trao đổi hôm nay, bắt đầu bằng tấm ảnh của người đàn ông đi xe gắn máy, giỏ xe đựng hai cuộn giấy, rồi các chi tiết về cái khăn tay đỏ, cái quần trắng vải thô và tất cả những bạn bè tôi, anh D., anh P., anh C... Nếu người đàn ông đi xe gắn máy có thể là chồng cũ của L. Jacobs thì điều ấy có quan trọng gì hay quan trọng lắm? Tuy nhiên tôi không thể trả lời bạn vì tôi chưa bao giờ hỏi L. người trong ảnh là ai.
Tôi ngồi ở bàn viết nhà L. bên những con búp bê vải mà nàng tự làm lấy. Trong phòng khách có một con búp bê bà già tóc bạc, đeo kính cận, mặc váy đen. Bà già này khổ lớn bằng người thật, đặt ở góc ghế trong căn nhà vắng. Bà già ngồi một mình. Cặp kính trễ xuống mũi. Ðôi mắt nhăn nheo mà tinh ranh.
Lật cái váy lên là muốn bật cười vì một nhúm dây cước mầu trắng giống như những sợi lông đã ngả bạc mà L. không quên khâu vào giữa hai bắp vế con búp bê vải bông.
Trước mặt tôi, tấm ảnh người đàn ông đi xe gắn máy.
Ngoài cửa sổ, bụi tre vừa chặt còn trơ gốc.
Tre mọc lởm chởm, rễ đâm sâu, lan khắp vườn làm L. quyết định chặt bỏ, còn tôi nhặt nhạnh xin về trồng.
Tre, chút kỷ niệm nhiệt đới của những người Việt Nam phiêu bạt.
L. bảo dễ trồng lắm, cắm lên ở đâu cũng mọc.
10.
Chị Quỳnh thân mến
San Jose, 12 tháng 6 năm 1986. Chị Quỳnh thân mến.
Em họ tôi ở Hà Nội cũng tên là Quỳnh vừa viết cho tôi một lá thư. Hắn cho biết đã nhận được số tiền sách của tôi bên ấy do chị chuyển sang và đã chia cho những người trong gia đình. Số tiền đến vừa kịp buổi giỗ ông nội tôi tại căn nhà đường Hàng Bông thợ nhuộm.
Gia đình tôi rời Hà Nội vào Ðà Nẵng năm 1954. Lúc ấy chú em họ tôi mới lên 9, lên 10. Ba mươi năm qua trong bức ảnh đen trắng gửi kèm, hắn đã thành một ông quá tuổi trung niên (chững chạc ngồi với vợ), sau lưng vẫn còn cái tủ chè ông nội tôi để lại, thêm hai đứa con trai con gái đầu đội mũ bê rê, cổ quàng khăn (chắc là khăn đỏ). Ông cụ tôi cầm cái bì thư và tấm ảnh mân mê mãi (coi bộ cảm động). Tôi cũng thấy vui sướng lắm.
Phần tôi, lại thất nghiệp gần hai tháng rồi.
Tiền trợ cấp vừa đủ trả tiền thuê cái chỗ ở. Ăn uống, điện nước, xăng nhớt, mọi thứ khác có lẽ là do lòng hảo tâm của các bạn hữu, tài vay mượn của tôi, sự nhẹ dạ và rộng rãi của người khác. Tuy nhiên tôi vẫn chưa tích cực trong công cuộc tìm kiếm việc làm. Ngoài ra vừa đi Texas về. Vé máy bay, các thứ cũng do lòng hảo tâm của một chú em bên ngoại.
Hôm ở Houston, Texas, tôi có mượn xe chú em lái qua tiểu bang Louisiana thăm New Orleans, nơi xuất phát nhạc Jazz. Ở đây, thăm một xóm cũ kỹ dành cho dân du lịch: khu French Quarter, nó làm tôi nghĩ đến nước Pháp và Paris nơi chị ở. Tôi lang thang khu này cả đêm: tai nghe nhạc Jazz, mắt nhìn người chen chúc qua lại đường Bourbon, những quán rượu, tiệm ăn kiểu Cajun, tiệm cởi truồng, tiệm bán đồ kỷ niệm treo đầy mặt nạ Mardi Gras, con phố với nhà cửa thò ra thụt vào như Sài Gòn. Gần sáng tôi chui vào một phòng ngủ rẻ tiền nằm với dán mối bò lổm nhổm trên giường. Thưa chị, tôi có vẻ một nghệ sĩ vào thời lãng mạn ở bên Tây!
Louisiana là một tiểu bang nhiều đầm lầy, sông rạch chằng chịt, nơi con sông Mississippi đổ ra biển. Tôm cua cá rất nhiều. Phong cảnh làm tôi nghĩ đến Long Xuyên hay vùng Ðồng Tháp ở Việt Nam. Tôi còn lái xe ra khỏi New Orleans chừng 30 dặm để thăm một khu gọi là làng Versailles. Ðây là nơi sinh sống của chừng 8000 người Việt Nam công giáo, phần lớn là dân Bắc kỳ. Họ quây quần chung quanh cái nhà thờ làm bằng tôn. Một nhà thờ bằng gạch, lớn hơn, đẹp hơn, đang xây. Họ sống như những người Amish ở Philadelphia: khắng khít với văn hóa cổ truyền, phớt tỉnh xã hội tối tân bay vượt chung quanh. Ở đây từ 5 đến 8 giờ sáng người ta họp chợ lộ thiên, trao đổi với nhau ít bầu bí rau muống trồng ngay mé sông (với đám bèo và những cái cầu ao), mua bán tôm cá tươi rói do người ta chài lưới lấy. Mọi sinh hoạt bất chấp cuộc đời siêu tốc ở Mỹ (siêu thị, siêu âm, siêu thanh, máy điện toán, nhà chọc trời bằng kính và thép). Nơi đây các bà nhai trầu bỏm bẻm, đi guốc gỗ cọc cạch. Các cụ chít khăn mỏ quạ đứng chống nạnh chửi mát nhau, thưa chị, nghe sướng cả tai. Tôi bắt gặp hình ảnh ngộ nghĩnh: một bà sơ đội nón lá từ nhà thờ lững thững ra bờ sông, tay cầm tòn ten cái đuôi một con chuột chết. Ở Mỹ ít thấy ai có vẻ lững thững nhàn hạ như thế.
Khi tôi đến, chợ đã tan nhưng vẫn còn lác đác vài cô gái chanh chua mặc quần đen áo cánh ngồi bóc tôm. Dăm bà cụ răng đen co chân lên mấy cái sạp gỗ thu dọn những bó rau đay, rau muống. Tôi khoái quá xông vào chụp hình lia lịa, suýt nữa bị đập máy ảnh vì đồng bào nghi tôi là...ký giả. Tuy nhiên nhờ...duyên dáng (cười nói nồng nhiệt) và... đáng yêu (tuột xăng đan đi đất giữa chợ), đồng bào xúm lại chuyện trò hỏi han về xứ Ca li, cuối cùng còn đãi tôi một chầu tôm luộc. Cứ thế, ngồi xổm giữa chợ bóc tôm chấm muối tiêu trước khi lên đường về lại Texas.
Hiện giờ tôi đang ngồi viết thư cho chị trong tiệm Ð.P., một quán ăn Việt Nam kiểu Bắc kỳ ở San Jose. Chủ tiệm, xuất thân dược sĩ du học bên Tây, nhưng nghiệm ra dù ở Tây hay Mỹ, thuốc men chẳng quan trọng bằng cái dạ dày. Cơm nước no bụng, ấy là mạnh khoẻ. Học xong ở Paris, thay vì mở tiệm thuốc, anh ta mở ngay một tiệm ăn ở khu La tinh, không chừng trước kia chị biết. Bây giờ gia đình Việt Nam sang đoàn tụ bên Mỹ, chuyển tiệm ăn sang Mỹ tiếp tục sản xuất bánh cuốn chả quế, phở tái béo, ruốc chà bông, ô mai Quốc Hương. Ngày ngày anh dược sĩ đi ra đi vào bưng phở, tán gẫu với khách hàng về các vấn đề, trừ vấn đề y dược. Còn bà vợ loay hoay trong bếp với dao thớt, rau mùi, rau răm, rau quế, đến Tết còn gói cả bánh chưng bánh dầy, làm mứt sen trần trong suốt.
Vào giờ trưa như thế này, quán Ð. P. là nơi tụ họp của các nhà văn, nhà thơ, nhà báo Việt Nam lưu vong (nhà đèn, nhà điện, nhà ga, nhà rửa chén bát, nhà thất nghiệp như tôi). Gọi tụ họp với nhau, nghĩa là cùng ngồi dưới một mái...tiệm phở. Nhưng họ vẫn chia nhiều bàn rõ rệt: ai thuộc phe nào đi thẳng đến bàn phe ấy. Không nhìn ai. Cùng ngồi trong quán nhưng giả vờ không biết nhau, không hiểu nhau. Không phe nào ngoài phe ta hiện diện trên cõi đời. Ðây không phải là vấn đề chia rẽ. Ðây chỉ là vấn đề phong phú chính kiến, quan niệm thẩm mỹ, phong phú về giá trị văn chương nghệ thuật.
Thưa chị, San Jose quả là một tỉnh lẻ so với vùng Los Angeles hay vùng Orange County, nhưng tại đây với số dân tròm trèm từ 30 đến 50 ngàn người Việt biết chữ và không biết chữ (biết nhiều hay biết ít), chúng tôi cũng có trên 20 tờ báo thuộc đủ các khuynh hướng: tranh đấu hay mơ mộng. Tranh đấu thế nào? Mơ mộng ra sao? Hội nhập hay không hội nhập? Sự phong phú chính kiến, nghệ thuật, tất nhiên cũng phát sinh ra cãi vã trên mặt báo một cách tục tĩu hay không tục tĩu, đôi khi xỏ xiên bóng gió như chị vợ ghen, đôi khi đánh bốc bằng tay thay vì bằng bút, nhưng rút cục tỉnh nhỏ, đi đâu chẳng gặp lại? Vả chăng lập trường chống cộng và lập trường dân tộc của phe nào chẳng vững chắc? Người ta khôn khéo đi đến giải pháp: cùng đến ăn phở tiệm Ð.P., nhưng cứ thế...cứ thế...cứ xem nhau như không có mặt trên cõi đời. Và cứ thế...cứ thế...nơi đây các nhà văn, nhà thơ, nhà báo, nhà đèn, nhà ga, các nhà cách mạng cùng ăn phở tái béo (như nhau), cùng uống cà phê phin sữa đá (như nhau), anh nào có việc làm, có tiền mặt thì hùng dũng rút ví trả tiền mặt. Anh nào thất nghiệp, gãi đẫu gãi tai hoặc nhấm nhẳng yêu cầu ghi sổ trả sau.
Ðể hưởng cái thú an nhàn cua một người Ðông Phương thất nghiệp, tôi đang nghiên cứu kỹ thuật trồng cây Bonsai Nhật Bổn. Tôi có làm một số hòn non bộ với các hang hốc nho nhỏ, gắn những ông câu cá, ông tiều phu đốn củi ngồi nghỉ mệt dưới gốc cây thông. Thực tế, tháo vát và có óc thương mại, sáng nay tôi đã mang ra tiệm này hai chậu non bộ nhờ ông chủ chưng trên quầy hàng: chậu nhỏ đề giá sáu chục, chậu lớn tám chục. Giá vốn mỗi chậu chừng ba chục đô la. Nếu có vị thực khách nào sau khi no nê và vui tính bỏ tiền ra đểà làm chủ các sông núi cây cỏ Ðông Phương, tôi sẽ có tiền đi chợ, đổ xăng, ăn phở tái béo... Còn nếu công việc kinh doanh đều đặn tiến triển hơn, tôi sẽ sản xuất thêm. Không phải vất vả rửa chén, bán nhà, bán bảo hiểm, dắt mối đưa người đi đánh bạc ở Réno. Tôi sẽ đi giầy vải hoặc dép nhẹ lững thững dạo chơi các vùng đồi núi kiếm đá, kiếm hoa, kiếm cây cỏ (Tai nghe chim hót trên cành cây, mắt nhìn bướm bay ngoài đồng nội). Ðêm về, khoan thai ngồi xuống pha một bình trà Vũ Di, châm một điếu thuốc ba số năm. Dùng cái óc thẩm mỹ Ðông Phương đầy dĩ vãng, tôi chế ra những sông núi cây cảnh của một quê hương xa lắc xa lơ thu hẹp lại trong cái chậu nhỏ bán giá rẻ cho người yêu nước nhớ nhà (cây đa đầu làng, mái tranh ngoài ruộng).
Những cái chậu ấy lặng lẽ bình thản.
Nó sẽ làm cho thần kinh của các anh Việt Nam nhức đầu được dịu lại. Nó có tác dụng tốt gấp mấy viên thuốc an thần của những Bác sĩ tâm lý Hoa Kỳ. Nó sẽ làm người ta quên bớt lo âu tiền nong, thất nghiệp, kỳ thị, áp lực và tốc độ. Người ta chỉ cần ra tiệm Ð.P. (góc đường Almaden và đường Santa Clara) bê về một hòn non bộ của tôi (nhà thất nghiệp đầy sáng tạo) để ở một chỗ mát mẻ im lặng, ngồi xuống chống tay lên cằm ngắm nghía: kìa là núi, cũng núi. Kìa là sông, cũng sông. Những người hay suy nghĩ, thích luận lý, còn có thể ngắm hòn non bộ của tôi mà hỏi: tại sao trên lưng chừng núi kia lại có một cụ già chịu khó leo cao đến thế? Tại sao ông cụ ngồi lắc lẻo ở một chỗ cô quạnh trên cái mỏm vời vợi kia lặng lẽ đọc sách? Ðọc cái gì trong cơn biến động này hở trời? Sách ấy là sách gì? Nó làm quyển kinh chăng? Nó là một quyển thơ chăng? Nó là sấm Trạng Trình? Nó là một cuốn tùy bút? Tùy tiện mà phóng bút? Nó có làm cho tâm hồn người ta êm ả một chút chăng?
Cách đây chừng một tuần, trong lúc tôi vừa lái cái xe thùng Volkswagen khặc khừ của tôi lui khỏi bãi đậu, chợt có hai thằng Mỹ phóng xe vọt qua. Chúng la vào mặt tôi: "Asshole"; Thưa chị, dịch ra tiếng Việt, có nghĩa là cái lỗ đít. Không biết bên Tây chị có gặp cái cảnh ấy không? Bên này khá nhiều. Một lần đứng ở góc đường dưới Orange County (chẳng trêu chọc ai. Chỉ đứng bên lề ngẩn ngơ nhìn xe chạy, mây bay), một thằng Mỹ bỗng chạy ngang nhổ bãi nước bọt đánh phẹt một cái. Không phải một mình tôi gặp cái chuyện ấy! Còn khi lái xe lỡ có chậm chạp lừ đừ hoặc lớ ngớ nhìn địa chỉ tìm ai, cái chuyện chửi tục, chửi thề xảy ra không có gì đáng lạ. Thường tôi bỏ qua (tức là mũ ni che tai: lờ đi). Có khi như A Q., tôi bảo: Mày chửi bố mày. Nhưng hôm ấy, trời nóng trên 100 độ, túng tiền, đang bị sở thất nghiệp gọi đi khai hàng trăm thứ giấy, tôi nổi cơn giận ngùn ngụt lên đỉnh đầu. Cơn giận phừng như thùng xăng bắt lửa. Cơn giận bốc lên vào mùa hè có thể đốt cháy hàng dẫy nhà, có thể thiêu sạch cả một cái thành La mã như chơi.
Chị Quỳnh. Chị cũng rõ khi hai thằng Tây hay hai thằng Mỹ chửi nhau, đó là việc hai thằng Tây hay hai thằng Mỹ chửi nhau. Nhưng khi một thằng Tây hay một thằng Mỹ chửi một ông Việt Nam, hay một ông Ðông Phương, là nó chửi...cả nước Việt Nam, cả giống da vàng mắt xếch mũ tẹt, (dẫu cho ông Việt Nam hay ông Ðông Phương ấy có hơi lóng ngóng trong lúc lái xe, có làm cản trở lưu thông, và không quen dừng lại những bảng stop). Vậy còn gì? Chính nó là một thằng Mỹ kỳ thị chủng tộc. Như thế, xin lỗi chị, tôi phải tát vào mồm cho nó thè lưỡi trợn mắt ra. Tôi phải đạp xuống đất lấy gót giầy dí bẹt cái đầu nó như một cái bánh tráng.
Cái thời các vị bảo trợ và các công dân Mỹ (cũ) nồng nàn tiếp đón người tỵ nạn Ðông Dương đã qua rồi. Cái thời đó xảy ra cách đây từ hơn một thập niên: bấy giờ các nhà thờ mở rộng cánh cửa, các ông Mục sư nói giọng mũi hân hoan giới thiệu người ta trước bàn thờ Ðức Chúa giời, diễn giảng dài giòng về tình huynh đệ, thời các tín hữu nhà thờ đua nhau mang đến cho người tỵ nạn ti vi, tủ lạnh, dao nĩa, đĩa chén, quần áo cũ... Thời ấy người ta cao cả, bác ái như chúa Giêsu đứng trên dỉnh đồi dang rộng cánh tay tiếp đón bọn tỵ nạn nhỏ bé, nhơm nhếch, tội nghiệp vì nạn Cộng Sản vô thần, duy vật, bọn độc tài tàn bạo, bỏ tù hàng trăm ngàn người mà cứ nói phét là cho người ra đi học tập. Ðám người tỵ nạn ấy rón rén bước đến đất mới, rụt rè nối đuôi nhau bước vào căn nhà lạ, nhũn nhặn như những củ khoai lang luộc hơi già lửa. Họ chào hỏi khúm núm từ ông chủ nhà cho đến bác làm vườn, cái gì cũng cười. Thời ấy đã qua. Nó xẩy ra từ hơn mười năm trước.
Bây giờ là lúc nào? Là lúc chị thư ký Mỹ trắng bắt đầu thấy mình thua thiệt. Chị liếc xéo anh cán sự điện tử Việt Nam: lương mày to hơn, nhà mày lớn hơn, xe mày tốt hơn. Thế mà mày lại vàng. Bây giờ là lúc nào? Là lúc các lãnh tụ cộng đồng Mỹ đen, Mỹ trắng ngà ngà, Mễ Tây Cơ tức là Xích Cà Nồ bực mình vì chuyện giành giật ngân khoản của các lãnh tụ cộng đồng Việt Nam. Ơ kìa, chúng mày giả vờ biểu dương lực lượng! Ðến đây chưa nóng đít mà sao cứ đòi tiền cho nhiều? Nay biểu tình la lối, mai lại mặc quân phục đi ắc ê. Rối cả mắt. Chưa kể những việc mua súng bắn nhau ỏm tỏi, e có ngày lạc cả sang mình hay mấy đứa con nhà mình!
Thưa chị, phần những ông bà tỵ nạn còm cõi, sau 11 năm, khám phá ra: rút cuộc cõi đời ở đây chẳng phải là thiên đàng. Chả có ý nghĩa gì sất ngoài việc toát mồ hôi làm bồi bếp, nô lệ cho các ông chủ lớn, chủ nhỏ, bảo hiểm và nhà băng. Mua được cái xe, cái nhà trả góp 30 năm thì lúc nào cũng tối tăm mày mặt vì lo mất việc, đuổi sở?
Ðôi khi người ta cũng mát mặt chớ? Phải.
Thứ sáu công việc đã xong. Thứ Bẩy, Chủ Nhật, tà tà dăm ông bà bạn ngồi xuống với nhau, người ta khề khà chai bia, điã thịt nướng. Hay là bánh tôm? Hay chả giò? Bò nhúng dấm? Chả cá? Thực đơn có thể thay đổi nhưng đề tài luẩn quẩn loanh quanh. Những đề tài cổ truyền từ hơn mười năm nay. Trước hết, nó bắt đầu bằng hiện tại lương bổng, kiếm việc, mất việc, mua bán bảo hiểm... vấn đề chửi nhau giữa báo X và báo Y, ký giả A tố ký giả B là Cộng Sản, thực ra ký giả B là người Quốc Gia đang móc nối với Trung Cộng (hỡi ơi, bọn Trung Cộng cũng là Cộng Sản). Sau đó đề tài chuyển sang một hợp âm êm dịu. Nó thuộc về quê hương dĩ vãng. Các đề tài này xoay quanh một số tiết mục tùy theo trình độ thẩm mỹ, khuynh hướng thú vui, nguồn gốc địa lý của những người tham dự. Họ xuất xứ ở miền nào? Ví dụ như ông Võ Phiến thì hay nói chuyện về xứ Bình Ðịnh. Như những đề tài trong cuốn Tùy Bút của ông vừa xuất bản ở Mỹ, nó xoay quanh những sự nhớ nhung lẩm cẩm. Cái áo dài. Cái ăn cái uống. Chuyện mắm muối. Chuyện mấy anh Huế chị Huế. Mỗi người một câu, mỗi người thêm thắt một tí tùy theo kiến thức và khả năng ký ức. Tất cả những cái nhỏ bé. Ðường lối cứu quốc kiến quốc phải như thế nào? Ðặt một giải pháp tương lai cho Việt Nam. Hay cho thế giới. Tương lai thế giới, Cộng Sản hay Tư Bản. Thử nhận định một biện pháp hòa hợp dân tộc. Thử khai phá một lý luận và chiến lược chống Cộng hữu hiệu. Vân vân.
Những hợp âm êm dịu sau một chặp thường làm cho lòng người ta chùng xuống. Người ta ngửi thấy cái mùi ngậm ngùi trong ly bia, trên những đĩa chả giò, thịt nướng, mắm nêm. Người ta nhớ đến mùa hè ở Huế với hoa sen nở đầy hồ Tịnh Tâm, con đường AÂm hồn rợp bóng cau bóng nhãn. Người ta lờ mơ như một người loạn sắc nhìn vạn dặm xa xôi những cánh buồm Phan Thiết mỗi chiều từ biển khơi nồng ấm trở về với khoang cá lóng lánh như thỏi bạc. Bấy giờ trong tiếng xe rì rào trên xa lộ, người ta tưởng như tiếng con tắc rán chạy mơ hồ trên sông rạch, hai bên là những cây mắm, cây bần, cây đước.
Người ta khựng lại khi nhớ đến bà mẹ già và cô em gái gầy yếu còn ở lại Việt Nam mà chương trình đoàn tụ gia đình cũng dã khựng lại. Người ta đổi đề tài. Ðề tài cuối cùng trước khi chấm dứt, ai ra xe ô tô trở về nhà người nấy. Ðề tài cải tạo. Cải tạo ở đâu? Bao lâu? Ðôi khi những kỷ niệm đớn đau lại trở thành những nhớ nhung vui sướng. Ðề tài vượt biên. Ði thế nào? Ði ra sao? Mất mấy cây? Thường thưa chị, các buổi nói chuyện đến đây bế tắc vì từ đó nó sẽ quay ngược về hiện tại. Lại đến đảo. Ðến Mỹ. Học nghề. Kiếm việc. Mất việc. Bảo hiểm. Nhà băng. Lại những thằng Mỹ chạy xe qua nhổ nước bọt đánh phẹt một cái, giơ ngón tay lên làm một cử chỉ tục tĩu hoặc la lên "cái lỗ đít". Hàng chục thứ rối đầu: kháng chiến hay không kháng chiến? Kháng chiến thật? Kháng chiến giả? Tương lai về đâu? Có ngày về hay không có ngày về? Về hay không về?
Tại sao rối loạn? Vì những câu hỏi ấy đặt ra nghe chừng đơn giản mà câu trả lời thì vẫn phong phú. Người nào cũng nhao nhao lên về tia ánh sáng cuối đường hầm. Lúc đầu người ta bảo cái hầm nó thẳng, nhưng ánh sáng thì anh không thấy, tôi không thấy, ông ấy thấy vì ông ấy có điều kiện, ông ấy có dịp đứng giữa miệng hầm. Bây giờ cái hầm nó khúc khuỷu. Ðúng vậy. Ðứng ở đầu này không thể thấy ánh sáng ở đầu kia. Nhưng hãy theo tôi, đến đoạn cuối là đường thẳng, anh sẽ thấy cả một bầu trời quê hương xanh mát, ánh nắng chan chứa trên khắp ruộng lúa bờ đê. Chỉ tiếc là có quá nhiều những cái hầm khúc khuỷu như vậy.
Thưa chị. Khi người ta phong phú ý kiến, người ta có thể khẩu chiến (anh nào có báo ra đều, viết nhiều, anh ấy thắng), đánh bốc (anh nào bắp thịt to, anh ấy có vẻ có lý), đấu súng (bắn trước thì sống). Phải chăng đấý cũng là quy luật của cả Cộng Sản lẫn Tư Bản?
Chừng ấy thứ trộn lộn thành một thứ bột nhão. Nó làm cho những cặp vợ chồng gương mẫu trước cãi cọ, sau thụi thẳng cánh vào quai hàm nhau. Làm cho những bạn bè trên dưới ba chục năm hằm hè nghi nhau là Cộng Sản. Làm cho những anh chị làm báo gọi nhau là ma cô và nhà thổ. Làm cho những đầu óc sáng suốt trở thành nhà thơ lẩn thẩn, bay bổng và dở hơi. Cũng như thế, những hôm mùa thu mùa đông đã qua, mùa hè nóng trên 100 độ fahrenheit, đỉnh đầu người ta bốc khói, người ta có thể nhẩy dựng ra khỏi xe, móc súng bắn thẳng vào giữa họng những thằng Mỹ dám gọi người ta là...cái lỗ đít. Vâng, có thể lắm. Nếu người ta có súng. Và bất cứ một toà án nào biết tôn trọng công lý cũng phải tha bổng hay tối thiểu, cho giảm khinh những trường hợp như thế, khi mà người ta có nhà mà phải đi ở thuê, có đất mà đi ở đợ và cái lão chủ nhà đất mới này té ra cũng là quân cướp. Khi vợ con người ta chết hết trên biển cả bão bùng. Khi bạn bè thân thích vẫn bị Cộng Sản cưỡng bách giáo dục, đã trên 10 năm học hoài học mãi ỏ những vùng sơn lam chướng khí, ma thiêng nước độc, khỉ ho cò gáy, cơm không có ăn, thuốc không có uống. Khi vợ và con gái người ta bị bọn cướp thay phiên hãm hiếp. Khi anh em người ta cứ mòn mỏi ở các đảo tỵ nạn từ mấy năm vẫn chẳng được đưa đi định cư. Khi người ta kiếm không ra việc ở cái thiên đàng chủ nghĩa tự do mà tiền thất nghiệp lại sắp chấm dứt. Những khi như thế, thằng nào gọi ông là cái lỗ đít, ông bắn.
Thưa chị. Trưa hôm ấy trời nóng trên 100 độ, tôi lồng lộn như con thú Phi Châu. Tôi rú ga vọt lên, chạy theo hai thằng Mỹ. Ngoắc tay kêu chúng nó ngừng lại.
Tôi bật tung cánh cửa nhào ra khỏi xe. Khuỳnh tay vụt lên như cái thiết vận xa. Nhưng hỡi ơi, tôi không có súng.
Còn hai thằng Mỹ, chúng nó cũng hùng hục mở cửa bước ra xe. Cả hai đứa: bề cao hơn tôi gấp rưỡi. Bề ngang hơn tôi gấp đôi. Hỡi ơi, mặt mũi chúng nó lại non choẹt chỉ đáng tuổi thằng con trai thứ ba của tôi.
Còn chửi mắng? Khả năng chửi bằng tiếng Anh của tôi làm cho tôi ứ máu lên cổ. Vâng, tôi có thể đi xin việc bằng tiếng Anh. Tôi có thể thuyết trình đôi chút về Văn hóa Việt Nam một cách duyên dáng cho những người Mỹ đồng nghiệp trong sở. Tôi còn có thể tán tỉnh đôi chút với quý cô quý bà. Nhưng chửi nhau bằng tiếng Anh? Quả thật, cái khả năng ấy của tôi chỉ bé bằng cái lỗ đít.
Ông Võ Phiến là một người Bình Ðịnh.
Người Bình Ðịnh có cái gì hay cái gì đẹp? Tôi sẽ gửi cho chị cuốn Tùy Bút, chị sẽ thấy ông Võ Phiến khéo léo kể ra trong hai bài Anh Bình Ðịnh và Người Bình Ðịnh.
Anh Bình Ðịnh được những chị Phú Yên mê vô tả, ông Võ Phiến chứng minh như thế. Anh về Bình Ðịnh chi lâu? Chiều chiều em đứng hàng dâu ngó chừng. Tuy nhiên những chị xứ khác có mê mẩn như thế hay không? Hay chỉ có những chị Phú Yên mới dại dột mà thôi? Ông Võ không nói tới.
Thế còn người Bình Ðịnh? Toàn những người giỏi.
Người hùng Bình Ðịnh: Nguyễn Huệ, Bùi Thị Xuân, Võ Văn Dũng... ngang tàng lẫm liệt. Xóm thơ Bình Ðịnh, được kể ra: Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên với những cái làm kinh động sững sờ, những Quách Tấn, Yến Lan mờ mờ những con đường chảy, êm như những giòng sông. Ngó trước rồi lại ngó sau, ông không quên thế hệ trẻ hơn ông. Ông kể tên một người bạn trẻ xứ ông, Nguyện Mộng Giác, chín chắn, kín đáo, âm thầm, lim lỉm vào những suy nghĩ lo lắng.
Những cái ông Võ kể ra về xứ Bình Ðịnh và người Bình Ðịnh làm cho tôi buồn lắm. Tôi, gốc gác lộn xộn: chánh quán làng Mọc Hà Ðông, sinh ở Huế, lớn ở Hà Nội, Ðà Nẵng, Sài Gòn. Không chừng chết luôn ở Mỹ. Thế tôi biết khoe xứ nào?
Tôi nói tiếng Bắc chị Quỳnh ạ. Chị cũng là người Bắc phải không? Tiếng Bắc, chị biết đấy. Nó không nặng như Quảng Nam, ngang như Bình Ðịnh. Ði vào thì mình nói là đi vào chứ mình không nói là đi dzô. Vả chăng các ca sĩ người Trung người Nam...họ cứ uốn éo đổi sang giọng Bắc cả. Ờ, lạ lắm cơ?
Ở Việt Nam, tôi được đọc nhiều bài của ông Võ Phiến nhưng không có dịp gặp. Sang Mỹ, năm 1977 thì phải, Lâm Triết có mời ông Võ ghé ngủ lại phòng tôi nhân dịp từ Los Angeles lên thăm San Jose. Nhưng quả thật không biết nhiều về ông Võ.
Có thể, ông cũng chín chắn, kín đáo, âm thầm, lim lỉm như ông bạn trẻ đồng hương Nguyễn Mộng Giác. Người Bình Ðịnh, họ như thế. Ðọc Thác Ðổ Sau Nhà, tôi khoái cái quan điểm, nhưng chưa dám nói thực hiểu ông Võ nhiều. Gặp tại nhà in N.V. của ông Trần Ðình Long, cũng chưa rõ lúc nào ông ấy đùa, lúc nào ông ấy thực. Mà lúc nào trông ông ấy cũng thành thật. Hoặc giả ông ấy có ngụ ý một điều gì tinh quái sắc bén. Ngày giỗ Nguyễn Hiến Lê ở toà báo Người Việt dưới Orange county cách đây vài tháng, lại thấy chẳng phải ông ấy lim lỉm. Ông ấy nghiêm trang một cách bỡn cợt. Ông ấy liên tục nói năng trôi chảy, hấp dẫn, cái giọng Bình Ðịnh cũng không thực là ngang ngang khó nghe. E chừng ngược lại. Tôi có nhận một cái thư của ông Võ thăm hỏi, cho biết trước cũng từng trọ ở ngõ Tân Hưng, Hà Nội. Nhà tôi ở đấy, lúc ấy tôi hãy còn bé. Ðến nay, đọc Tùy Bút gồm những bài xuất bản, đăng tải từ trước 1975, nhiều bài chưa có dịp đọc, cùng với năm bài mới viết ở Mỹ như một bộ tứ bình: Xuân, Hạ, Thu, Ðông của cuộc đời lưu vong...phải nói cụ Võ Phiến, 63 tuổi, cụ hơn tôi đến 20 tuổi, và tôi thở phào ra. Chị Quỳnh ạ, cụ ấy cũng chửi tục. Cụ ấy viết đến những hai bài về sự chửi và chửi tục, bên cạnh những bài trang trọng như đạo và đời, nhàn và nhã, ông và cháu, mưa và thơ...
Cái sự chửi tục gồm những câu rất tục mà ông Võ Phiến sưu tầm, bàn bạc, nại ra, bình luận, kể lể, dẫu có vì văn chương hay văn hóa, có câu để cả chữ, có câu chỉ viết tắt, thưa chị, tại đây tôi vẫn không dám đề ra cho chị xem mặc dầu chính tôi không phải là người nhã nhặn.
Khi mới gặp nhau, người ta thường thủ lễ, vâng dạ, thăm dò. Người ta chưa tin nhau. Khi đôi bên đã say sưa nồng nàn, co cẳng ngồi trên ghế vừa gãi nách vừa nói chuyện về các đề tài (kể cả văn hóa và chính trị) mà bọt mép sùi ra, tay chân vung lên, lâu lâu ngôn ngữ được đệm vài tiếng chửi, người ta dễ chịu lắm. Người ta bắt đầu rút đi những hàng rào phòng thủ, những mũ sắt áo giáp bao chung quanh, người ta tin nhau được.
Tôi cảm thấy gần gũi với cụ Võ Phiến từ sau những bài bàn về chửi và chửi tục chăng? Hai bài ấy viết ra năm 1959 và 1968, đổ đồng vào lúc cụ bằng tuổi tôi bây giờ: ngoại tứ tuần. Hay chỉ vì những sự ấm ức khi nghe người ta chửi nhau bằng tiếng Anh? Hay chỉ vì nó làm cho tôi nhớ lại đôi ba vấn đề của ngôn ngữ học và riêng về cái mục chửi của chúng ta đây nó dồi dào, phong phú, lảnh lót hơn quá nhiều so với "cái lỗ đít" của mấy thằng Mỹ hỉ mũi chưa sạch?
Hay nó làm cho tôi nhớ lại một ông bạn cũ từ thời niên thiếu lúc học chung với nhau ở Văn khoa đường Nguyễn Trung Trực Sài Gòn? Cái cậu lúc ấy khoái chửi câu "Tiên sư bố nhà mày. Tao căng mồm mày ra làm cái nhà chồ, tao ị vào ngay giữa cái mồm mày." Dĩ nhiên, câu này cũng không lọt khỏi sách của ông Võ Phiến. Ðó là một sáng tác của nhân vật xứ Bắc, chắc chắn không phải của người Bình Ðịnh, mà cũng không phải của người Mỹ có thể giỏi về khoa học, kỹ thuật nhưng nghèo về văn hóa, triết lý và... đạo đức.
Ðêm qua, tại nhà anh H. hàng xóm tôi, lại nhậu.
Có hai anh H., cả hai cùng có mặt. Anh H. hàng xóm tôi: cựu chiến sĩ sư đoàn 18 Bộ binh, đã rã ngũ nhưng trong nhà không bao giờ có dưới bẩy khẩu súng cả ngắn cả dài. Anh H. hoạ sĩ kỹ nghệ tức cựu Ðại uý Dược sĩ H., đai đen Aikido, dịch là Hiệp khí đạo, người đã nhờ Hiệp khí đạo và các phép đề khí mà trải qua sáu năm cải tạo một cách êm ả, dẻo dai và tương đối mạnh khoẻ. Anh Nha sĩ T. tức cựu Thiếu tá Nha sĩ T. với Anh dũng bội tinh, tức cựu thi sĩ Bàng Hoạch (báo Gió Mới, Việt Nam 1957, 1958). Tất nhiên, có mặt bia Coors và thịt nướng. Vẫn các thủ tục và đề mục thường lệ: bắt đầu bằng hiện tại (lương bổng, thất nghiệp, kiếm việc, Job shop, mua bán bảo hiểm, đá banh bầu dục, báo X chửi báo Y) chuyển dần sang hợp âm êm dịu (bàn về con cua ở Cát Lở, con tôm hùm ở Cà Ná, thịt con cheo ở Long Thành, con đuông tẩm bột chiên bơ ở Chợ Cũ). Lần này trước khi trầm ngâm đổi qua đề tài dĩ vãng cải tạo vượt biên chấm dứt ra về, chúng tôi thêm vào đề tài văn học: Ông Võ Phiến, cuốn Tùy Bút và nhà xuất bản Văn Nghệ. Cuốn Tùy Bút thế nào: Nó dầy ba trăm mấy chục trang, phong phú ghê. Ðủ các đề tài từ văn minh, văn hóa, thơ phú, đạo đời sang đến mắm muối. Ðọc một lúc thì mệt nhưng lâu lâu nhàn nhã, thú nhá. Này là chuyện mấy chú én ríu rít bay lượn ở Hà tiên. Này là chuyện Năm non bẩy núi. Này là chuyện Hội An có phải là Phải Phố hay không?
Ðường trong làng hoa dại với mùi rơm
Người cùng ta đi dạo giữa đường thơm
Lòng giắt sẵn ít hương hoa tưởng tượng
Ðất thêu nắng, bóng tre rồi bóng phượng.
"Ðoạn đường Ðà Nẵng về Hội an...chỉ gợi nhớ đến cu gáy với bướm vàng trong ca dao... đến con đường thơm... Bóng phượng, phải, còn có bóng phượng nữa. Ðà Nẵng có rất nhiều cây phượng..."
Những cây phượng mùa hè trổ hoa đỏ ngợp con đường Hoàng Diệu Ðà Nẵng. Nó làm cho tôi và anh T. cựu học sinh Phan Chu Trinh Ðà Nẵng, những cựu thi sĩ văn sĩ báo Gió Mới, Việt Nam 1957-1958, những Tuấn, Hải, Chiêu, Nam, Khiết, Dũng, Tình, Ý, Sung, Ui, những kịch sĩ, ca sĩ, thể thao gia ở một ngôi trường đầy hoa phượng... và lớn lên tiếp tục những cuộc chơi lớn...kẻ chết Ðồng xoài, kẻ đi Biệt kích và biệt tích, kẻ chết trên máy bay, kẻ theo Cộng Sản, kẻ bị Cộng Sản nhốt tù. Tôi và anh T. chắc lại cũng ngửi thấy cái mùi ngậm ngùi bay trong lon bia, trên những gắp thịt và trong chén nước mắm. Vậy chúng tôi đi vào đề tài khác. Chuyện chửi. Chửi tục. Cũng những chuyện trong Tùy Bút của ông Võ Phiến.
Khi đi vào phần ấy, tôi đã kể lại chuyện hai thằng Mỹ ranh con và cái lỗ đít.
Anh T. Nha sĩ lắng tai nghe.
Trước hết, Nha sĩ, họ là ai? Họ là những người vốn ít nói theo thói quen đeo mặt nạ bịt mồm trong lúc cà răng. Thực vậy, người ta không thể bịt mồm mà nói chuyện. Vả chăng bệnh nhân nhổ răng, chữa răng mồm miệng đầy bông băng kìm búa cũng không thể hanø huyên với Nha sĩ như lúc người ta ngồi thảnh thơi cắt tóc. Tiếp đến, Nha sĩ, họ là những người cẩn thận. Họ không thể nhổ lầm một cái răng sâu sứt với cái răng tốt lành. Họ phải chụp hình quang tuyến. Phải đeo kính ngắm nghía, nghiên cứu kỹø trước khi quyết định cà, hay đục, nhổ, hay rút gân máu, bịt răng vàng hay răng bạc. Vả chăng, bạn tôi, một trong những Nha sĩ lành nghề và có lương tâm chức nghiệp hơn hết thẩy tại San Jose. Anh ta luôn trầm ngâm, xem xét, lắng nghe và phán đoán kỹ lưỡng trước khi phát biểu.
"Ông ạ," Anh T. từ tốn nói. "Lần sau, gặp những thằng Mỹ chửi tục, đánh nhau là thua hoặc bị ra tòa. Ðừng chửi tiếng Mỹ mà thiếu chữ. Ông cứ chửi bằng tiếng Việt, y những câu của ông Võ Phiến viết Tùy Bút. Ông sẽ hả hê sau khi chửi, cơn giận nó tiêu tan. Còn thằng Mỹ, nó chẳng hiểu gì nhưng nó vẫn biết là ông chửi. Như thế nó càng điên lên. Cái ấy kêu là nội thương."
Chị Quỳnh thân mến. Nha sĩ là những người ít nói và cẩn thận. Bao giờ họ cũng biết săn sóc hàm răng và nụ cười của người ta một cách chu đáo. Cái răng cái tóc là góc con người. Một anh bạn Nha sĩ thân ái luôn luôn có thể cho người ta một lời khuyên sáng suốt, lóng lánh và quý báu hơn cả răng vàng răng bạc.
Và, chị Quỳnh thân mến. Ông Võ Phiến là một nhà văn đàn anh so với lứa tuổi tôi. Ông là nhịp cầu thời gian với những câu chửi lạ lùng như đồ chết tiệt, con khỉ trù, chó nó ăn mất cu. Những câu ấy trang bị cho tôi một thứ võ khí tựa như gậy tầm vông để chống lại cái lỗ đít.
Còn cuốn Tùy Bút mới xuất bản của ông, trong giai đoạn hoang mang lưu lạc này, nó có một giá trị đặc biệt, không phải chỉ vì giá trị văn học.
Nó là nhịp cầu tiếp nối miền đất xa xôi ở quê nhà mà không gian thơm mùi hò mái đẩy, mùi hương hoa tưởng tượng, mùi măng cụt sầu riêng, mùi bánh tráng Bình Ðịnh chấm nước cá, mùi mì Quảng và cao lầu Hội An tiếp sang miền rối rắm này với mùi khù (Chữ của cô bạn tôi dịch chữ smog, một hỗn hợp giữa khói và mù), mùi hoá chất lau chùi trong xưởng điện, mùi nhạc Rock, và may thay vẫn còn mùi bánh cuốn, phở tái béo Bắc kỳ tôi đang ngồi ăn đây trong tiệm Ð.P. ở góc đường Santa Clara và đường Almaden, San Jose.
Ông Võ Phiến là một nhà văn tỉ mỉ, rất tỉ mỉ. Còn kiến bò qua cũng không thoát mắt quan sát của ông. Ở một miền đất dẫu chiến tranh tàn phá trên mấy chục năm, một miền đất dẫu sao người ta chửi dẹ dàng còn như ca hát, nơi người ta dẫu sao vẫn còn có thể bình thản đứng trên cánh đồng, vào buổi xế trưa đầu mùa xuân nhìn đồng không mông quạnh. Ở chân trời, vài đám khói ùn lên chậm chạp tỏa cao và rộng... Chao ơi, những đám khói đốt cỏ ở chân trời trong nắng trưa, sao mà xúc động, cảm hoài. Những đám khói kể lể nỗi niềm bao la cuối một chân trời mênh mông. Ðứng him mắt mà trông: khói lặng lờ, không vội vã, khói bát ngát, nhẫn nại, xa vời, hàng giờ, hàng giờ, khói toả, vừa hiền từ vừa mơ mộng...
Những đám khói êm ả... Chao ơi, trong địa hatï suy tưởng của nước Mỹ ào ạt vội vàng, vài ngàn cuốn sách đủ loại xuất bản từng triệu cuốn mỗi tháng dưới đủ các bộ dạng kiểu cọ khác nhau, với những nhà văn sản xuất bằng máy điện toán, điện thoại, điện tín...thì chao ơi...cái tôi yêu mến ở ông Võ Phiến cũng như cái tôi yêu mến những cụ già lững thững ở làng Versailles, nơi đây người ta ngảnh mặt khỏi siêu thị, nơi người ta họp với nhau một cái chợ lộ thiên sát mé sông với cầu ao và những đóa hoa bèo màu tím. Ở miền đất này còn tìm đâu những tâm hồn êm ả, những giây phút không vội vã đứng nhìn khói bay lên hàng giờ hàng giờ? Khói lặng lẽ, nhẫn nại, xa vời, vừa mơ mộng vừa hiền từ?
Thế nhưng chị Quỳnh thân mến, rút cục như lời khuyên của anh bạn Nha sĩ T. một người ít nói và cẩn thận: ta cứ phải chửi bằng tiếng Việt... và khi tôi thán phục cái cao kiến như thế, té ra tôi cũng đang bước chân trở về trên nhịp cầu của ông Võ Phiến và những bà cụ chít khăn mỏ quạ Bắc kỳ, nơi tôi lớn lên ở ngõ Tân hưng, đường Ga Hàng Cỏ, đường Hàng Bông Thợ Nhuộm trước Vườn hoa cửa Nam. Tôi có về lại được cái thời gian đã mất hay không? Thời gian sẽ đi, đi mãi hay sẽ quay trở về trong cái vòng vô tận? Tôi có về lại được miền đất bên kia không? Tôi chưa rõ. Có lẽ, chị Quỳnh, giờ đây tôi đang lóng ngóng trên đất Mỹ giữa Huế, Hà Nội, Sài Gòn, giữa hiện tại, dĩ vãng, tương lai, tôi ngồi bệt xuống giữa nhịp cầu của ông Võ Phiến và các bà cụ lững thững khoan thai. Tôi nhìn bên này, bên kia, vừa chửi thề bằng tiếng Anh nhưng biết phải chửi thề bằng tiếng Việt, tôi ăn phở tái béo và tôi thu hết núi sông lại mà bỏ vào trong những hòn non bộ: Này là núi, cũng núi. Này là sông, cũng sông...
11.
Mùa Xuân, thư Bắc gửi Nam
San Jose 19 tháng 11, 1986
Anh Q. thân mến,
Ðầu năm khai bút, bút khai hoa
Hoa thắm xinh tươi khắp mọi nhà
Nhà ai nhà nấy đông tiền bạc
Bạc chỉ thấy vào chẳng thấy ra
Có lẽ tôi nên tạm mượn mấy vần của anh Nha sĩ Thi sĩ T. viết từ năm ngoái để chào mừng năm mới thắng lợi. Về đường văn chương: Giữ vững lập trường sáng tác chữ Việt. Về đường nuôi thân, được thoải mái.
Lúc giầu có phải nên tiết kiệm
Cố mà mua lấy một cái nhà
Ấy là gấm lại thêu hoa...
Hoa và mùa xuân! Họ là bè bạn. Nó cho táo tợn, họ là những người tình. Xuân về hoa nở. Xuân đi đâu, hoa đi đó. Họ yêu nhau vĩnh viễn chứ không lăng nhăng.
Xuân đi, xuân về. Ði đâu cũng về. Về rồi lại đi. (Ði rồi lại về). Cái chân lý trôn ốc làm cho các bậc thức giả thông khoáng phát giát: Ái tình đích thực là một mùa xuân. Một mùa xuân bao la mở ngỏ cánh cửa cho tất cả các loài hoa cùng nở lên một lúc. Ðến như hoa cải, hoa cà, xuân cả cười cho nở ra hết thảy. Mùa xuân bát ngát lòng anh rộng. Ðựng hết trăm hoa cũng chẳng phiền? Còn nếu hoa hoét chí choé tranh cạnh nhau, đó nào có phải là lỗi của mùa xuân?
Anh Q. thân mến,
Chim hót hoa cười lại thấy xuân
Rét mướt mùa qua đã rụng dần
Ðất trời lại nở hoa tươi thắm
Nào, xuân!
Anh nghĩ xem. Bài thơ yết hậu tưởng như đơn giản nhưng nó chứa đựng những gì? Nó thuộc về dịch lý tức là các con số sáu, bảy, tám, chín. Số chín của nó là mấy số một, ba, năm trong số sinh tích lại. Cho nên nó phải từ Bắc sang Ðông, từ Ðông sang Tây để làm cho ra phía ngoài của số bốn. Còn số sáu của nó? Tức là số hai, số bốn trong số sinh tích lại mà thành, cho nên nó phải từ Nam sang Tây, từ Tây sang Bắc để làm cho ra phía ngoài của số một Ðó là sự biến đổi âm dương già trẻ, cái gì đầy lại vơi, cái gì vơi lại đầy. Kẻ đọc thơ quên chữ đạt nhạc, quên vần đạt ý, hiểu cho được cái lẽ: Mùa xuân này thì phải tiến lên! Mùa xuân về mà bực thánh nhân không biết tiến lên và tiến đi đâu thì thương thay, ấy là khốn. Ấy là kẻ cứng bị kẻ mềm che khuất, bị hãm ở dưới bị che ở trên. Ấy là bĩ. Trời đất cách tuyệt, thiên địa bất giao, muôn vật không thông, trong âm ngoài dương, trong mềm ngoài cứng. Ấy là đạo kẻ tiểu nhân lớn lên, đạo người quân tử tiêu đi.
Khốn khổ học tập như Tư Mã Thiên sao mà bị thiến? Thiến rồi lại còn vất vả chẻ tre mài mực lui cui viết bộ Sử ký những 130 thiên, đếm ra có đến 526500 chữ?
Tài hoa như Bạch Cư Dị sao bị ghét? Bị biếm? Bị ngồi chơi sơi nước? (Nguyệt bổng bách thiên quan nhị phẩm. Triều đình cố ngã tác nhàn nhân?)
"Hùng tráng, tha thiết như Hàn Dũ sao bị giáng?"
"Mẫn tiệp, kỳ tài như Vương Bột sao suýt bị xử tử?"
Chí như Khổng Tử cũng chỉ đi lẫn quẩn loanh quanh, bây giờ vẫn lẩn quẩn loanh quanh.
Thế? Bị thiến, bị ghét, bị biếm, bị giáng, đi lẩn quẩn loanh quanh...như bị xẻo mũi, chặt chân. Xẻo mũi gọi là Tỵ, bị thương ở trên. Chặt chân gọi là Ngoạt, bị thương ở dưới. Trên dưới đều phải che lấp đau hại, đó là Khốn, là tượng xẻo mũi chặt chân. Có phải nó là lẽ của những con số sáu, bảy, tám, chín vậy chăng? Cho nên rét mướt mùa qua đã rụng dần. Ðất trời lại nở hoa tươi thắm.
Nào, xuân!
Xuân, hạ, thu, đông. Xuân, hạ, thu, đông. Một cái vòng quay của thời gian. Một bài luân vũ. Có khi buồn bã (Luân vũ trong bóng mờ). Có khi rộn ràng: Ánh dương lên xôn xao! Hai ven bờ sông sâu! (Nhạc J. Strauss, lời Phạm Duy). Giới nhẩy đầm ôm lấy bốn mùa lướt trong sàn, thời gian xoè ra những chiếc váy diêm dúa phất phơ trong mặt trới chói lọi mùa hè, mơ mộng mùa thu, ảm đạm mùa đông, ấm áp mùa xuân.
Tôi, kẻ vụng về bẽn lẽn, không biết nhẩy đầm thế nào. Nhưng tạm khoe tôi biết nhẩy đầm là gì. Nhẩy đầm là gì? Phải chăng là nhẩy cỡn lên với điệu nhạc? Không. Nhảy đầm là âm nhạc. Nó dìu người ta đi trong bốn mùa. Nó dìu người ta vào vui buồn. Dòng đời có lúc chẩy qua những khúc cam go, có lúc từ từ êm ả. Có lúc nó bắt người ta dựng ngược như sờ phải điện. Có lúc người ta cong lựng xuống đưa hai tay lên trời bắt chuồn chuồn. Khi vờn vẽ như côn trùng bay vòng trên không trung. Khi chập chờn nhu những mối tình tha thiết mà tuyệt đối người ta nhường nhịn, không ai dẫm lên chân ai.
Anh Q. thân mến. Anh hay lén lút đi nhảy đầm. Tôi biết. Mỗi lần anh đứng trên sàn nhẩy, mọi người chung quanh biến mất, mọi con mắt ngưỡng mộ đổ dồn vào anh. Anh ưỡn ngực, thóp bụng. Anh thõng cánh tay xuống như một nhành dương liễu, thoắt cái vung lên, xoay người lại như một chiến sĩ há miệng ghé răng cắn chốt lựu đạn, sẵn sàng tung vào mặt quân thù. Chợt, khụy chân xuống. Ấy là tư thế của người lãng mạn ôm đàn Tây Ban Nha, anh ngước lên chớp mắt nhìn trăng sáng trên lầu cao. Tung mình về đàng trước! Ðá chân về đàng sau! Anh điều khiển trọn vẹn mỗi động tác của tay chân, xương vai, thớ thịt, anh là khuôn mẫu của cái đẹp, một bức tượng điêu khắc chuyển động. Anh lướt đến đâu, người ta đi đến đấy. Anh có thật là một tay nhảy đầm giỏi chưa? Chưa. Dẫu cho anh đã đặt chân lên hầu hết các sàn nhẩy Âu, Á, đã giật nhiều giải Boston, Cha cha cha và Tango.
Vì sao một gã đàn ông phải cực nhọc như thế? Phải bán bảo hiểm. Phải cưa cây. Phải đi săn. Phải đi cầy. Phải gân cổ lên điều khiển cuộc đời. Phải cắn răng lại. Vì chúng ta vừa là nhà văn, nhà thơ, vừa là chiến sĩ. Anh giả nhời tôi như thế. Nhưng anh Q. ạ. Cuộc đời khúc khuỷu muôn nghìn nẻo. Chiến sĩ người ơi cũng thế a?
Bên cái nhu cầu thẩm mỹ của một cuộc nhảy đầm, chúng ta có nhất thiết phải biểu dương cái đẹp trong mỗi bước đi trước mặt mọi người chăng? Có khi cái bàn toạ của chúng ta cũng ngứa ngáy. Chúng ta cũng cần làm như mọi người, nghĩa là như những anh mới học nhảy đầm hoặc như những anh chưa bao giờ biết nhảy đầm, chỉ ngồi đực mặt ở góc bàn tối, ngượng nghịu nhấm nháp mãi ly Coca Cola đã cạn. Vài cục nước đá đã tan. Ấy là tôi nói về tôi.
Một người nhẩy đầm giỏi có thể giả vờ cho người ta dìu đi. Anh ta là âm nhạc. Các chuyển động xẩy ra hồn hậu như chúng ta cho phép bốn mùa dìu lấy chúng ta. Nào sương thu gió nhẹ. Băng tuyết lạnh lùng. Vả chăng cách chi mà anh điều khiển được mãi tất cả các cuộc chơi? Chân anh đêm rồi bị một tay mơ đi giầy cao gót đạp phải. Nó thủng một lỗ sâu hoắm. Tai anh lùng bùng vì tuổi tác. Những âm thanh choe choé của dàn nhạc điện tử không làm anh còn phân biệt được đâu là nhịp mạnh, đâu là nhịp yếu để điều khiển đôi giầy. Ðể cho đúng nhịp như lính quân trường đi ắc ê. Tất cả những cái ấy, nào có phải lỗi của anh?
Than ôi những điệu luân vũ trong cuộc đời không giúp cho ta ngộ ra cái lý sự hay sao? Tất cả những kinh kệ đại thừa tiểu thừa. Koran, Tân ước, Cựu ước, Tin lành, Chính thống, Thệ phản. Dịch học với những con số sáu, bẩy, tám, chín. Những vết nứt trên mấy cái mu rùa? Ông Sartre, ông Heidegger, ông Camus? Ông Miller?
Tất cả cái khả năng luận lý, sức chứa đựng và chịu đựng, những hệ thống cũng như phi hệ thống của các tư tưởng có sẵn chỉ giúp ta lắp bắp nghiến răng với cuộc đời như là một tay mơ (là tôi) đang tập nhẩy đầm một mình với chữ nghĩa và tư tưởng trước một chuyến đi xa. Ta có thể bước vụng về hay nhuần nhuyễn trong âm thanh văn chương biền ngẫu, nhưng việc ấy có quan trọng khỉ gì? Và đẹp hay xấu cũng chỉ kín dăm trang báo, làm vui lòng dăm ba anh dở hơi. Ý tôi muốn nói mấy anh làm báo chữ Việt ở Mỹ.
Ðến đây tôi thò chân xuống đất lạnh. Ðêm đã khuya. Tôi nhón gót đi vào phòng ngủ lấy ra một cuốn lịch ta. Hôm nay là 19 tháng 11 Tây, nghĩa là mới 18 tháng 10 năm Bính Dần. Ngày Ðinh Mão. Tiết Lập Ðông. Xin nói rõ: Hành Hoả. Nên hòa giải tranh chấp, khai mở, sửa chữa nhà cửa, cầu hôn. Kỵ đào giếng, săn bắt, sát sinh. Tờ lịch ghi thêm: Bạn bè là nghĩa tương tri, có sau có trước vẹn nghì mới nên.
Hai tháng nữa mới đến tết. Ðối với tôi, đây là cái tết thứ mười ba ở Mỹ. Hai tháng nữa khi những gì tôi viết ra đây biến thành chữ in, xuất hiện trên một tờ báo xuân thì anh biết đâu sẽ đọc với tấm lòng nghiêm chỉnh của một năm mới. Ðiều ấy có quan trọng gì? Vì tôi đã ở một nơi xa. Vì tôi sẽ đứng trên một hòn đảo đầy những bóng dừa và những con thuyền vỡ vụn, với những tâm tình khác, với những con người khác. Ở hòn đảo ấy mặc dầu người ta đau buồn đến đâu, bốn mùa vẫn là mùa hè. Tôi không biết có những thứ hoa gì nở. Chuyện ấy không quan trọng, cũng như tôi không biết nhảy đầm thế nào. Nhưng tôi biết nhảy đầm là gì và như thế, tôi cũng có thể nói mình sẽ rộng lòng yêu hết các loài hoa, bất kể ôn đới hay nhiệt đới. Và như thế, bao giờ, dẫu cho mới là tháng Mười ta, tôi vẫn có thể nhắm mắt lại, tưởng ra mùi khói hương trầm. Tưởng ra một đêm ba mươi trong lúc đạp xe trên con đường Hoàng Diệu ở Ðà nẵng hối hả trở về nhà thì tiếng pháo nổ ran, giờ Giao thừa đã tới. Và như thế, giữa một đêm mùa đông lạnh, còn hơn một tháng nữa mới đến Giáng sinh, tôi vẫn vui lòng ngồi xuống vui chơi với ý nghĩ và chữ nghĩa đểõ thanh thoả đòi hỏi của những anh dở hơi, để giúp vui các bạn về một dự phóng mùa xuân, không chừng còn giúp vui cho vài ba độc giả rỗi rãi, tò mò trong những tháng năm mới mẻ.
Không. Tôi không phải là văn sĩ. Càng không phải là thi sĩ. Tôi, kẻ bẽn lẽn ngồi ở góc bàn tối, lúng túng nhấm nháp cốc nước đã cạn, cục đá đã tan. Nhưng tôi nhìn trên sàn biết mùa xuân sắp trở về, mặt trời sẽ trong trẻo. Và mong khi tôi đi rồi, vắng mặt một anh bẽn lẽn nhưng hay nói, thì các anh vẫn nhẩy những bài luân vũ mới, nhanh chậm không cần. Không biểu diễn. Chỉ cần vui vẻ với những đóa hoa sẽ nở ra chân thật. Hoa Quince là thứ hoa đầu tiên báo hiệu mùa xuân trên xứ sở này. Rồi hoa đào, hoa mơ, hoa mận, hoa thược dược, hoa thuỷ tiên. Ðừng đạp chân lên nhau. Ðừng nhậu nhiều rồi ôm nhau khóc lóc.
Anh Q. ạ. Ðôi khi trong cuộc đời, người ta khám phá ra mỗi người chứa đựng cùng một lúc nhiều đối cực. Người ta có thể là một con rùa đi chậm chạp, chắc chắn, kiên nhẫn chống đỡ những trách nhiệm kềnh càng. Ðồng thời cũng là một con tho,û thoắt một cái quanh quẩn nhai lá trong vườn, thoắt một cái lang thang trên vạn dặm xa xôi. Người ta có thể vừa là một con kiến tha mồi chăm chỉ, vừa là một con ve ca hát rộn ràng. Mỗi người thoả hiệp với các đối cực của mình bằng cách này hay cách khác. Mỗi chúng ta có thể sống yên ổn trong sự sắp xếp các mâu thuẫn như phân công cho tay phải và tay trái. Hoặc quay quắt với các xung động từ mâu thuẫn tạo ra. Có người tìm cách tiêu diệt. Có người tìm cách hư vô hoá. Có người sống với, thở với. Mâu thuẫn giữa trang nghiêm và cười cợt. Mâu thuẫn giữa hạnh phúc và bất hạnh. Mâu thuẫn giữa thiện ác, trắng đen, lý luận và cảm xúc.
Thích nhất có lẽ là khi chúng ta không tìm cách làm cho chúng biến mất, không có một cố gắng gì, không ý thức về, chúng có thể có, có thể không và tôi vẫn sống. Sống thôi.
Mùa xuân, thực là lúc thuận tiện. Nhìn ra vùng mây trắng lãng đãng, hoa đào nở rộ trên trời xanh, những con kiến di chuyển một hàng dọc. Người ta không phân tích. Không sử dụng luận lý. Người ta hạnh phúc. Và như thế người ta biết đâu lại hồi phục đầy năng lực để giải quyết các bất hạnh của mình, và may ra còn đóng góp cho người khác.
Thực ra đây mới là điều tôi phải trang nghiêm cầu chúc cho anh, cho chính tôi và tất cả mọi người. Trong những gì tôi viết đây vào những lúc khác nhau, với những đoạn khác nhau, mong anh vẫn biết đâu là thật đâu là giả. Ðâu là lúc vui chơi. Ðâu là lúc múa may như tay Sơn đông mãi võ, huyênh hoang với cái giả ngộ của văn chương. Nhưng anh cũng biết lức nào là lúc tôi thực thà chìm đắm trong nội tâm với trái tim yên ổn đón chờ. Giữa chúng ta, quả có hơi khật khùng. Cũng như tất cả mọi người, ai chẳng có lúc khật khùng?
12.
Thơ tháng 5, 1987
Thoại Châu, tôi biết trời chưa sáng
Mười mấy năm rồi đấy Thoại Châu
Berkeley vừa nở hoa đào
Khi về mở lại căn buồng cũ
Ngóng nhìn ra vịnh thấy đêm thâu
Tại sao bóng đen và sương ướt như sầu
Dưới đất liền, rồi trên núi cao
Thử nghĩ tại sao không hạnh phúc
Tại sao cuộc sống không mầu?
Tại sao không trăng không sao?
Tất cả tại sao về những mối sầu
Dĩ vãng chìm theo trăng lặn
Tháng ngày mặt biển nhăn nheo
Sao buổi chia tay không gì đáng nói
Giả như ai thích chuyện phi thường
Mười mấy năm trời nơi gió bụi
Mười mấy năm toàn chuyện bi thương
Khi về mở lại căn buồng cũ
Chạm mặt hoài những chuyện buồn đau
Thử nghĩ thời gian và hạnh phúc
Góc tường dựng đứng bên nhau
Những bức tường trói chặt bóng đêm
Những chấn song
Những con đường chưa thắp sáng đèn
Thoại Châu tôi biết trời chưa sáng
Gió bụi sương mưa vẫn dãi dầu
Ðêm nghe tiếng khóc trôi qua biển
Mười mấy năm rồi đấy Thoại Châu
Thơ đứng xoa râu
Ðôi lúc thơ là tiếng lặng im
Là hoa bên đá lá bên thềm
Là cây bên suối mây bên gió
Là lúc thơ về bắt lặng yên
Là lá hoa là gió là trăng
Là đoá hương thơm nở giữa rằm
Là xưa như nắng xanh như núi
Là ánh sao mờ chiếu lạnh căm
Là tiếng mây trời khóc lặng yên
Là hang u tối nhối ưu phiền
Là con chim sáo bay trên sóng
Là lũ cây rừng đứng ngả nghiêng
Là đá cheo leo dựng giữa trời
Là lòng yêu mến thủa xa xôi
Là bông hoa phượng sau mùa hạ
Là lúc chim bay vẫn mỉm cười
Lụa ở trong tằm lụa chẩy ra
Thơ có khi đau cũng khóc oà
Thơ mùa đông lạnh như Nam cực
Thơ, có khi thơ chẳng có vần.
Nhiều cơn buồn bực ứa ra thơ
Sao thơ thương tích tự bao giờ
Thơ, con mắt tinh như cú
Soi vào chính giữa tâm tư
Ðây lúc thơ về giữa lặng im
Cùng hoa bên đá lá bên thềm
Cùng cây bên suối mây bên gió
Là lúc tâm hồn bỗng lặng yên
Là bóng ai về giữa tháng năm
Là cụm hoa ngâu lạnh chỗ nằm
Là xanh như núi xưa như nắng
Là ánh trăng mơ chạy giữa rằm
Thơ vẫn là tre vẫn là măng
Vẫn là gió thổi vẫn là trăng
Vẫn giọng thơ xưa nguyệt với rằm
Vẫn xanh như nắng xưa như núi
Vẫn bóng sao cô quạnh chỗ nằm.
Và những con đường thơ đã đi
Ðã cười đã khóc khi chia ly
Trên vùng xa thẳm lưng triền núi
Thơ đứng xoa râu chẳng nói gì.
Bến sông xanh
Men bờ sông xanh
bơi về nơi em
bước lên tiếng cười rộn rã hương thơm
Khép cánh cửa ngày đêm xô xát
bến sông xưa
bóng sao chìm
tiếng em hát như em bé hát
Em, một đêm anh ngửa mặt nhìn
thả ý nghĩ đi trên bờ ruộng
Còn em hỡi, bơi trong dĩ vãng
buộc tóc ngón tay hay đuôi tà áo
trên con thuyền
giữa lá sen
Anh nghe tiếng bên sông gọi lại
Khi cuối đông hoa cải phất phơ bay
Khi xuân về nở những nhành mai.
Rừng thiên nga
(1)
Em cúi xuống nhìn mặt hồ nước lạnh
Tóc em bay những sợi tơ chiều
Bao nhiêu nắng long lanh vai áo
Khi ra về còn nhớ bây nhiêu
Bên dòng suối ngừng chân đứng lại
Nghe trên rừng rộn rã chim kêu
Sau đỉnh núi, một mặt trời mới mọc
Trong thời gian lẫn lộn sáng, trưa, chiều
Anh ngồi nghỉ giữa hồn núi thẳm
Em gối đầu lên đá xanh rêu
Anh cười nói như mấy nghìn năm trước
Tiếng vui đùa, những tiếng thân yêu
Ðôi con mắt em ngời hạnh phúc
Còn thời gian tựa tiếng chim kêu
Anh chăm chú nhìn mặt trời mới mọc
Trong rừng cây, giữa một buổi chiều
(2)
Anh sẽ yêu, chưa bao giờ yêu vậy
Anh sẽ buồn thành lệ chảy mênh mông
Anh sẽ đứng giữa đất trời bát ngát
Gọi tên em cho đến vô cùng
Em sẽ thấy tự đời máu lệ
Những thiên thần gẫy cánh trên không
Em sẽ thấu cho những chàng xa lạ
Trên phố phường run rẩy mùa đông
Em sẽ hiểu tình yêu, cõi chết
Áng mây trời mầu sắc mông lung
Có khoảnh khắc trong bầu trời bất diệt
Anh đã yêu em, yêu đến vô cùng
Ta sẽ bỏ ta đi như ta đến
Ta sẽ về trên những nẻo hương thơm
Em, giấc ngủ có muôn vàn mật lệnh
Cõng em về qua đám khói sương
Rồi có những mùa đông lên tiếng
Và bầu trời cũng hát vẩn vơ
Em, nếu hiểu tự tận cùng sâu thẳm
Anh bây giờ vẫn đẹp tựa anh xưa.
13.
Trời mưa ở Berkeley
"Và tôi là một mũi tên, một giọt sương đã vụt bay".
(Thơ của Sylvia Plath)
Berkeley một buổi cuối tuần. Trời đã sang xuân, nhưng hôm nay vẫn trông như một buổi mùa đông, tuy không lạnh bằng. Góc đường Vine và đường Oxford. Nhà cửa làm bằng gỗ, thường là hai tầng, có vườn. Cây cỏ mọc thong thả, không bị cắt tỉa quá cẩn thận như những vùng kỹ nghệ, một vẻ đẹp mềm mại, hoang dã. Mùa này hoa me trên các bãi cỏ bên đường bắt đầu nở, màu vàng da chanh tây, tức là vàng pha xanh lá cây. Trời không nắng.
Ngay góc đường Vine và đường Walnut, một tiệm bán cà phê hột, dụng cụ pha cà phê, ly tách, những cái cối nhỏ bằng đá hoa cương trắng hay đen như hạt huyền. Tại đây cũng có một quầy bán cà phê pha sẵn cho những người chen chúc sắp hàng mua đem đi. Ðem ra trước mặt đường uống túm tụm. Họ mặc quần áo cũ kỹ nhưng đều có cá tính. Nhiều người mang theo sẵn cái ly để mua rẻ hơn được 15 xu. Một ly cà phê giấy 45 xu. Mang theo ly nhà 30 xu. So với thời giá trung bình 50 hay 75 xu, đó là một tiệm cà phê to go rẻ tiền. Cà phê ngon.
Tôi ngồi xuống cái ghế gỗ dài đóng liền vào vách trước cửa tiệm, phía lề đường. Bên cạnh tôi, một phụ nữ trẻ, to lớn, tóc mầu hung. Trước mặt, một thi sĩ điên. Gã ngửng mặt chăm chú nhìn trời, đọc những điều khó hiểu, cúi xuống cặm cụi viết với cây bút chì. Tấm giấy trắng chi chít chữ đặt trên mặt ghế xi măng dưới gốc cây. Gã ngồi ở một đầu ghế, khom mình xuống tờ giấy. Viết. Nói lớn những điều khó hiểu.
Ðám đông tụ tập trước mặt quán. Ông già râu bạc đeo cái đàn mandoline sáng nay lại có mặt. Hình như âm nhạc của ông ta không có nét rõ rệt. Hình ảnh ấy chỉ thêm vào cho đám đông một chút nghệ thuật, bên cạnh thi sĩ điên, những người đàn bà cao lớn mặc nhiều mầu đen, đeo vòng bạc, dắt theo những con chó không có nguồn gốc như lang, vằn, vện.
Berkeley có cá tính, đối với tôi, một người ngoại quốc. Những vòng bạc, mầu đen của dạ và vải thô, con cháu của những người hippy, truyền thống của ngôi trường đại học nhìn thẳng ra đường Telegraph đầy những nghệ sĩ thủ công nghệ. Người da đen đội mũ len rách, đi lừ đừ. Một cô gái xinh đẹp may vá bên vệ đường, cạnh con chó cuộn mình nằm ngủ mặc kệ người qua lại.
Cái thích của du khách là nhìn những cái mới mẻ, chẳng hiểu gì, mà đối với tôi, một người ngoại quốc, những cái đó là: người đàn bà để râu mép, ông Mỹ trắng râu bạc đeo cây đàn mandoline, những người da đen ngồi trên mấy bậc thềm gỗ. Và, mặt khác, tôi còn là một người giản dị, hơi thô lỗ, kém tinh tế, chìm đắm trong thế giới nội tâm, tôi bất cần (I don’t care), tôi xa lạ, tôi nhìn lờ mờ, vì sau hết, tôi còn bị viễn thị.
Quan sát là một sự thú vị. Tất nhiên. Nó làm đời sống đang lù mù bỗng sáng sủa hơn một chút, hoặc nở hẳn ra tươi thắm như những đóa hoa hồng tỉ muội Pink minirose Minirose, rất nhỏ, rất chói.
Ðời sống hiện gồm có tất cả. Bên kia là trại tập trung, ở giữa là biển cả, bên này, những nhà hàng ăn treo lủng lẳng xúc xích, thịt bò bằm, hoa đào, hoa me đất, hoa hồng tỉ muội, những người Mễ ăn Taco, người trắng và đen, thi sĩ điên, những thi sĩ không điên. Những nhà khoa học. Kỹ sư, kiến trúc sư, kinh tế gia, chính trị gia, tài phiệt. Và ở góc đường Vine, đường Oxford, dưới những căn nhà gỗ, bên vệ đường, hoa me đất nở. Tôi đi trên những con đường ấy quan sát, nghĩ, nhìn, dừng lại ghi chú, vuốt ve một con chó mầu nâu, nói chuyện với một cô bé con xinh đẹp.
Berkeley. Tôi nghĩ như bất cứ một du khách lẩn thẩn nào. Hãy hồi tưởng về những du khách Mỹ bụng bự mặc quần ca rô ngắn, không giống ai, đi lênh nghênh trên hè phố Sài Gòn năm xưa với cái máy ảnh. Cái gì cũng chụp. Như một ông Liên Xô. Một ông Trung Cộng. Tôi vừa gặp một đám nữ du khách Tầu. Tầu cộng hay Tầu Ðài Loan? Hồng Kông? Họ ầm ĩ mua những đồ kỷ niệm rẻ tiền.
Ở quán Gió Ðông, một tiệm sách Á Châu, có những quyển sách tuyệt đẹp bằng chữ Tầu và chữ Nhật. Tôi lân la mở ra mấy trang giấy, ngẫm nghĩ về liên hệ văn hó, yêu ghét với nhau giữa những người Á châu, tôi thấy văn hoá Tầu đẹp, văn hoá Nhật đẹp, văn hoá Hy lạp, La mã, Eskimo, người da đỏ, người Nam Mỹ, người Trung Ðông, người Hồi giáo, tất cả đều đẹp lạ. Mặc dầu vậy, tôi rờn rợn nhìn hình ảnh những cái mũ sắt đe dọa của người võ sĩ phát xít Nhật. Rồi tôi lưu luyến cái hình bìa đơn giản của một nhà văn Tầu. Quay lại ngắm cái ảnh cô Geisha mặt phấn trắng. Người Nhật thực là một giống đặc biệt. Và người Việt Nam vừa nghèo, vừa nhỏ, vẫn kiêu hãnh và độc lập.
Những món nợ ràng buộc người Việt về văn hoá. Tôi rất chán nợ nần.
Phải mất thì giờ rất lâu để tìm cho mình cái nhìn sòng phẳng về mình, rồi về dân tộc mình, ý niệm quốc gia, nhân loại, tất cả những cái nhìn sòng phẳng về những nền văn hóa đẹp đẽ khác trên thế giới, mở đôi mắt ngắm vẻ đẹp của đất bùn trét trên mặt những vũ công Phi Châu, chiếc váy sặc sỡ của một cô con gái Tây Âu hay Ðông Âu, khuôn mặt trang điểm tỉ mỉ như chạm trổ trên ngà voi của một cô gái Tầu có nước da mầu vàng đất. Mà vẫn yêu dân tộc mình mãnh liệt.
"Bạn ơi, tôi sẽ tặng cho bạn cái mặt trăng này. Nếu nó rụng xuống, bạn gắng mà bắt lấy."
Berkeley sáng ra ròn rã với những ly cà phê nóng hổi. Chiều về ngần ngừ, làn khói buông từ những ống khói trên nóc nhà. Trên núi.
Tôi hút một điếu thuốc, nhìn ra ngoài cửa sổ. Trời xa ánh ngời một giải vàng, phủ lên những đỉnh nhà chọc trời ở San Francisco, cách mặt vịnh mầu bạc, mấy ngọn núi xanh lam.
Bên này là Berkeley. Bên kia là San Francisco. Bên kia nữa là Hà Nội, Huế, Ðà Lạt, Vũng Tầu, Hội An, Hồng Kông, Thái Lan.
Văn chương có khả năng làm cho người ta đi lạc rất nhanh trong hiện tại tương lai, quá khứ, đến những điểm khác nhau mọi phiá quả đất. Lạc luôn ra ngoài vũ trụ âm u, cô độc, cái lỗ đen sâu hút. Thì cứ trở lại với Berkeley 1987, những thùng đồ gửi về Việt Nam, những người tỵ nạn mắc kẹt trên các đảo bé bằng bàn tay từ năm này sang năm khác, họ điên khùng dưới nắng, trên cát, lở loét và thần kinh xáo trộn vì dồn nén, chẳng còn nước nào muốn nhận, kể cả Mỹ, đàn anh khối Tự do chống với Nga, đàn anh giới Cộng Sản, bạn của Tầu. Cộng Sản thân hữu. Còn Cộng Sản, họ đã làm cho người ta bỏ nước ra đi.
Tôi nên dừng bút ở đây, điểm một tiếng cười khà. Quay lại bảo: Cookie, có lẽ thay vì một tuyệt phẩm điện ảnh, bà nên làm phim tài liệu. Sẽ được trợ giúp tài chánh. Hãy mang máy quay tới các trại tỵ nạn. Hãy chiến đấu cho họ. Bà sẽ có lý do tốt. Không sợ sai. Và cũng dễ thực hiện thôi.
Tôi hụt một chuyến đi mấy tháng rồi. Bây giờ chỉ sống. Ðôi lúc, dừng lại. Take a break. Nghỉ một chút. Quan sát. Nghĩ. Ghi chú. Chia nhau một chút núi đồi, hoa lá. Những con đường lên núi, chim sẻ kêu luýt chuýt (chữ của nhà văn B.V.P. bạn thân của nhà thơ N.T.N.). Tôi cũng cần nói rõ thêm là hôm nay ở đây trời không nắng nhưng cũng không có bom đạn.
Tôi nhìn xuống đường thấy hai cô bạn gái dừng xe, bước ra khỏi xe, ôm chầm lấy nhau. Dơ tay chào. Lên lại xe. Lái xe đi. Ðời sống diễn ra đúng nhịp với cái đồng hồ của hiện tại. Những âm thanh xung quanh vang lên trong điện thoại bằng tiếng Anh. Xe chạy rì rào dưới đường và cây lá xanh.
Những bức tường bằng kính vỡ loảng xoảng khi các ngôn ngữ thông thường được ghi chú bỗng vượt lên, nổ tung ra. Tôi đọc T.G., truyện ngắn Vũng Lầy đăng trong tạp chí V.H. số mới (tạp chí tiếng Việt, xuất bản ở Orange County, California). Tôi gọi điện thoại viễn liên hai ba lần từ Berkeley. Tóm dịch câu chuyện ra tiếng Anh bạch thoại, giảng cho Cookie. Bảo đó là một mảng tin tức nữa để cuốn phim tương lai của bà về Việt Nam nếu có, được phong phú hơn. Toàn ảo tưởng. Ðôi khi văn nghệ chỉ là ảo tưởng. Rồi cũng có khi là bom.
Tự trong cùng mỗi người nghệ sĩ, họ đã nổ tung ra.
Sự nghiệp của thi ca, văn chương, phim ảnh, hội hoạ, triết học... là những mảnh vụn nổ tung ra. Chắp lại thành những cuốn sách. Những bố cục mầu. Bức tượng đào lên từ đất, đầu một đàng, tay một nẻo. Có khi sứt mũi, sứt tai.
Người nghệ sĩ cặp giò khẳng khiu vẫn đẹp như chúa Giêsu đóng đinh trên thập tự giá. Bị ném đá. Bị xua đuổi.
Sự nghiệp nghệ thuật làm bằng những mảnh vụn tan nát. Ðây là thời đại của chúng ta: Tượng làm bằng những lóng tay, mảnh xương tìm lại được. Bằng hoài niệm. Bằng yêu thương và căm thù. Bằng cô đơn thất lạc, chết chìm trong cuồng phong bão tố. Tù ngục. Bom đạn. Chia cách. Làm bằng la de Budweiser Mỹ, Vodka Nga, Mai quế lộ Tầu. Bằng nước mắt và các thứ độc dược. Những đứa con lai. Con côi. Cuồng lưu. Những gì vỡ vụn sẽ một ngày hàn gắn lại.
Những hy vọng, tuyệt vọng, rồi lại hy vọng. Tức là nước mắt và sau đó là mồ hôi. Khóc để kiến tạo bằng óc, cảm xúc và bắp thịt, cho những mảnh vụn trở thành cuốn sách, một bức tường vỡ dán lại bằng keo, keo điên, nhãn hiệu thương mại ở Mỹ hiện gọi là Crazy glue.
Núi chợt loá sáng lên màu vàng. Những mảnh tường trên các ngôi nhà loá lên như vàng. Tôi quay lại sau lưng nhìn. Mặt trời từ bên kia vịnh San Francisco loá lên như vàng.
Mặt trời vàng, cũng là nghệ thuật.
Người ta cứ bảo người viết là một nhân chứng cho thời đại mình. Người ta cần nhiều người chứng. Mỗi người là một mảnh sự thật, bao gồm những gì tầm mắt có thể thấy, dẫu người ta có thể bị cận thị, viễn thị, hay loạn sắc cũng vậy. Người ta vẫn nghe. Người ta nếm những vị cay đắng ngọt bùi. Ráp tất cả lại một cách thẩm mỹ, người ta có một bức tượng. Nó tượng trưng cho vẻ đẹp của sự thực (theo quy ước như Venus là vẻ đẹp). Cho nên người ta ngồi đây nhấm nháp một ly cà phê nữa, vào buổi sáng hôm sau. Mưa phùn. Mưa phùn gây gấy lạnh. Vào một buổi sáng hôm sau, trời trắng đục như nước gạo.
Liệu người ta có thể làm chứng cho tất cả cuộc sống phong phú đang diễn ra ở mỗi góc đường. Ghi hết xuống được mọi cái xấu, cái tốt, những vẻ đẹp? Lòng yêu mến. Sự đau đớn, nhớ thương, tức giận. Hay người ta có quyền chọn ra một cảm xúc nổi bật nhất để ghi lại như ấn tượng về một vệt màu sáng nhất hay tối nhất?
Tôi đây, một sinh vật hãy còn tự do di chuyển trên hè phố, không bị Cộng Sản nhốt trại tập trung, tôi đi la cà, tôi ngồi trong những quán cà phê, đứng lại dọc đường vuốt ve một con chó, gọi điện thoại cho những người bạn ở cách xa 800 dặm, muốn nói gì thì nói. Ðồng ý là chống Cộng, nhưng sau đó là cái gí? Bạn tôi hỏi. Hôm qua, buổi trưa tôi ăn thịt bò bằm. Buổi chiều, bánh mì xúc xích Ý, cá hồi xông khói, tráng miệng bằng sữa chua trộn với dâu tây.
Ở góc đường Vine và đường Shattuck là tiệm sách Black Oak Books. Trên cửa kính hôm nay có dán một tấm cáo thị mầu tím. Chúng tôi rất vui sướng mới bạn tham dự buổi phát giải thưởng lần thứ sáu của Hiệp hội những nhà phê bình sách thuộc vùng vịnh Cựu kim sơn. Diễn giả then chốt: Carolyn Kiser nói về Làm thế nào cho con của bạn trở thành một nhà văn, kết quả bảo đảm. Buổi phát giải tổ chức vào ngày thứ sáu 20 tháng 3, 1987 (ngày sinh nhật của bạn tôi), sẽ trao cho ba người viết tiểu thuyết, bốn thi sĩ, hai người về văn học nghệ thuật, hai người về các đề tài hiện đại, cuối cùng bốn cuốn sách dịch. Một cuốn dịch tuyển tập thơ của Yehuda Amichai. Một cuốn dịch của Czelow Milosz. Một cuốn tự truyện của Semen Ivanovich Karatchikov.
Có lẽ, tôi nghĩ, đây là một tiệm sách quan trọng. Trong tiệm sách có một phòng nói chuyện chứa được khoảng 100 người. Một cáo thị khác dán trong tiệm sách ấn định lịch trình các buổi nói chuyện của một số tác giả có sách mới xuất bản. Tuần rồi, nhòm vào thấy một ông tác giả hói đầu. Hệt như Lenin. Hình như ông ta có đánh phấn cho ăn đèn. Ông có một vẻ thông minh lạnh lẽo.
The Making Of The Atomic Bomb. Cuốn sách bìa đỏ, cuộn khói nguyên tử bốc lên mầu vàng. Tác giả, Richard Rhodes, nói về lịch sử quả bom nguyên tử, Tracy Kidder giới thiệu: Ðây cũng là một công trình văn chương.
Những tiệm sách quyến rũ tôi nhất là vì những cái bìa. Nhiều tuyệt phẩm hội hoạ Trung hoa được in tinh vi. Hình ảnh những ngôi đền đá trong các thành phố lặng thinh của người Maya. Và các cô con gái tươi cười.
Mưa phùn. Mưa phùn. Ở Hà Nội có một thứ mưa phùn người ta gọi là ngoài phố mưa bay xuân bốc rượu, tấc lòng mong mỏi cháy tê tê.
Tôi đang đi trong mùa xuân và mưa xuân chỉ vừa đủ để ướt mặt. Bình an. Và có lẽ hạnh phúc. Tôi nhìn những đoá hoa đỏ nở ra trên lá xanh đậm. Hạt nước đọng trên cỏ lấm tấm. Long lanh. Và chim bay trong mưa. Văn chương thì chơi đùa với hạnh phúc và bất hạnh, cùng một lúc. Rồi thẩm mỹ, âm nhạc, trộn lẫn với các khát khao về sự thực và điều thiện. Tất cả góp lại thành những bản tự phê, tự kiểm, xảy ra từng giây phút trong đời sống của một người viết văn.
Tôi về lại căn phòng. Rồi lại đi ra ngoài phố. Nước ướt nhoè trên mực, trên xấp giấy, nhưng con đường đã khô hơn. Mặc dầu vậy, các cô gái vẫn che dù. Một ông bố dắt tay đứa con chạy tung tăng. Tôi dừng lại tiệm bánh mì, số nhà 1512 đường Shattuck, nhìn những cái bánh mì khô mốc treo lủng lẳng một cách nghệ thuật trên quầy kính để trang điểm cửa tiệm, để quảng cáo những cái bánh mì mới ra thơm phức xếp bên trong. Tôi bước qua cái ngân hàng Bank of America, nhìn một cô tóc vàng đang lãnh tiền ở cái máy tự động Versateller. Cô ta quay lại. Cái mũi quặp xuống như diều hâu.
Tôi bước vào quán cà phê, số nhà 1540 đường Shattuck. Tôi tự làm cho mình thoải mái, một lần nữa, trên cái ghế gỗ teak, nhìn những người Berkeley đọc báo, uống cà phê, nói chuyện. Một cô sinh viên cầm cuốn sách. Một cô khác đang chùi vết kem dính trên cái váy đen. Thế giới đi về đâu? Người ta có thể bước ra góc phòng lục lọi trong cái thùng giấy. Một chồng báo cũ. Có thể có cả báo mới ra ngày hôm nay. Bệnh AIDS đang tiếp tục lan tràn. Vatican chống lại việc sản xuất trẻ con trong ống nghiệm. Cầm lấy tập báo Mỹ hàng ngày, có thể đọc một tuần không hết.
Tôi rời quán cà phê ra đường tìm thêm một mớ mảnh vụn nữa. Nhưng bất lực. Ðời sống thật dài giòng. Và phong phú. Hơn hẳn cái giới hạn của diễn tả và ghi chú. Chiều sâu của đời sống là mầu gỗ gụ, người ta không nên tạo ra bằng xảo thuật như là đánh dầu bóng vẹc ni. Ngườt ta bỗng đâm ra bối rối liếc nhìn chung quanh một tiệm cà phê khác, âm nhạc nhẹ, những cô gái mạnh khoẻ hay xinh xắn, một anh Iran tóc xoăn, bức tranh vô hình dung mầu tím lẫn với xanh lá cây, bánh croissant, và bạn ơi, có một tấm tranh in lại của Modigliani thời lãng mạn cổ dài.
Tôi ngừng chân, hớp một hớp cà phê sữa sủi bọt nhẹ, nó nhẹ tất nhiên vì nó là bong bóng. Ðời sống ấm ngọt trôi vào cổ họng, trôi xuống dạ dầy. Như mỗi lần người ta ngừng viết, ngừng sống, ngừng làm việc, ngừng kiếm tiền, ngừng xáo trộn. Người ta ngó vào cặp mắt của những cô bé gái. Hai cô bạn đang ưống nước trà ăn bánh nho. Một ông già để râu dê, đội mũ cát két như thủy thủ, ông ta đeo kính cận thị, đọc báo San Francisco, Examiner and Chronicle.
Anh A, B, C, D, E, F thân,
Kết luận là hy vọng. Luôn luôn hy vọng và làm tốt đời sống. Luôn luôn tiến lên, tiến lên. Tiến đi đâu? Ði đâu cũng được. Vào lòng người. Từ lòng mình tiến thẳng ra. Tiến đến một vùng cao sáng: Ðất mọc cỏ non và lúa vàng. Sông chẩy nước ấm và trong như nước giếng khơi. Con diều bay thẳng dây chứ không rơi xuống tả tả như tranh của V. Ð.. Không hằn học. Không khóc than. Không đau buồn. Không chia cách. Một miền cỏ non xanh tận chân trời, cành lê trắng điểm một vài bông hoa. Ngoài đầu cầu nước trong như lọc. Ðường bên cầu cỏ mọc còn non. Cỏ non? Thứ này nuôi bò sữa thì tuyệt. Rồi gì? Mít ổi chín? Tiên nữ đong đưa hai cánh tay hát bài Thiên thai! Thiên thai! Chúng em xin dâng hai chàng trái đào thơm. "Và tôi là một mũi tên, một giọt sương đã vụt bay," thơ của Sylvia Plath. Chuyện Sylvia tự tử, đó là chuyện khác. Còn trên vùng biển chỉ có cát trắng, nắng ấm và san hô. Những con cá nhiều mầu. Không ai tự tử. Không ai chết chìm. Chết ngộp. Chồng chết, vợ chết, con chết. Mày là ngụy. Chính mày mới là ngụy. Cơm hẩm cháo hiu. Thuốc đất sét. Chợ trời mánh mung. Nhà thổ. Bệnh AIDS. Thế giới đây là một thế giới trước cả thời tiền sử, lúc ấy không khí chưa bị ô nhiễm, chưa có các loại vi trùng, nhân chi sơ tánh bổn thiện. Và dẫu cho các cậu các cô xinh đẹp vẫn thường hay tinh quái, nhưng sự tinh quái ấy đáng yêu, nó không xấu. Nó như văn chương nhăn mũi. Nó là vẻ đẹp của Tây Thi. Và lúc các ý nghĩ cuồn cuộn chảy như sông, hay lững lờ như suối, va chạm đứt gẫy như ghềnh thác thì tất cả cũng chỉ là vẻ đẹp của thiên nhiên: Mặt trời mọc, mặt trời lặn, ánh sáng, cây cối, vẻ mạnh bạo hơi trẻ con của đàn ông, vẻ tươi tắn vừa muốn được người te che chở vừa muốn che chở cho người ta, của đàn bà.
Và ngôn ngữ như âm nhạc trôi, không bị câu thúc, ngăn cản, thắc mắc bởi luận lý, vì rồi chính nó là luận lý phát ra từ trái tim của nhân loại, trái tim mềm mại như tóc tơ.
14.
Thư gửi người bạn thơ
San Jose, 15 tháng 5, 1987
Anh Nguyên,
Có biết từ khi nào một người trở thành thi sĩ? Câu trả lời lãng mạn và dễ dãi: Từ khi người ấy đưa mắt lên nhìn trời sao, tay gãi cằm và trong trái tim phát ra một điệu nhạc dịu dàng. Hoặc giận dữ. Hoặc nhỏ nước mắt buồn bã, đau thương. Cô quạnh, bùi ngùi. Bất cứ lúc nào nào điệu nhạc ấy, những cảm xúc ấy làm rung động bên trong, vùng vẫy truyền ra bên ngoài, trong khoảnh khắc, anh ta trở thành thi sĩ.
Còn một câu trả lời khác - khó khăn hơn, nghiêm khắc hơn - cho một thi sĩ trọn vẹn, đích thực hơn. Ðó là: Từ khi người ấy dám kết hôn với thơ. Chỉ với thơ thôi, không với ai khác. Dẫu cho thế giới chung quanh tràn ngập những người đàn bà đẹp (có cái cẳng dài, đôi mắt chớp chớp đầy mộng mơ), hắn cũng chỉ yêu thơ hơn hết thẩy. Mà thôi.
Thế thơ gì? Cũng là một người đàn bà đẹp chăng? Ðúng vậy. Cũng có thể là một người đàn ông đẹp. Cái đẹp ấy, dĩ nhiên nó chủ quan. Có nhiều người đắm đuối yêu một người như tôi hay như anh. Ðiều ấy đã chết ai?
Hình thức của thơ có thể xếp theo hình quả trám, hình vuông, bực thang hay vòng tròn. Có thể ầm ầm như nhạc Rock hay cò ke như cái đàn gáo. Có thể hững hờ suối chảy mây bay. Quan trọng là cái gì trong trái tim mà điệu nhạc đã phát ra kìa?
Nó đau đớn trước quê hương đất nước? Ưu phiền trước thảm kịch? Êm ả hoà bình? Lồng lộn như chiến tranh? Rộng rãi và cao cả như bầu trời? Thế nào cũng được, nếu nó đến thành thật như sự giản dị của tâm hồn.
Hãy chỉ cho tôi biết người yêu của anh thế nào, tôi sẽ nói thơ của anh ra sao!
Nó có cái cổ dài như tranh Modi? Ðội cái nón rơm xinh đẹp như nàng Anabel của Buffet? Nó nhăn mũi? (Tây Thi). Ỡm ờ như cô đầu? Rền rĩ như nhạc Jazz, nhạc Blue? Sáng như sao sáng? Tối như bóng đêm?
Thơ, trước tiên nó làm người ta mất ngủ. Vì sao? Vì những anh những chị thi sĩ hễ đã bị thơ nhập vào thì hai, ba giờ sáng cũng thao thức viết, đang ngủ cũng nhỏm dậy. Thơ, là một liều thuốc thức.
Nó bắt người ta ý thức toàn bộ thế giới với trí tuệ tràn đầy, rồi cất tiếng ru người ta ngủ trong những cảm xúc và ngôn ngữ dù thuận lý hay bất thuận lý (bất cần). Thi sĩ đã ý thức triệt để, toàn bộ và cao độ trước khi lăn mình vào kết hôn với nàng thơ. Lý hay không lý? Ðiều này không quan trọng với trái tim thi sĩ vốn là:
-Thứ nhất mềm mại như trẻ con.
-Thứ nhì sắt thép như chiến sĩ xung phong bắn ra, tung ra các nốt nhạc có phép biến hoá như những sợi lông khỉ Tôn Ngộ Không. Phóng ra những chữ có uy lực để khóc cười, thương giận, buồn hay vui.
Xin để ý: Những nốt nhạc, những chữ, những câu thần chú có thể dễ hiểu như bài tập đọc, có thể thầm kín sâu xa nhưng vẫn đôn hậu như anh nông dân cơm nước no nê với cà pháo, rau muống, tép rang, anh chàng vươn vai nhỏm dậy xỉa răng, xỏ đôi guốc mộc ra ngồi thẫn thờ ê a nhìn trăng sáng trên một cái chõng tre. Anh ta làm gì? Anh ta gặm nhấm nhiều cái riêng tư mà người ta không biết, không hay (Muối xát lòng ai nấy mặn mòi tức là chuyện riêng của ai thì chỉ có người ấy biết mà thôi).
Ðúng đấy. Thơ, có thể bắt thi sĩ ra đứng trước công chúng như một người ở truồng. Ai cũng có thể thấy hết như nhìn qua tấm kính trong suốt. Mà ngược lại, thơ có khi chỉ lấp ló cái ánh đèn dầu leo lét, mấy giọt nước mắt từ từ chẩy xuống canh khuya.
Ôi, cũng đúng vậy.
Một thi sĩ, trước hết chỉ là một người như mọi người: Phải ăn, phải ngủ, phải bài tiết các thứ, phải đóng thuế nếu có đi làm, phải lái xe ô tô (nếu sống ở Mỹ, ngoại trừ một số rất ít các thi sĩ già, hễ lái ô tô lên xa lộ thì sợ không dám lái, muốn đi nhậu cũng phải nhờ người ta lái).
Tất nhiên, một thi sĩ lâu lâu cũng đi bầu, hay không đi bầu, nhưng ít ra cũng phải yêu nước, yêu nhân dân, yêu đồng bào. Phải biết yêu nhân loại. Phải biết yêu cái hành tinh mình đang sống với các giống người, các dân tộc khác nhau. Phải biết yêu cả cái vũ trụ nhiệm mầu sâu thẳm trong đó có một quả đất con con đang xoay vòng vòng cho tới khi tắt lửa.
Ở bên Tầu có một chàng thi sĩ tên là Lý Bạch. Chàng từ con thuyền đã nhẩy ùm xuống nước để ôm cái bóng trăng lấp lánh trên dòng sông. Tất nhiên, nhẩy như thế thì chết. Chết thì chết, đời vẫn cho là đẹp. Và đẹp thì đẹp, đời vẫn ít ai dám nhẩy xuống sông ôm trăng mà chết.
Nhưng chữ "Phải" cũng chỉ có ý nghĩa tương đối. Ví dụ: Phải đi bầu. Phải yêu tổ quốc. Phải yêu nhân loại. Phải đóng thuế. Phải lái xe ô tô. Không phải cũng chưa sao. Thi sĩ Tú Xương (người Việt Nam) không bao giờ biết lái xe ô tô: Lúc ông ấy sống, chỉ có xe ngựa thôi. Thi sĩ Rimbaud, đi buôn nô lệ, điều ấy thực bỉ ổi, nhưng ông ấy vẫn là thi sĩ.
Appolinaire hình như có lúc để râu quai nón? (Người Âu Châu thích để râu quai nón. Người Việt Nam thích để râu ba chòm). Nguyễn Khuyến, đỗ đạt cao như thế, làm quan to như thế, mà lại bỏ thì giờ làm thơ tả cái chân đàn ba: cái gì trăng trắng như con cúi (Ðầu làng Ngang có một chỗ lội. Có đền ông Cuội cao vòi vọi. Ðàn bà đến đó xắn quần lên. Chỗ thì đến háng chỗ đến gối).
Chân dung của thơ, những cái "Phải" của thơ, cũng vậy. Có khi trọc đầu (thi sĩ T 1984). Có khi để tóc dài (thi sĩ Ðoàn thị Ðiểm, Hồ Xuân Hương, thi sĩ Bà huyện Thanh Quan). Có người trán hơi hói: Theodore Roethke, Hiệp chủng quốc. Có người để râu mép: Keneth Rexroth, sinh năm 1905 ở Indiana. Có người chột mất một mắt: Robert Creeley, tốt nghiệp đại học Harvard. Có người bụ bẫm, mắt đeo kính trắng, hình dáng như một nhà điạ ốc thành công: thi sĩ James Wright, người xứ Ohio, tác giả bài Ba Ðoạn Thơ Cho Một Con Thiên Nga Chết Tiệt (Three sentences for a dead swan). Ðó là nói về các thi sĩ hiện đại của Tư Bản Mỹ. Còn các thi sĩ Cộng Sản Nga cũng kỳ cục chẳng kém. Có anh trịnh trọng ra tiệm thợ giặt lấy áo sơ mi mới về mặc vào rồi lấy súng bắn vào thái dương, chết!
Tự do! Ðúng vậy, thơ và tấm lòng lồng lộng của thi sĩ như nhựa xuân tràn trong trí tuệ, đi lối quanh co dưới cõi đời, sống cùng một lúc với thực tại ngắn ngủi, đồng thời, với cái vô cùng â tận của thời gian. Nó đến từ lúc tóc còn xanh. Nó về làm cho người ta xanh tóc.
Nó có thể ích kỷ như con bé gái khó tính ôm ấp mãi không rời một con búp bê đã cũ. Nó có thể cởi mở vị tha giữa anh em, giữa các người.
Thuật của thơ không phải ở số chữ, số câu. Thuật của thơ không ở cái bực thang, hình tròn hay hình quả trám. Nó là cú bắt như một cầu thủ bóng tròn với đôi bàn tay nhựa, bắt dính cái khoảnh khắc mong manh của cảm xúc trong một cái chớp ngắn ngủi giữa dòng thời gian và vũ trụ trôi qua.
Nó bắt ngay hồn thơ một cách hùng tráng, dịu dàng hay dấm dẳn. Như Nguyễn Công Trứ:
Tau ở nhà tau tau nhớ mi!
Nhớ mi tau phải bước chân đi!
Không đi mi biểu răng không đến!
Ðến thì mi biểu đến mần chi?
Mần chi tau đã mần chi được?
Mần được tau mần đã mấy khi!
Vậy còn ai thi sĩ hơn nữa, hỡi dân tộc Việt Nam? Cái dân tộc chèo đò: ngâm thơ. Ði cầy: ngâm thơ. Tát nước: ngâm thơ. Ru con: ngâm thơ. Nhớ chồng: ngâm thơ.
Than ôi, bố mê gái mà con cũng ngâm thơ, thiệt phũ phàng!
Nước nóng đổ lọ bình vôi
Tôi ngồi tôi nghĩ bố tôi, tôi buồn
Bố tôi dở dại, dở khôn
Say mê cái l... bỏ mẹ con tôi
(Nguyễn Văn Ngọc, Tục ngữ phong dao, trang 156)
Một dân tộc thi sĩ như thế hẳn là một dân tộc thở ra hút vào bằng thơ. Thơ là khí trời. Thơ bay trong khí trời. Thơ tự do như khí trời. Muốn vần thì có vần. (Thơ hay lọ phải có vần - Thăng Long Văn Sĩ). Không vần, cũng không ai bắt buộc như Cộng Sản bỏ tù Quốc Gia, Quốc Gia bỏ tù Cộng Sản, Mỹ bỏ tù gián điệp Nga, Nga trục xuất gián điệp Mỹ.
Không! Thơ của dân tộc Việt Nam đã xuất hiện từ mấy nghìn năm trước ông Adam Smith, trước Karl Marx, trước Lenin, trước các cuộc cách mạng mùa thu mùa đông, trước khi nước Mỹ thành trì của chế độ Tư Bản trở thành một nước. Thơ của dân tộc Việt Nam: Thơ ấy không bắt bớ ai làm cái gì. Nó có thể trên sáu dưới tám. Ngũ ngôn tứ tuyệt. Hay hát nói, nói gì thì nói. Thơ của dân tộc Việt Nam: Nó đứng trên xa những chuyện Cộng Sản độc tài, Tư Bản bóc lột, nhưng nó vẫn gần ơi là gần với cái ăn, cái mặc, cái chổi, con mèo, cây cau, thằng mõ, con chuột, ông tiến sĩ giấy, ông sư bà vãi, cái tóc đuôi gà (Một thương tóc để đuôi gà. Hai thương lời nói mặn mà có duyên).
Một dòng thơ như thế trong nhân loại đã xuất hiện, đã có mặt, trôi chảy luân lưu, trường tồn từ mấy nghìn năm thì dẫu cho Cộng Sản Quốc Gia gì cũng mặc, những cái áo mỏng manh sẽ cũ, sẽ rách, cái lồng ngực và bắp tay mạnh khoẻ chắc nịch sẽ còn, sẽ trường tồn vĩnh cửu, mãi mãi, mãi mãi (Trừ phi bọn khùng cho nổ bom nguyên tử chết sạch sành sanh).
Ai ơi giữ chí cho bền!
Dù ai xoay hướng đổi nền mặc ai.
Vì những chuyện như thế nên dòng thơ Việt Nam dẫu có mặc áo Tầu (Ðường luật) áo Tây (Xuân Diệu: Núi đứng im như một miếng bìa. Huy Cận: Có chàng ngơ ngác tựa gà trống) áo Mỹ (Thi sĩ Y) áo Liên Xô (Tố Hữu). Có vần hay không có vần (các ông Tô Thùy Yên, Thanh Tâm Tuyền làm thơ ít khi có vần nhưng thơ tuyệt hay, họ sẽ được ngàn đời ghi nhớ. Cước chú: Hiện nay Cộng Sản đang dại dột bỏ tù rục xương các văn thi sĩ, việc ấy người yêu văn thơ ngàn đời sau còn xét còn chê).
Không ai nên bỏ tù các văn thi sĩ dẫu cho họ thiếu thuế lái xe ô tô không đúng luật đi đường, hay là vì họ yêu tự do công chính theo cách của họ, họ chống lại mọi hình thức áp bức con người theo cách của họ. Thi sĩ và thơ, họ làm bằng hương hoa huệ, hoa hồng hay hoa nhài, đôi khi bằng mắt và nước mắt, bằng tất cả những niềm vui nỗi khổ trong nhân loại, trong chúng sinh ba ngàn thế giới. Khi một con người đã chịu khổ trong nhân loại thì dẫu họ thiếu thuế cũng còn phải tha thuế, huống gì...
Lý Bạch bên Tầu được ông vua (phong kiến) ban cho một cái tín bài (ngày nay ở Mỹ gọi là credit card). Lý Bạch đi đâu, Lý Bạch cứ việc ăn nhậu. No say rồi, việc ấy đã có vua quan tính tiền. Việc ấy được đời ca tụng. Việc ấy làm cho ngày nay người ta mới được thưởng thức những câu thơ mênh mông khoan khoái, cả những tâm hồn bụi bặm nhất khi nghe đến, đọc đến cũng được tắm gội sạch sẽ, gột rửa kỹ lưỡng trước khi bay lên cõi trời gặp mặt tổ tiên. (Cước chú: Lý Bạch là một chàng rất thông minh. Mười tuổi đã đọc sách bách gia chư tử. Mười lăm tuổi vừa học đánh kiếm vừa luyện văn chương. Từ hai mươi đã dạo chơi khắp vùng, nuôi chí làm chính trị để giúp nước cứu đời).
Và tình yêu! Chao ôi tình yêu của loài người, cái lưỡi cuộn tròn êm ả, cái hình dáng dịu dàng cao quý mà nó đã nhập vào người ta làm cho người ta chỉ có thể yêu nàng mà thôi (phỏng dịch vài chữ của Applolinaire).
Chao ôi, cái tình yêu ấy đã hoang vu như sa mạc trong buổi chiều quạnh quẽ, ánh trăng non buông xuống một vùng xám trắng trên đám xương rồng gai góc, những cây thánh giá trên mồ kẻ chết in lên nền trời những tay khô, không thịt, không tuỷ, chỉ có xương, vẫn nắm chặt vũ khí (AK47, M16, 17, gươm Nhật bổn, lưỡi lê phát xít Ðức). Ôi những cánh tay khô mỗi ngày tuyệt vọng bám lên chấn song nhà tù. Phải chăng đấy là tình yêu Bà mẹ Suốt? Phải chăng đấy là chàng Huy Cận khi xưa hay buồn lắm?
Thương cha thương mẹ thương chồng
Thương mình thương một thương ông thương mười.
Ông đây là ông nào? Là ông thi sĩ, có thể là bà thi sĩ. Không có thi sĩ lấy đâu ra thơ mà hút thở ở cõi đời? Lấy đâu thơ mà uống? Lấy đâu thơ mà ăn? Lấy đâu những tiếng chim: Ta là con chim đến từ núi lạ ngửa cổ hát chơi?
Bạn tôi, anh Phan Nhật Nam không làm thơ, nhưng là một nhà văn nhân bản. Theo cách của anh. Một người Việt Nam yêu nước. Hễ đã nhân bản và yêu nước thì viết thế nào cũng là thi sĩ. Một thi sĩ viết bằng văn xuôi. Bạn tôi rất sợ ở tù. Cái gì cũng chịu được chứ ở tù thì không chịu được (đọc Tù binh và hoà bình). Thi sĩ đó - Phan Nhật Nam - đang ở tù cải tạo từ 12 năm nay không xét xử, không thời hạn. Than ôi, người ta không hiểu thơ là cái gì. Lúc nào cũng "phải đạo" 100%, lý tính 100%, nghệ thuật 100%. Thế là ba trăm phần trăm? Con người ta chứ đâu phải châu chấu? Hay con dế? Con chuồn chuồn (Bắt con chuồn chuồn, cắm cái tăm vào đít cho nó đi tu?)
Thú thiệt ra: Bàn về thơ mà nói chuyện Quốc Gia Cộng Sản là xoàng. Quốc Gia Cộng Sản Tư Bản chỉ là chuyện dưới đất. Thơ ở trên trời. Thơ Tố Hữu, Huy Cận, Xuân Diệu mặc dù Cộng Sản nhưng cứ đếm thì biết. Thơ của họ có cả vạn chữ "Trời". Vậy có trời hay là không có trời? Giết trời đi thì ta ở với ai? (Thi sĩ Nhất Hạnh: Kẻ thù ta nào phải người. Giết người đi thì ta ở với ai?!")
Thi sĩ, họ ở dưới đất. Ðúng vậy. Nhưng hồn họ gặp nhau ở trên trời, nếu đích thực họ là thi sĩ. Nói thế này cho dễ hiểu: Họ gặp nhau ở trên mây. Trên trăng trên sao. Họ xuống đất đi cầy, đi cấy, đi lính, đi thu thuế, đi cắt cỏ, đi bán bảo hiểm bán nhà, đi tu, đi làm cách mạng, đi xe đạp, ô tô.
Ði đâu thì đi. Ðâu đâu mà chẳng phải về? Vậy nên có mấy đoạn thơ rằng:
1. Thơ giữa mây trời
Thơ là chiến sĩ tiền phong
Cơm nước nguôi ngoai muối xát lòng
Thơ đứng thơ cười trong nắng gió
Trong cõi đời có cũng là không
(Trong cõi đời có vẫn hơn không)
Thơ lối quanh co dưới cõi đời
Giữa rừng giữa suối giữa xinh tươi
Giữa cuộc thời gian vô cùng tận
Giữa các anh em giữa các người
Thơ rước mùa xuân đến viếng nhà
Vườn sầu thơ tới cũng đơm hoa
Thơ nhựa xuân tràn trong trí tuệ
Trên đám mây trời xa quá xa.
Trên đám trời mây thực nhiệm kỳ
Khi mùa đông đến tiễn thu đi
Khi xuân về lại thơ xanh tóc
Thơ vẫn như xưa đẹp lạ kỳ.
2. Thời gian đi ngược về
Khi thơ dại tôi vẫn thường tự hỏi
Nếu mỗi ngày mỗi đập trái tim yêu
Nếu muôn thủa xa xăm trôi giạt
Nếu một lần trời đất cũng xanh rêu.
Tôi tự hỏi với lời êm ái cũ
Hàng hiên xưa mưa ướt ven đường
Những ngọn đèn vỉa hè Ðà Nẵng
Những đêm về dạ hợp toả hương thơm.
Tôi năm nay vẫn chừng bây lớn
Vẫn hỏi lòng nhiều chuyện yêu thương
Những chuyện cũ trong hòm dĩ vãng
Những câu thơ có điệu nhạc hơi buồn
Tôi thấy thời gian đi ngược
Bước chân đi thỉnh thoảng bước về
Trên vùng đất cầy lên thống khổ
Trên vui buồn lẫn lộn đam mê
Tôi tự hỏi suốt thời niên thiếu
Khi con sông chở những chuyến đò
Buổi trưa nắng mây bay đầu núi
Bóng chị hiền bồng đứa em thơ
Tôi thấy lửa cháy đời khắc nghiệt
Mối đau thương khơi mối hận thù
Giữa cái chết căng trong lao khổ
Chính phút giây này là cả một thiên thu.
Tôi nghe tiếng hò hô tắt lịm
Tiếng đau thương chất mãi bên trời
Tôi muốn nghĩ như thời thơ dại
Theo nhịp đời bước bước chân xuôi.
Tôi đã nói, như là âm nhạc
Những điệu buồn rồi những điệu vui
Tự hỏi: Sao lòng không là biển?
Tiếng hát nào đẩy sóng trôi xuôi?
Tiếng hát nào mãi chưa nguôi?
3. Thơ cuối mùa xuân
Mầm mơ sẽ nở hoa mơ thắm
Sẽ nở hoa mơ chứ nắng hè
Xưa đổ muôn vàn muôn giọt lệ
Nay sầu em hãy lắng im nghe.
Mơ sớm mai cười bên bãi cỏ
Mơ cười trong tiếng gọi bình minh
Khi cơn gió đến như hơi thở
Khi nắng soi mình xuống lá xanh.
Xưa, đổ muôn vàn muôn giọt lệ
Nay, sầu bước chậm cuối xuân xanh
Mỗi bước chân trần trên đá nhọn
""Là đem mơ về lại giữa hồn anh".
4. Mùa hè 87
"Là đem mơ về lại giữa hồn anh"
......................................................
Sau tất cả những niềm vui thủa trước
Niềm vui này dành lại hôm nay
Niềm vui nhỏ trong bầu trời vô tận
Giúp anh đi qua những tháng ngày.
Em, mặt đất mùa xuân xanh biếc
Quả điạ cầu bé tựa lòng tay
Tấm bản đồ chữ in chi chít
Anh thấy mùa xuân vẫn rộng vẫn dài.
Mùa hạ đến không một lời báo trước
Trên một vùng cây cỏ mọc xanh um
Chim bốn phía bay về làm tổ
Ngọn hoa nhài đêm tối nhả hương thơm
Ðêm đi chậm đêm rằm đầy nguyệt
Dăm mối tình ngơ ngẩn trăng sao
Ðêm đi chậm cho đến khi nguyệt tận
Ðợi bình minh đến rọi nắng đào.
Em, dĩ vãng, mối tình thủa trước
Mối tình này dành lại có bấy nhiêu.
15.
Thơ tháng 6, 1987
MỘT NGÀY TRONG THÁNG 6
I. Trên cánh đồng mùa hè
ÐÀN CHIM
Trên cánh đồng mùa hè
Cỏ khô vàng dưới nắng
Một đàn chim bồ câu
Bước im lìm kiếm ăn
Bầu trời xanh thế kia
Hàng cây xanh thế kia
Sao trái tim náo động
Một cánh chim bay xuống
Một con bồ câu đen
Một bầy bồ câu đen
Cây gai dại trên cánh đồng nắng cháy
Cỏ phơi khô suốt một mùa hè
Ôi đất bụi trong lòng vội vã
Tiếng động cơ của những chiếc xe
Châm điếu thuốc nhìn đàn chim
Anh hỡi hôm nay trời lắm gió
Nhưng mùa hè vẫn đẹp như tranh
NGƯỜI BẠN
Trên cánh đồng
những con bồ câu đen
Những con người mang theo lối xóm trong lòng
Mang trên lưng phố phường đất nước
Những ngôi nhà và nỗi nhớ mong
Cơn gió thổi lũ chim bay
ngọn cỏ khô trên những cánh đồng
Ôi trái tim người bạn tù nghiệt ngã
Biết giờ này còn đập hay không?
Quờ quạng trong bóng tối đêm dài khắc khoải
Bưng bát cơm trộn sỏi nhục nhằn
Cho nước mắt thấm vào biển khổ
Tiếng khóc câm
Anh, ngục tù ốm đau đói lạnh
Ðá nhọn ơi đâm nát gót chân trần
Anh có nghĩ đến tôi trong một đêm khắc khoải
nhốt thời gian giữa bức vách câm.
TÌNH YÊU
Em, ái tình đề tài muôn thuở
Như con sông và những chuyến đò
Như trăng ốm chở thuyền lỡ bến
Nhưng lần này anh sẽ ghé thăm em
Như bịt mắt đi giữa vườn hoa lá
Cả không gian thơm ngát mùi hương
Ôi gió biếc làm khăn quấn cổ
Trên vai thon cần cổ trắng ngần
Em mắt biếc đề tài muôn thuở
Như giác quan bắt được hương thơm
Còn dạ lýù một đêm nở muộn
Cũng tươi cười bên gốc hoàng lan
Vì hạnh phúc vẫn cần chân thật
Như chim bay hoa nở hoa tàn
Dù có lúc hồn anh lủi thủi
Trên thế gian toàn chuyện đau thương
Em hiểu chứ hồn anh vạn dặm
Ðường anh đi sao chẳng thênh thang
Ôi mắt biếc đêm trường vắng lặng
Sẽ bay đi cùng bụi thời gian
TÌNH BẠN
Ngày xưa tôi với anh mặc chung một áo
cùng học chung ở một ngôi trường
cùng lớn lên trong một lớp
cùng yêu đời, cùng biết yêu thương
Sáng thứ hai, chúng tôi mặc quần áo trắng
đứng nghiêm trang chào ngọn cờ vàng
Giấy rất trắng, linh hồn cũng trắng
khi mối tình nở lúc hè sang
Chúng tôi cùng biết yêu một người con gái
mặc áo xanh đi ở sân trường
Tôi ca hát như con chim sớm
Anh cũng vui đùa như chú chim con
Có một mùa xuân đời đẹp lắm
Hoa nở bừng lên suốt tháng hè
Ta lăn xe đạp trên đường đất
Trong xóm làng, bên những lũy tre
Nam ơi tất cả tình yêu cũ
Chẳng vắng xa như những tháng hè
Nhớ chứ con đường trong thành nội
Ðã một hôm nào vắng tiếng ve
BỤI THỜI GIAN
Em, bụi thời gian như tóc xoã
Bãi chiều dương liễu hát vu vơ
Ngày xưa ta cũng là mây trắng
Bay ở trên trời suốt tuổi thơ
Hẹn cuối bờ sông hay bãi biển
Ðêm nào anh thổi khúc tương tư
Ði sao cho hết con tầu cũ
Của những ngày em mới mộng mơ
Em ơi yêu quá chàng mây trắng
Ðã thuộc đau thươngt tự chuyện Kiều
Ðã biết thơ từ nàng chinh phụ
Ðã bao lần em nói em yêu?
II. Vọng cổ
Chiếc bóng bên trời
Nhân vật: Thi sĩ, văn sĩ, đều là người Việt Nam ở Mỹ
Thời gian: Tháng 6, 1987
Văn sĩ: (Ðang đi đi lại lại trên sân khấu, sau lưng là phông cảnh nước Mỹ. Chợt dừng lại)
Tôi biết hồn anh là giếng thẳm
Là mây hồ hải ốm tương tư
Là Trăng! Trăng! Trăng! của Hàn Mặc Tử
Là anh Xuân Diệu của Thơ Thơ
Thi sĩ: (Ðứng chính giữa sân khấu trả lời) Dạ phải.
Văn sĩ: (giơ lên một ngón tay trỏ)
Anh chính là trai của gió sương
Của đồng lúa chín bát ngát thơm hương
Của sao muôn kiếp mây muôn thuở
Của những niềm đau nỗi đoạn trường
Thi sĩ: Vâng, chính phải.
Văn sĩ: (ca)
Thi sĩ ơi, lòng tôi luống ngậm ngùi
thương cho chàng trai lẻ bóng
Con chim hót trong lồng là con chim trống...
Thi sĩ ơi đường chiều lẻ loi chiếc bóng
Ai chờ ai ngóng
(Mà) ai vẫn đợi ai trông
Thi sĩ:
Con đò vẫn đợi vẫn trông
Con kinh cũng đợi con sông cũng chờ
Văn sĩ: (ngâm)
Anh vẫn là anh của hải hồ
Của trăng đồng vọng bãi hư vô
Khi sầu mây úa phai tà áo
Khi vui câu hát nối câu hò
Thi sĩ: Dạ, chính phải.
Văn sĩ:
Anh vẫn là anh chính là anh
Sầu như trăng héo rũ trên cành
Khờ như bé dại mười hai tuổi
Hơn nửa cuộc đời tóc vẫn xanh
Thi sĩ: Dạ, phải
Văn sĩ: (nghiêm giọng)
Anh làm mây bão nổi muôn phương
Làm trăng pha máu chiếu bên giường
Làm sương khuya đọng lưng chừng mắt
Làm lệ pha đầy một đại dương?
Thi sĩ: Tôi rất tiếc...(Ngậm ngùi)
Có nhiều chuyện xẩy ra ngoài ý muốn của người ta.
Văn sĩ: (chậm rãi ngâm nga) Thế...
Anh thiết tha chi với cuộc đời?
Không làm mây trắng nhởn nhơ chơi
Sao không vể hẳn Bồng lai đảo
Cùng các tiên đồng mở cuộc vui?
Thi sĩ: Dạ, chưa dám! Chưa dám!
Văn sĩ:
Sao anh không ở luôn xứ Phật?
Thả tâm hồn vào cõi thinh không
Sao không phẳng lặng như trang giấy
Chép ở bên lòng chữ sắc không?
Thi sĩ: Dạ, chưa tới.
Văn sĩ:
Vậy hãy đội mão gai lên đỉnh trán
Cong lưng khiêng tội lỗi con người
Ðổ máu lệ mình xin cứu chuộc
Ngửa mặt lên trời mà gọi cha ơi
Thi sĩ: (im lặng)
Văn sĩ: (hỏi gặng) Thế nào?
Thi sĩ: Dạ, chưa dám.
(Tạm thời hạ màn)
III. Làm ngơ
Biết chứ hồn anh dài vạn dặm
Lòng anh nặng trĩu một trùng dương
Dăm khi anh lẻn về quê cũ
Ði một mình ở một bờ sông
Ði một mình theo một dòng sông
Anh lén đi trên những cánh đồng
Trong một mùa đông trơ gốc rạ
Em ngồi may áo ở bên song
Anh khuấy thời gian, khuấy cà phê đặc
Nhìn cái phin nhỏ giọt tương lai
Anh nhâm nhi từng hớp ngậm ngùi
Ðôi khi đắng như cà phê đắng
Anh là thi sĩ ở bên đây
Anh uống từng cơn nỗi ngậm ngùi
Anh nghe nghẹt thở như hải tặc
Bao nhiêu nước đã chôn vùi thân em
Anh đối diện dửng dưng nỗi khổ
Lấy đau thương dệt mấy vần thơ
Giả như đọc thơ anh nghe trúc trắc
Xin ngậm cười, em hãy làm ngơ
IV. Quê mẹ
Chao ơi, cơn gió mùa đông cũ
Còn thổi mưa lên mấy cửa thành
Vườn nhà ông ngoại thơm hoa bưởi
Khi tóc em vừa mới chớm xanh
Năm mười tám tuổi ta ngây ngất
Yêu một dòng sông những chuyến đò
Trưa trên Văn Thánh thơm mùi gỗ
Anh chẳng cho lòng phút đắn đo
Em, xóm Bao Vinh đường lót gạch
Hương chiều thoang thoảng mấy hàng cau
Anh theo gió thẳng lên An cựu
Em đuổi hồn mình xuống Bãi Dâu
Ngày xưa trong những bài hát cũ
Nay mới hay ra toàn chuyện buồn
Câu hát của người xa đất mẹ
Hát từ những thủa có quê hương
Anh nhớ Thanh Long cầu nước chảy
Bao nhiêu nước chảy những cơn mê
Anh vô quê mẹ năm mười một
Huế hay Hà Nội cũng là quê
Chao ơi, cơn gió mùa đông cũ
Còn thổi mưa lên mấy cửa thành?
THÁNG 6 Ở PALO ALTO VÀ BERKELEY
Anh, có phải
Anh, có phải là người lãng tử
Ðang lê chân ở bốn phương trời
Anh đã ra đi theo sóng nước
thả con tầu qua chốn xa khơi?
Anh cánh chim âu buồn héo hắt
Ðậu trên cây ở một phương trời
Nghe sóng vỗ giữa đời vắng lặng
Những buổi trưa xa lộ nối đuôi
Anh thấy phương xa trời nắng nhạt
Hai hàng khuynh diệp mọc song song
Tiếng xe lùa gió qua khung máy
lùa bụi thời gian vượt cánh đồng
Anh vẫn khơi cho dòng lệ cháy
Nhả u buồn dệt mấy câu thơ
Tiếng hát cũ như tiếng đàn vọng cổ
Khi vừa đi vừa sống vừa mơ
Anh vẫn là trai thời khói lửa
Nghe lòng vùng dậy súng gươm dao
Hãy che mái thẳm lên con suối
Và lặng nghe tiếng khóc tự hôm nào
Hột máu rơi
Con ơi từ buổi cha đi ấy
Ðã lớn lên thêm mấy khúc đời
Con hột máu rơi trên đất cũ
Cha ở đây cũng hột máu rơi
Ðêm mơ tới các cháu
Gió từ bên biển qua bên núi
Gió thổi lang thang mấy tháng hè
Ðêm, ngồi với những niềm vui nhỏ
Cho linh hồn lắng đọng cơn mê
Ðêm sáng vô ngần trăng dĩ vãng
Mộng sầu vỡ vụn dưới muôn sao
Hãy nhắm mắt cho dịu dàng ký ức
Cho không gian đỏ má hoa đào
Hỡi mối sầu xa không với tới
Cứù ngủ yên đi mấy tháng hè
Cho thơ chín ngọt như mơ mận
Cho lời kinh vẳng đến bên kia
Cho không gian về với thời gian
Cho giấc mơ xanh trổ chín vàng
Cho đôi môi mọng như đôi má
Của bé thơ đẹp nhất Việt Nam
Hỡi bé thơ đẹp tựa mặt trời
Bé thơ mạnh khỏe bé vui tươi
Những em bé bỏng trong xuân mới
Sẽ hái hoa xuân tặng cuộc đời
Bác gieo cho cháu tương lai nhé
Những nụ hoa thơm nở nụ cười
Và thêm tất cả niềm mơ ước
Tất cả lòng yêu của mọi người.
Chàng hippy của thời dĩ vãng
Em hỡi muôn chờ đợi đại hội
Khi em còn mắc mấy cơn mơ
Ðêm xưa giữa bẩy vùng sao sáng
Em ngồi đan dở mấy vần thơ
Em hỡi mùa thu về trước ngõ
trên thềm trăng rọi lối thơ sang
anh biến như mây vào ảo ảnh
em đứng bên thềm gọi gió sang
Em hỡi muôn sao về trước ngõ
Mùa xuân lại mặc áo xanh tươi
Áo ơi hãy nở lên hoa thắm
Mà giữ cho nhau mấy nụ cười
Em nhé anh đi ngoài vạn dậm
Trưa hè nắng đổ xuống non cao
Vần thơ vẫn nở như bươm bướm
Anh thấy đời vẫn cứ đáng yêu
Berkeley tháng 6
Khi anh còn mắc mấy cơn mơ
Em đến bên hiên mặt thẫn thờ
Lúc đi giữa bẩy vùng sao sáng
Em còn dang dở mấy vần thơ
Em hỡi mùa thu vàng lối ngõ
Nhà em trăng rọi lối thơ sang
Anh biến như mây vào ảo ảnh
Em bước lên thềm dắt nắng sang
Khiếp quá muôn sao về trước ngõ
kêu xuân hãy mặc áo xanh tươi
Em tôi lại nở như hoa thắm
Mà giữ cho nhau mấy nụ cười
Em nhé anh đi trời viễn xứ
Trưa hè nắng rọi đỉnh non cao
Mà khi thơ đến bên sân vắng
Hương của thời gian bỗng ngọt ngào
HƯƠNG CỦA THỜI GIAN
Chuyện trời đất bên hồ chim trắng
Một dòng nhạc lướt bên băng huyết
Bẩy thanh âm xiết nỗi ngại ngần
Xiêm y trắng một trời phẳng lặng
Ai ngậm ngùi, ai đứng ngậm thinh?
Bẩy nốt nhạc trên năm khuông kẻ
Bốn mươi lăm năm nhạc không lời
Vẫn nghe chứ tiếng từ lòng đất mẹ
Hát dập dồn nhịp trống xa xôi
Hỡi chim trắng trên hồ băng tuyết
Ai tuyết sương lạnh giá hở trời?
Ai chậm rãi như lời than thở?
Ai trầm ngâm như tiếng thơ rơi?
Ðừng chậm nữa dưới hồ băng giá
Vì tuyết sương là bọn trên trời
Buổi hoà tấu giữa trời với đất
Ai sẽ là người nghe thấu tiếng biển khơi?
Anh sẽ nói đây em điều bí mật
Bốn ngàn năm thầm giữ bên lòng
Trời với đất còn có khi hoà thuận
Huống chi đồi, núi, suối cùng sông
Trở lại dương trần
Nếu tất cả đây là nghệ thuật
-Nắng một giờ trưa rọi xuống cánh đồng
-Có vàng cháy trong thung lũng nóng
Thì thưa em: Anh về lại dương trần
Chính ngôn ngữ tự lòng đất mẹ
Còn thời gian hạnh phúc vô ngần
Tụi ta cứ khoác tay nhau vào lịch sử
Miệng mỉm cười lòng chẳng chút phân vân
Nếu tất cả bây nhiêu là nghệ thuật
Là đau thương dăm cuộc chuyện tình
Nếu hạnh phúc là phần ta giấu biệt
Thi thôi thôi trở lại dương trần
Ðây thẩm mỹ của đau thương rớm lệ
Sẽ như trăng nhường chỗ cho trời
Trên đường phố, thi sĩ tương lai đến
Mỗi góc đường dựng một bảng tên
Còn dấu vết cuộc tình xa tắp
Cuối bờ sông hay ở bờ quên
Ai mắt biết môi hồng má thắm
Trong lòng chàng là rượu không men
Tự trời đất đã muôn vàn nghệ thuật
Thì đau thương đâu khứng trong lòng
Mà trái đất cũng muôn vàn nghệ thuật
Thì sá gì?
Chấm dứt nhé trò chơi nhãn hiệu
Ðừng đau thương vướng vít bên lòng
Hãy để nồm nam cơn gió mát
vẫy chào dòng lệ chẩy như sông
Anh sẽ đứng giữa đất trời bát ngát
Gọi anh em cho đến tận vô cùng
Lắm khoảnh khắc trong cuộc tình bất diệt
Ðã một lần yêu cả một non sông
Chào
Chào đá, chào suối, chào cỏ cây hoa lá
Chào không gian, chào thời gian
Về nguyên tắc, yêu thương là bất diệt
Và ruộng đồng cùng phía với thời gian
Cái ta muốn là tương lai tươi sáng
Là niềm đau hiện tại phải ngừng
Là cổng nhà tù phải mở
Là những vết thương phải được dừng
Cái tôi muốn
Cái tôi đau là vết thương chung
Dẫu mâu thuẫn như đào nguyên tràn thế
Ðến bạc đầu rồi cũng phải xong
Một người Việt Nam-không-Cộng-Sản
Ngồi trong xe đậu ở ngã tư đường
Tất cả thơ, không có gì trừu tượng
Như dòng sông, như tất cả đại dương.
TIẾNG BIỂN KHƠI
Trời bắt người ta làm thi sĩ
Vì đau thương đến tự trên trời
Vì yêu thương cũng đến tự trời
Trời ơi sao bắt chàng thi sĩ
Cứ lấy đau thương đổ tội trời?
Cái nóng mùa hè nung sức nóng
Nước ơi nước chảy đến môi chàng
Bao nhiêu nước mắt lưng tròng đã
Ướt đẫm đôi vai chiếc áo rừng
Chua xót anh ơi người bạc mệnh
Thân gầy ngâm nước độc rừng thiêng
Những củ sắn trụi trơ chiếc rễ
Cái bụng giun to tướng của thằng em
Chua xót đọt tre gầy gẫy ngọn
trong miếu đền ẩm mốc rêu xanh
Con tầu điện trên đường qua phố Huế
Phố hàng Ðào hàng Bạc hàng Ngang
Anh có biết con đường Toà án?
Hai nấm mồ tập thể đắp song song
Mùa hạ đến chín vàng trái sấu
Và phù sa đỏ quánh sông Hồng
Tôi biết lắm mùa mưa xứ Huế
Và mối tình nở tận Vĩnh Long
Năm mười hai tuổi yêu nhau quá
Ðôi chúng ta thành vợ thành chồng
Còn mối tình Phan Thiết?
Mỗi một người ở một bến sông
Yêu nhau quá chúng ta bơi chứ?
Từ bờ sông qua những bờ sông
Trên dòng sông của những dòng sông
Ðường Bàn Cờ, mái tôn cháy nóng
Những tàng cây trứng cá phủ xanh xao
Ðốm hoa nắng reo trên đường đất bụi
Giọt mồ hôi ướt đẫm áo anh nào?
Khi tất cả dòng sông là mạch máu
Thì hồn ai là núi thẳm giữa thinh không?
Hỡi đất đỏ bụi đường thấm mệt
Tắm cho ta chứ mấy dòng sông
Tôi yêu lắm con đường hoang dã
Hỡi núi non và hỡi ruộng đồng
Lòng của biển sâu như lòng mẹ
Hồn của cha như dải Trường Sơn
Anh cuối núi mày rây cháy sém
Tôi bên này đâu muốn tính thiệt hơn?
(Ký tên: Nguyễn Văn X.)
16.
Chuyện một ngày,
Chuyện một ngày khác
Chuyện một ngày, anh T. thân mến, cũng như chuyện của mọi người, là chuyện rời rạc về các mâu thuẫn chồng chất trong cuộc sống. Chuyện này chẳng nói lên điều gì mới, cuộc sống của ai mà không chồng chất mâu thuẫn cách này cách khác? Nhưng mỗi người phải tìm cách giải quyết hay tập sống với những mâu thuẫn triền miên của mình như thế nào, đó lại là một câu chuyện khác nữa.
Hello" tôi nói. Nhìn lên trời. Sáng hôm nay bầu trời xanh. Ông cụ hàng xóm đội một cái mũ vải xanh, áo sơ mi xanh, thắt cà vạt cũng xanh. Dáng người cao, da trắng, tóc trắng, đã hơn chín mươi tuổi vẫn khoẻ mạnh, hàng ngày lái xe đưa bà vợ tám mươi lăm tuổi đi chợ. "Hello" tôi nói. "Cụ cần gì không?" tôi hỏi. Ông cụ chậm chạp đi tới nói là không cần gì. "Tôi không phun thuốc trừ sâu lên mấy đám hoa" ông cụ nói. Tôi hỏi "Sao ạ:". "Tôi không phun thuốc trừ sâu lên mấy đám hoa" ông cụ nói, "nếu ông muốn lấy về ướp trà." Tôi nhớ sáng nay khi thức dậy mở cửa sổ nhìn qua bên kia vườn, bấy giờ ông cụ đang tỉa mấy cây hoa. Tôi chào, nói vọng qua "Hôm nay trời đẹp quá". Tôi nhìn lên trời. "Cụ có biết người ta phơi khô đám hoa cúc này để pha trà không?" Ông cụ bảo "Vậy sao". Tôi bảo đúng vậy, chúng tôi gọi đó là kim cúc. Phơi khô ướp trà rất thơm.
Bây giờ, chúng tôi lại nói chuyện trên lề đường. Tôi bảo hoa nhà cụ nở rất đẹp. Nhìn lên trời. Tôi bảo mùa thu sắp đến nữa rồi. "Bà vợ của cụ thế nào?" tôi vấn an. "Ồ, khoẻ lắm". Tôi bảo "Sao cụ không đưa bà cụ đi xem chiếu bóng?". "Tôi chỉ thích những phim xưa." Tôi bảo có một phim đang chiếu. Phim mới, nhưng cốt chuyện lấy ở một tiểu thuyết xưa. "Của Marcel Pagnol" tôi nói. "Marcel Pagnol à?" ông cụ hỏi. "Marcel Pagnol, người Pháp. Chuyện về những nông dân và các cuộc tranh chấp đất đai."
Tuần trước, anh T. thân mến, tôi muốn dùng những đoạn này để làm lời nói đầu cho quyển sách này. Tôi lúng túng khi nghĩ đến lời nói đầu. Bây giờ tôi vẫn lúng túng như vậy. Ðối với những người di cư đến các xứ sở xa xôi, có một lúc chợt họ sẽ ngạc nhiên nhận ra là họ bị mắc kẹt giữa các vận chuyển lịch sử. Không phải chỉ lịch sử quốc gia họ. Mà lịch sử nhân loại chưa ngừng nghỉ suốt dòng thời gian. "Ðất" tôi viết. "Ðất, tự nó cũng có nhiều mâu thuẫn." Tôi liên tưởng đến các nhân vật, mà chúng ta đều là các nhân vật chứ ai? Vậy chuyện đó là chuyện của một người Việt Nam. Tôi viết. "Một xứ sở nhỏ bé ở Á Châu, kế dưới nước Trung Hoa khổng lồ nơi chiến tranh làm nên lịch sử, nơi cửa ngõ Thái bình dương, nơi giao lưu các ý thức lớn của loài người, nơi máu, nước mắt, thây người kế tục đổ xuống làm phân bón đất". Và bây giờ, tôi nhấn mạnh "Vào cuối hạ bán thế kỷ 20, hơn một triệu người đã phải rời bỏ đất ấy mà đi khắp nơi. Bất cứ đâu."
Ðám hoa hồng nhà tôi đang nở đẹp. Luống hoa Ưu Tư tím nhà ông cụ cũng vẫn còn tươi. Tôi nói "Nhiều ong quá." "Nhiều ong lắm" ông cụ cũng nói. "Cụ trồng hoa cho ong đến hút mật đó" tôi nói. Ông cụ trả lời. Ông cụ nói. Tôi không kịp hiểu. Tôi không hiểu. Có ba lý do làm tôi không hiểu. Thứ nhất, tôi không phải là người Mỹ. Thứ hai, đôi khi ông cụ nói nhanh quá. Thứ ba, ông cụ đã móm.
"Ðấy tưởng tượng xem" ông cụ hạ giọng mỉm cười. "Dạ" tôi đáp. "Người Mỹ chế bom nguyên tử trước mọi người, ông nhớ không?". "Dạ" tôi đáp. "Thử tưởng tượng bộ mặt thế giới bây giờ ra sao nếu lúc đó Mỹ đem bom nguyên tử bắt tất cả các nước ngưng sản xuất vũ khí, giải tán mọi quân đội. Làm gì còn quân đội và chiến tranh?". Ông cụ cười sung sướng với cái miệng móm. Tôi cười xã giao. Tôi bảo xin lỗi cụ, tôi đang dở dang ít việc. "Việc gì đấy?". "Viết" tôi đáp. "Tôi đang viết dở dang". "Viết sách à?" ông cụ hỏi. "Hãy viết về chuyện vừa rồi, nó sẽ làm cho cuốn sách của ông trở nên một cuốn sách tốt."
Ðó là chuyện buổi sáng, tôi tạm gọi những chuyện thuộc về một cuốn sách tốt. Có những cuốn sách khác mà tôi sẽ nhắc đến, nhưng đây là chuyện buổi trưa, khi tôi bước ngang một viên cảnh sát ngồi trong góc quán. Tôi suýt nói một câu gì. Nếu dịch sang tiếng Việt, câu đó cần phải thay đổi đi một chút, ý tôi muốn bảo là thú vị thay khi thấy một người cảnh sát ngồi đây, trong một cái quán cà phê bán sách, nơi những người lui tới phần đông là sinh viên, những người thích đọc sách, những người còn tin vào sách và suy nghĩ. Ðôi khi có cả những người viết văn.
Viên cảnh sát là người trung niên cao lớn khỏe mạnh. Mặc một bộ đồng phục đen gọn gàng sạch sẽ. Tay áo săn lên, lộ những bắp thịt rắn chắc. Túi áo, gắn những huy hiệu bạc. Ðôi giầy đánh bóng, ống quần chạy sọc trắng. Ở đây, có cái gì mâu thuẫn giữa trật tự, vô trật tự, sức mạnh và sách vở. Tôi tự hỏi. Kể cả N. hay K.M. hay bất cứ ai, giả như Martin Luther chẳng hạn, tôi đều có thể tưởng tượng ra họ ngồi đây, trong tiệm sách này, cặm cụi viết để bắt thế giới đi theo một trật tự mới. Nhưng cái gì làm cho tôi thấy tương phản ở một người lính đeo huy chương, một cảnh sát mặc đồng phục giữa sách vở, tư tưởng, một cách lặng lẽ trầm ngâm? Tất nhiên có những loại tư tưởng tiêu cực, huỷ diệt và bạo động. Tất nhiên con người không ngừng tư tưởng bao giờ nhưng trật tự thiên nhiên sẽ biến đổi mọi việc thế nào thì tư tưởng chưa hề thấu đáo hết trong suốt hành trình cuộc sống này. Ít nhất, tôi có thể cả quyết như vậy.
Tôi ra quầy mua một ly cà phê. Trở về bàn, người cảnh sát đã rời quán. Tôi kéo cái ghế người ấy đã ngồi. Ngồi xuống cái ghế ấy, đặt ngay góc nhà, từ đó người ta có thể quan sát hầu hết những người trong quán. Trên bàn, có cái ly bằng sứ trắng. Tôi đặt lên cái ly cà phê, cũng bằng sứ trắng. Tôi là ai? Tôi là một trong những người biết mình không ngừng thấy mâu thuẫn trong cuộc sống, bất cứ lúc nào, ở đâu. Tôi thấy gì trong tiệm sách? Rất nhiều, nhưng không có cuốn của tôi. No Nuke. Một cuốn sách vạch rõ hiểm hoạ chiến tranh nguyên tử. Một cuốn cẩm nang cho mọi người về sức mạnh nguyên tử với những tài liệu đã cập nhật hoá. Những cuốn khác. Cấu Trúc Sức Mạnh Của Nguyên Tử. Nền Kinh Tế Chính Trị Của Sức Mạnh Nguyên Tử. Một cuốn khác nữa. Chỗ Cuối Cùng Trên Quả Ðất. Nhưng đó không phải là câu chuyện về cuộc huỷ diệt toàn bộ cuối cùng. Chỉ là cuốn sách về hai người thám hiểm Bắc cực, những ước mơ của họ và vì sao họ trở nên những vị anh hùng.
Tôi thấy những cuốn sách dạy làm vườn và nấu ăn. Sách viết về ngân hà và những vì sao. Sách dạy nuôi trẻ con cho hợp phép vệ sinh. Trẻ con, những mầm cây. Nguyên tử, sức mạnh của hủy diệt. Ở kệ sách bên này, văn chương thời hiện đại. Maugham Dreiser, Gorky. Proust. Kafka. Hardy. Jeffers. Pirandello. Faulkner. Ở bên kia, những người đàn bà đối chọi và bổ túc cho đàn ông, S.B. Virginia Wolf. Nora Neale Hurston. Tôi thấy những cuốn sách dạy tiếng Hy Lạp, tiếng Tây Ban Nha, ngay cả tiếng Lào. Nhưng không có một cuốn sách dạy tiếng Việt nào. Sao vậy? Trong thành phố này đã có trên 50.000 người Việt. Cứ như thế tôi lại nhớ rằng tôi, một người Việt Nam trên đất Mỹ đã được gần mười ba năm. Sức khoẻ của tôi đang kém. Mỗi con mắt cho một hình khác nhau. Nếu không kịp thời làm một cái gì, sức khỏe sẽ kém nữa. Sẽ tàn phai.
Những cô con gái trong tiệm sách này đều xinh đẹp như tất cả những thanh thiếu niên thiếu nữ khác. Họ đang ngồi trước các mộc bản của T.S. Họ là những đóa hoa đang nở trước tư tưởng. Sách vở sẽ dắt họ đi cho đến khi họ suy tưởng một mình, theo một cách riêng của họ. Sách vở sẽ làm giầu kiến thức họ. Kiến thức, một mai kia khi so chiếu với đời sống sẽ làm họ rối loạn phần nào, vì tất cả mọi người đều yếu đuối. Nhưng họ sẽ lại rực rỡ cho đến khi già đi. Như những đóa hoa Ưu Tư.
Nhưng việc ấy, nói cho cùng, cũng đẹp đẽ thôi. Ðôi lúc ta tự cho phép đứng ngoài đời sống chút đỉnh để quan sát thêm. Nhưng những gì chúng ta biết chưa hẳn là những gì có thể thay đổi con đường chúng ta đi. Nhiều lúc đành chịu vậy.
Nhân vật của tôi đã đến và đi đâu? Tôi tự hỏi. Ông ta sinh ra ở miền Trung nước Việt Nam, lớn lên ở miền Bắc. Năm 1954 khi Việt Nam chia đôi, Cộng Sản chiếm miền Bắc, gia đình ông di cư vào Nam. Năm 1975, Cộng Sản chiếm toàn Việt Nam, ông di cư sang Mỹ. Một người di cư nhức đầu vừa phải. Ông chỉ là một người Á Châu bình thường. Những cuộc đi và đến dầu sao mới chỉ giới hạn trong cái hành tinh quả đất này thôi. Ông không phải là một nhà phi hành không gian. Ông biết lái xe hơi như mọi người ở Mỹ, tiếc thay, hồ sơ lái xe không được tốt.
Cũng như tất cả những người bình thường giữa các buồn vui, âu sầu, giận dữ, tràn đầy và trống rỗng, ông có mặt trong cuộc đời với các mâu thuẫn của ông. Tại sao thế? Vì nếu không có mâu thuẫn thì tôi còn gì để nói ở đây?
Anh T. thân mến, và đây, chuyện một ngày khác.
Tại sao năm 1794, T. S. đột nhiên hiện lên trên bầu trời hội hoạ, chỉ trong 10 tháng thôi, như một ngôi sao chổi bí mật bay vuột qua? Trước đó, không ai biết. Sau đó, không ai biết. Không còn ai biết gì về ông ta ngoài những mộc bản để lại.
Chỉ ánh sáng mới tỏ lộ được sự có mặt của một ngôi sao, dầu cho 10 tháng kia thực ngắn ngủi. Những mộc bản mầu của T.S., ví dụ thượng thặng của những gì không cần nói hết trong nghệ thuật, những gì chậm rãi đóng góp cho văn hóa một nước, một chỗ đứng đối diện với lịch sử nhân loại, những gì thẳng thắn nhìn ngắm vĩnh cửu một cách đẹp đẽ, thiện hảo và chân thật. Chính T.S. đã hái bằng hai tay, bằng những mầu sắc để làm nên công việc cụ thể ấy trong điạ hạt của ông ta. Cho nước của ông ta. Bên cạnh những người khác: Quý tộc, Võ sĩ đạo, Trí thức cổ truyền, Trí thức tân tiến, Cách mạng, Quân phiệt, Kỹ nghệ gia, Tài phiệt, tất cả những người có khả năng sáng tạo, xúc tác, hủy diệt, tổ chức và xây dựng quốc gia họ. T.S. với hai bàn tay, với mầu vàng đất, mầu huyết dụ, mầu xanh biển, mầu đen mầu tâm hồn đầy thẩm mỹ của riêng ông ta, ông ta đã làm các công việc của mình như thợ nề xây nhà, nông dân cấy lúa, chiến sĩ đánh giặc, thầy giáo dạy học, cảnh sát giữ trật tự, nhà chính trị hoạt động chính trị, nhà văn viết văn, nhà thi sĩ mơ tưởng giấc mơ của một trái đất xanh, cũng như những phi công, những nhà tu mơ tưởng núi đồi ruộng đồng xanh. Nhưng có điều, cùng một lúc ông ta vẫn phải ghi nhận được rõ mối vui buồn giận ghét ở cõi sống thông thường này, với đủ các mầu sắc khác. Những nụ cười nửa miệng. Nếp nhăn trên trán. Bộ dạng kệch cỡm. Lừa bịp đê hèn. Tị hiềm nhỏ mọn. Ðau đớn dầy vò triền miên của một trái đất đen. Ruộng đồng đen. Nhà máy đen. Nhà tù đen. Ðời sống đen. Ðêm đen. Chia cách đen. Sinh lão bệnh tử đen.
Nhưng Nghệ thuật có con mắt thấu suốt để nhìn ra vẻ đẹp qua những cái bất đối xứng của rác rưởi hiện tại và sự trong sáng tương lai không? Nó có những ngón tay lật nhanh lịch sử để chia sẻ giấc mơ chung, tiến đến những sự thực chung không?
Ðó sẽ là tiên tri cho một diễn trình lôi cuốn mọi năng lực thuận chiều hay nghịch chiều để hợp nhất ao ước chung? Hay đó cũng chỉ là sự lừa bịp khác nữa như cái ngắn ngủi của hơi thở, của cuộc sống con người trên hành tinh quả đất mà con sâu, cái kiến, con bướm con chim , sự có mặt của chúng lại càng ngắn ngủi hơn?
Tranh ảnh, sách vở, những bài thơ của ta, sự im lặng của tác phẩm nghệ thuật chúng ta, chúng sẽ nói riêng với mọi người bằng một cách thức riêng, ở những chỗ riêng, trên các bức tường, trong tiệm sách, thư viện, bảo tàng viện, trong tư tưởng và cảm xúc tùy theo lúc, tùy kích thước mỗi tâm hồn chật hẹp tối tăm hay bao dung sáng sủa. Nghệ thuật tuyệt vời, không phải là nghệ thuật nói ầm ĩ.
Tranh của T.S., tranh của P. của M., sách của B.P., của H.H., thơ của P. của E., của W.W., đều có cái kích thước cao cả của Nghệ thuật im lìm. Nghệ thuật một đêm khuya, mặt trăng dàn trải khắp các đại lục. Nghệ thuật một bình minh, mặt trời toả rực rỡ trên những sông ngòi.
Ngược lại, bên kia của mệnh đề, cũng bao hàm rằng có những nghệ thuật giông bão, sấm chớp, thuốc nổ, máu và cực hình. Nghệ thuật của lưỡi dao đâm lút vào các sinh mệnh thoi thóp. Nhưng đến điểm ấy thì tất cả lại trở về lặng im để cùng với nhau bắt đầu. Như xương, thịt, đất nước, sông, núi, những mầm cây. Khi mặt trăng lên, mặt trời lên. Khi ấy tất cả lại bắt đầu như đã bắt đầu từ lâu lắm.
Ðiều ấy nói gì? Nó cho ta nhận thấy cái mà T.S. nhận thấy trước các bản gỗ chưa hề in vết dao, các bản gỗ mới tinh, và chúng ta sẽ cùng đi một lối giữa ánh sáng và bóng tối, giữa đám đông và sự cô đơn, chúng ta tìm cách nghỉ ngơi giữa những biến động, đồng thời chưa bao giờ quên rằng biến động, vận chuyển lúc nào cũng liên tục, không ngừng nghỉ giữa những đối cực, và đầu óc con người đôi khi may mắn cảm nhận ra, cái mà người ta gọi là kinh nghiệm tôn giáo, là mặc khải, là kinh nghiệm thi ca, là sự thức tỉnh của các nhà tư tưởng, hay là sự điên khùng.
Vậy đấy. Anh T. thân mến. Nghệ thuật, kiến thức, suy tưởng, ý niệm siêu hình, kinh nghiệm tôn giáo, chúng ta đây nào có thấm gì? Trong cái sâu đầy bí nhiệm gồm những nguồn vui chan hoà và những đau khổ khôn cùng, chúng ta nào có biết gì? Anh, hay T.S. hay E. hay W.W. với cái lá cỏ của ông ta, hay tất cả cái linh hồn run rẩy của tôi đây, chúng ta nào có đáng một xu con? Chúng ta đã lỡ ăn trái đắng. Chúng ta quay quanh các trò chơi như con ngựa gỗ vừa vui đùa vừa khóc lóc xô đẩy theo điệu nhạc quay tròn. Chúng ta có thấm gì? Trong cái bể khổ của muôn kiếp con người từ chín từng điạ ngục vẫn khát khao hạnh phúc? Và nước trong? Và ánh sáng? Một cơn mưa rào? Kể cả chính anh, nào có ra gì?
T.S. hay W.W. hay E. hay N.D. đều niệm thi ca như niệm thần chú. Bởi vì đến đó không còn duy lí. Bởi vì giấc mơ, nào có chuyện gì để kể cho những người không mơ?
Và niềm tin là gì, nếu không phải, trước hết, là chính ước mơ? Là công chính. No ấm. Là tự do, hạnh phúc trong cõi đời này, ngay từ bây giờ, chứ không phải là một lời hứa cho những linh hồn đã kiệt quệ, những rễ khô đã mất hết sinh lực. Việc ấy sẽ tự nó được giải quyết. Và anh T. ạ, chỉ những ý nghĩ yêu thương mới đủ làm nên một giấc mơ đẹp. Ðiều này có giá trị gì? Nó làm cho mặt đất tươi mát hơn, hay ít nhất cũng dịu dàng hơn, đáng yêu hơn. Trong những trường hợp thông thường, ước mơ là vấn đề nguyên tắc. Và trong tất cả những trường hợp khác, ước mơ nên là vấn đề nguyên tắc.
Trước sau, cũng phải như vậy thôi.
17.
Thư của một người sắp... đi xa
Anh Q. thân mến,
Hôm nay một buổi sáng mùa đông, một người ngồi trầm ngâm trên một chiếc ghế kê ở hàng hiên. Trước mặt là một cây chanh, những chậu hoa hồng chỉ có gai không lá, và một bầu trời lù mù, lành lạnh. Người ấy ăn mặc sạch sẽ sau khi đã tắm rửa kỹ lưỡng. Cặp mắt đã mờ, rõ khổ! Mới hơn nửa đường đời! Sáng nay người ta đem xe đến đón ông ấy đi bịnh viện để xem xét cho rõ bệnh trạng thế nào, người ấy còn có mặt bao lâu ở cõi thế? Khi biết được như vậy, người ấy sẽ định rõ mỗi ngày nên sống như thế nào, làm gì, ăn uống gì, chơi với ai, viết cái gì... Nên làm gì để lại cho đời, hay chỉ nên làm cái gì cho mình vui thích mà thôi?
Ðêm hôm qua họ đưa nhau đi từ San Jose lên Oakland ăn cơm Tầu. Dược sĩ H. lái xe. Bà vợ dược sĩ H. tức P. Long An ngồi bên cạnh. Ở hàng ghế sau, người ấy ngồi giữa. Nha sĩ T. bên phải. Chú B. Trà Vinh bên trái. Họ an ủi lẫn nhau và chú trọng về những cái vui sướng có thể đạt được như Twice cooked pork tức là thịt heo nấu hai lần, cua rang muối, tôm rang Bắc kinh, hào xào gừng. Họ uống bia Trung Cộng, ăn cơm Trung Hoa Quốc Gia. Gạo này thuộc loại tám thơm trồng ở Ðài Loan, gạo nhỏ hạt, dẻo mà thơm. Ăn kỹ càng nhai càng thấy ngon, ăn không đã thú lắm huống gì ăn với những đồ biển cầu kỳ, tưởng những bậc vua chúa cũng đến thế mà thôi.
Khi một người biết rằng đây là điếu thuốc cuối cùng, hút xong điếu thuốc ấy, đội hành quyết sẽ bắn một cái đoàng thì người ta hút rất chậm rãi để thời gian căng dài ra, và mỗi một sợi khói hút vào là một khoái lạc vô biên, không ai sợ hãi gì bịnh ung thư hay bất cứ bịnh gì khác vì chung cục đều như thế thôi.
Ngưới ấy nhức cái đầu lắm! Cái đầu là bộ tư lệnh, nó điều khiển tay chân, tim phổi, ý nghĩ, văn chương, tình ái, tình bạn, tình đồng loại, công ăn việc làm. Khi nó lộn xộn, những thông điệp đưa ra không đầu đuôi, làm cho cả đội ngũ nhốn nháo: xe tăng bay lên trời, tầu bay bò xuống đất. Ối! có hề gì. Tất cả rồi sẽ qua. Người ấy tự bảo.
Một sớm tinh sương thở tự do
thở trên đường phố những căn nhà
Thở hết muôn trùng vào một ngực
Thở giữa trời bay những lá khô...
...
Thở niềm tin vĩ đại của mặt trời
Thở vào lòng ánh sáng ban mai
Thở mỗi phút giây còn sót lại
Rồi sau nữa, câu chót? Một bài thơ có hậu sẽ được viết là: Thở cho cây mọc lá xanh tươi? Và người ta sẽ nói về bốn mùa. Ðến mùa xuân lá non lại đâm ra sau khi lá khô đã rụng hết trong mùa đông...?
Nhưng người ơi! Người không phải là cái lá. Người không mọc ra cái gì. Người sẽ rụng đi, rơi đi, không ngóc dậy vào mùa xuân. Người đi là đi mãi không trở lại. Người bỏ sau đời những tháng năm. Những thằng bạn nhỏ từ thơ ấu. Tất cả sầu thương của chuyện lòng.
Thật ra không phải thế! Có chuyện luân hồi! Luân hồi tức là người sẽ đầu thai trở lại: có thể thành một con chim bay nhởn nhơ, không phải đi làm, không phải học tập, không phải "lay off", chỉ bay bay bay. Hoặc là một con gà kêu cù cú cu. Hoặc một con lợn ủn ỉn. Cũng có khi trở lại một con người, nhưng mọi sự cũng phiền phức vì lũ bạn đã già rồi, mà mình trở lại một đứa hài nhi đỏ hỏn nằm đâu cũng ỉa đái bậy bạ hoặc khóc oe oe oe thì còn gì là vui? Mà có khi lại đầu thai ở Ấn độ, Nam dương chỉ ăn bốc chứ không ăn cơm bằng đũa. Cái này thực là nhức đầu, những gân máu hai bên thái dương căng ra và những mạch máu nhỏ trong mắt cũng trương lên, mắt lại mờ đi.
Khi mắt mờ, ta có thấy gì?
Những nhọc nhằn những chuyện thị phi?
Khi mắt mờ không thấy gì hết
Chỉ thấy... đời lạ một chuyến đi
Tôi viết bài thơ này cho anh để chào! chào! chào! Nếu hôm nay tôi đi, và người ta bảo không hề gì, tôi sẽ trở về. Còn nếu người ta bảo chết chửa chết chửa, thì tôi sẽ đi luôn. Và anh sẽ cô đơn lắm. Không gì đáng sợ hơn cô đơn, anh nên nghĩ kỹ về điều đó. Nên nghĩ về cô đơn và hãy lên đây thăm tôi trước những chuyến đi.
"Ký tên: Nguyễn Văn X.. Một người di cư nhức đầu vừa phải. Một người sẽ ra đi. Sẽ đến một hòn đảo xa và xanh."
San Jose 15 tháng 11, 1987
Thay Lời Tựa
Tôi chưa bao giờ có dịp đặt bút viết tiểu thuyết nên chẳng hiểu những câu hỏi căn bản như tại sao viết tiểu thuyết, cấu tạo các nhân vật thế nào, thủ pháp tiểu thuyết ra sao, ông Nguyễn Văn X. nói. Như thế lại càng không dám đụng chạm tới các khuynh hướng hiện đại, sự khủng hoảng của tiểu thuyết, một người viết tiểu thuyết phải khác với một công tư chức hay một người thợ thủ công khéo tay như thế nào.
Hơn 30 năm nay, thỉnh thoảng tôi cũng có đọc vài cuốn tiểu thuyết cũ hay mới, nhưng đó không phải là lý do để có thể huyênh hoang tham dự vào việc vạch ra hay xóa đi các lằn ranh cho những hình thái khác nhau của thủ pháp văn chương. Tôi không thể cho phép tự đặt mình vào việc luận bàn về các phạm trù, các hệ thống tư tưởng sản sinh ra những phương cách biểu hiện rồi lôi kéo sau đó các toa tầu lớn nhỏ của hàng loạt khoa học chuyên môn như ngôn ngữ học, nhân chủng học hay xã hội học.
"Tôi là một người di cư nhức đầu vừa phải."
Ông Nguyễn Văn X. nói.
Nếu tôi có ý định viết một cuốn tiểu thuyết, điều đó phải có nghĩa là nó không được phép làm cho tôi nhức đầu thêm.
Không nhất thiết phải trở thành một người di cư nhức đầu quá độ.
Còn tiểu thuyết hiện thời đã chết hay đang biến hoá? Những xu hướng, luật tắc, thuật ngữ, lớp mốc bám trên bìa cuốn sách cũ, những bứt rứt trong các cuốn sách mới của thời đại chúng ta, những cãi cọ ồn ào về kỹ thuật, việc đánh giá của các tay phê bình tài tử hay chuyên nghiệp, những điều ấy liệu có quan hệ gì đến tôi?
"Liệu điều ấy có quan hệ gì đến tôi?"
Trong một đêm hai trăm năm mươi triệu người chung quanh say sưa ngủ.
Giả như ngay lúc này tất cả những cái đồng hồ nhất loạt reo lên đánh thức họ tỉnh dậy, họ cũng không đọc và không hiểu những gì tôi viết bằng thứ ngôn ngữ của một quốc gia Ðông Nam Á.
Và bây giờ, đêm mùa hè.
Bỗng dưng bầu khí lạnh từ Bắc Cực kéo về làm cho tôi phải châm lửa bật cái lò sưởi.
Ðiều ấy quan hệ với tôi nhiều hơn chứ? Ít nhất, với cái sức khoẻ đang sa sút của tôi?
Lắng nghe một cô gái chụm chân lại ngửng mặt lên khóc bằng cây đàn vĩ cầm, hay bằng một bài thơ ngắn gọn, hay dù bằng cả một tập thơ phẫn nộ tối tăm, điều ấy vẫn còn dễ chịu và đáng chia sẻ hơn là gặm nhấm những tay phê bình soi mói về các trào lưu, truyện ngắn dài, tiểu thuyết vừa, về các nhà văn lỡ thời hay tiến bộ, về quyết tâm đoạn tuyệt với truyền thống cùng với các ước lệ. Hoặc về hiện thực. Hoặc cấu trúc. Phản tiểu thuyết, phản tự sự hay phản nghĩa.
Thực ra việc viết tiểu thuyết đôi khi cũng đến với tôi nhưng nó bước nhón trên đầu ngón chân, lướt qua những trang giấy rời rạc, nó lật lên bằng cái ngón tay tò mò nhưng hờ hững.
Vì sao? Vì cái thời điểm mà X. đang sống đây khá phức tạp, phải vậy không?
Các vấn đề đặt ra cho X vây bủa khắp ba thì của thời gian. Tốc độ là ánh sáng. Trăng sao là ngọn đèn. Cuộc đời trên xứ sở mới treo căng bởi một sợi dây thép dẫn mỏng. Không gian pha trộn khói và sương mù. Thời tiết nóng lạnh bất thường cùng những cây cỏ không biết tên làm cho X. và X. và X. nhức đầu.
Ðấy là bệnh bất phục thủy thổ. Y như bệnh của các binh sĩ Tầu trong lịch sử Việt Nam. Muốn khỏi phiền phức, nhiều người phải uống thuốc chữa bệnh dị ứng.
*
Hai người ngồi nói chuyện.
Một người nói:
"Tôi Nguyễn Văn X. có quyền viết một cuốn tiểu thuyết mà tôi, Nguyễn Văn X. là nhân vật chính chứ chẳng phải ai khác."
Người kia nói:
"Ðúng vậy."
"Tôi lại có quyền vay mượn những bộ dạng biểu trưng để đứng ngay trên sân khấu giữa các ánh đèn 5000 nến mà mô tả mình và các nhân vật khác chung quanh mình."
"Ðúng. Nhưng đấy là kịch."
"Vậy sao? Khi tôi đi đứng trong tiểu thuyết thì bộ dạng tôi khác với lúc tôi đi đứng trên sân khấu? Khi tôi đi đứng trên sân khấu thì bộ dạng tôi khác với lúc tôi đi ngoài đường? Khi tôi mỉm cười để chụp ảnh khác với lúc tôi mỉm cười với anh? Tiểu thuyết khác với kịch chỉ vì ngọn đèn 5000 nến? Và cuộc đời khác với tiểu thuyết vì cái mặt trời treo lủng lẳng trên đỉnh đầu? Nguyễn Văn X. cười. Không nên bắt đầu những tranh luận kỹ thuật vì nó rườm rà, phức tạp, vô bổ và chuyên môn."
"Thôi đi. Nếu anh nối kết tất cả những đoản văn lại mà bảo đấy là truyện dài thì nó là truyện dài à?
"Bạn ơi, đúng vậy."
Tất cả những gì của một người viết ra dù dưới bất kỳ hình thức nào ngay cả một lá thư cũng thuộc về chuyện dài của người ấy cho đến khi nhắm mắt.
Còn nếu bạn thích, cứ gọi là tùy bút, vì ngay cả những khi có sắp đặt nhất, thì vẫn tùy tiện mà phóng bút.
Vấn đề của tôi là những tùy bút một giọng đã làm tôi kém kiên nhẫn. Mấy người bạn tôi thở dài chán ngấy. Và chính tôi cũng sắp sửa nhức đầu quá độ với cái giọng than vãn của một người hát xẩm.
Nên phải thay đổi.
Nguyễn Văn X. dừng bút tìm điếu thuốc lá. Ðồng hồ chỉ hai giờ 40 phút sáng. Hút thuốc nhiều thật có hại. X. nghĩ. Mối đe doạ là ung thư cổ họng. X. hít một hơi thuốc nói tiếp:
"Ðúng hơn đó là những bài thơ. Tất cả những gì anh viết ra như chính cuộc đời anh đã từng thành thật và láo khoét. Từng công bằng và bất công. Cao cả và nhỏ mọn."
Hằn học, thù hận, oán ghét.
Tha thiết yêu đương.
Sung sướng hay khốn khó.
Có phải chính anh đã ngửng mặt ra nhìn một chân trời xa và xanh? Có phải chính anh đã sưu tập những con tem và thủa nhỏ đã ao ước đặt chân lên những xứ sở lạ in hình trên các con tem xinh tươi đẹp đẽ?
Và bây giờ có phải chính anh trên một chân trời xa và xanh đã đóng chặt cửa căn phòng tắm, mở ra những vòi nước dội tuột đi giòng lệ ảm đạm của hoang mang, luyến tiếc, nhớ nhung?
*
"Tất cả là tiểu thuyết." X. nói.
"Nhưng các nhân vật khác?"
"Về các nhân vật. Họ là những A.B.C.D.E.F.G.H. trong các đoản văn quanh tôi. Một số không có mặt. Họ qua đời rồi. Họ ở dưới biển. Họ đang ở trong các trại học tập. Họ đang chết dần hay đang đi đứng bên kia quả đất. Có người thích ẩn mặt sau những giòng chữ và những bài thơ. Trong kịch biểu trưng, cây gậy là một con ngựa. Trong tiểu thuyết, cái cây là một người đàn bà. Ðàn bà là những cái cây, lại là những con chồn."
Khi mở ra một cuốn sách, người ta có thể là một người đọc thông minh và chọn lọc, hay là một cậu bé đánh vần với những hình ảnh giải thích kế bên. Tôi Nguyễn Văn X. không tin ở luật đa số. Quy luật này dẫu được thực hiện thẳng thắn trong một chế độ dân chủ nhất cũng chỉ nói lên ý chí của đa số và sự lựa chọn của họ. Không nói lên phán đoán về một vấn đề chính xác hay không chính xác. Cái ẩn náu bên trong. Cái bộc lộ bên ngoài và chung quanh. Cái gì là vĩnh cửu. Cái gì hữu hạn đặt ra cho tôi.
Tôi yêu cái thiểu số biết đồng ý rằng cái gậy là một con ngựa.
Cái cây là một người đàn bà.
Còn con chồn là một người đàn bà có đuôi trong truyện Bồ Tùng Linh.
*
Nguyễn Văn X. nói: Nếu tôi có ý định viết tiểu thuyết, tôi không có nhiệm vụ phải trình bày với các bạn tại sao. Tại sao? Vì người viết có quyền giữ cho mình vài điều riêng tư như bất cứ ai cũng có thể trao tận tay một lá thư tình ướt đẫm nước mắt, nài nỉ một người hãy đọc và chia sẻ, rồi một lúc khác, hắn lại có thể giận dữ thưa kiện trước toà án về một người đã lục lọi thư tín riêng tư của mình.
Ðấy là cái quyền. Như quyền khai sinh các nhân vật làm cho họ đi đứng ăn ngủ vui buồn giận ghét. Làm cho họ làm cho người đọc vui buồn giận ghét lây.
Tôi đã đọc đâu đây một nhà tiểu thuyết mà cái bóng đồ sộ chạy từ Ðông sang Tây, nhà tiểu thuyết nọ vội vã khai tử một nhân vật ở trang hai trăm lẻ tám. Nhân vật xấu số này thay vì than khóc trong địa ngục hay vỗ cánh bay trên thiên đàng, lại chậm rãi quấn cái khăn ăn phẳng phiu trên cổ, ngồi nhấm nháp con gà tây nướng bơ và hành tỏi ở trang tám trăm chín mươi tư.
Ðấy vẫn là cái quyền. Quyền của thiên nhiên mang đến sự lẫn lộn cho những nhà tiểu thuyết già nua. Vẫn là một cái quyền. Như quyền của một người di cư nhức đầu mơ về một chân trời cũ và tím. Ông ta mạnh mẽ vung nắm đấm như thanh niên trai tráng trong một buổi họp sôi nổi vào ban đêm để thảo luận về tương lai tươi sáng cho một quê nhà xám xịt. Ông ta đập tay một cái chát xuống mặt bàn, xác định ngày về.
Sáng hôm sau ông ta rụt rè húng hắng ho.
Ông ta rót nước trà ngồi nói chuyện với người thông gia, kể lể về đứa con gái, con rể. Ðứa cháu. Những đồng xu. Về việc làm nhàm chán ở cửa tiệm bán bộ phận xe hơi cũ.
Về chuyện mua bán bảo hiểm nhân thọ.
Về vấn đề hội nhập.
Về các vấn đề của thế hệ thứ ba trên đất tạm dung.
*
Thư của anh Q. gửi anh T. San Pedro, ngày 12 tháng 7 năm 1986. Anh T., tôi nhận được thư của anh. Vẫn sì tin viết kiểu Thời Luận ngày xưa (loại tỷ giảo). Nghĩa là cứ một câu hư lại một câu thực, một câu nói về cái xấu lại một câu nói về cái...tốt. Vế trước nói về khía cạnh đen tối của cuộc đời, vế sau nói về sự hướng thượng (bay vượt lên giời...như cánh chim) hoặc (bước chân qua vũng nước nông quèn), hoặc một câu tình cảm xen lẫn vào một câu toàn lý luận đơn giản (hoặc thuần lý trí)...
Loại văn chương này đã xưa rồi. Sẽ đi xuống. Mất job, trễ giờ... Tuần rồi, tôi đi hai đám tang. Rất nghiêm nghị. Lại thăm nhà bạn nghèo mà rất giữ lễ. Nghe tin bạn ly dị bỏ hết bài vở ra viết thư an ủi. Trông thấy đàn bà (lúc sắp hàng ở DMV đóng thuế) không nhìn. Lái xe qua nhà bạn gái đã đi qua mười block rồi mà không biết. Không nói xỏ xiên ai, không khúm núm ai. Không đọc báo Việt. Chín mươi lăm phần trăm các tư tưởng của tôi là những tinh hoa hoàn cầu mà tôi đang hướng đến. Năm phần trăm còn lại dành cho lớp Speech I của college. Chín mươi chín phần trăm khi nói thì nghe tin Tổng thống Reagan nói, hoặc bình luận văn chương của đài số 28 tối thứ tư, thứ sáu. Ngoài ra 2, 3, 4, 5... đều làm bài và tập nói với các cử toạ người Mỹ. Ðầu óc tôi không có vụn vặt như xưa. Một phần trăm thì dùng để vâng, dạ bằng tiếng Việt ở trong nhà với bà cụ.
Dĩ nhiên là tôi cũng cô đơn. Các ông Napoleon_ quân nhân_ Montesquieu_ nhà tư tưởng_ Einstein_ nhà khoa học_ cũng rất cô đơn. Người ta không ai chết vì cô đơn, mà chỉ chết vì tụm năm tụm ba, vì nói xấu, vu khống nhau - chết vì không trả được nợ - và rất có thể vì trêu chọc (gây nên đánh nhau, ném xì dầu nước mắm vào đầu nhau hoặc vào chỗ hiểm).
Ngày tôi đi học, đi thi đúng giờ. Thuế trả sòng phẳng. Tối tôi nói chuyện với Mỹ. Ðêm tôi học hỏi rất nhiều điều (Ngôn ngữ Anh do đâu mà có? Ðạo Calvin và đạo Luther? German và Dutch? Low German, High German và tiếng Pháp liên quan ra sao?) Tôi đã hiến thân tôi cho thư viện. Tutor của tôi là người Mỹ đen, bạn tôi là người Equador, Nam hàn... Thời tiết không xúc phạm đến tôi. Ðiện thoại long distance không làm tôi nói nhiều hơn. Hoa rơi, bướm lượn, đồi núi...tôi coi như pha. Còn đàn bà... tôi coi như đàn ông, lắm khi tôi còn mày tao...chứ không xun xoe kéo ghế lấy tăm, so đũa...như ngày xưa. Tôi không cần phân biệt muối vừng và rượu thịt. Lời nói tôi hiền hậu và đầy lòng nhân, bởi vì tôi đã bước qua khỏi giai đoạn tiểu nhân mà trở thành người quân tử: Tiểu nhân ngôn hiểm, Quân tử ngôn nhân. Tiểu nhân ăn nói thí xóc óc, hiểm độc. Quân tử thì hiền hậu mà yêu người. Giờ thì không ai dụ dỗ tôi được nữa. Chào anh. Q.
San Jose 30 tháng 7, 1986
HẾT
Nguồn: Nhà xuất bản Văn Nghệ, California 1987.
Ý kiến bạn đọcVui lòng login để gởi ý kiến. Nếu chưa có account, xin ghi danh.
|
|