Trường thiên lục bát
Thanh Hiên Thi Tập # 100 - # 119
Băng Ðình *
đăng lúc 11:15:41 AM, Jul 01, 2008 *
Số lần xem: 3242 100
Lạng Thành (1) Đạo Trung
Quần phong dũng lãng thạch minh đào
Giao hữu u cung quyên hữu sào
Tuyền thủy hợp lưu giang thủy khoát
Tử sơn bất cập Mẫu sơn (2) cao
Đoàn Thành (3) vân thạch tịch tương hậu
Hồng Lĩnh thân bằng nhật tiệm dao
Quái đắc nhu tình khinh cát đoạn
Khuông trung huề hữu bút như đao
Trên Đường Đi Lạng Thành
Núi trập trùng núi, sóng nhẩy vọt lên, kêu trên đá,
Giao long có hang sâu, chim cuốc có tổ.
Các dòng suối họp thành sông rộng,
Núi con không cao bằng núi mẹ.
Chiều xuống, mây và núi trên thành Lạng Sơn như đợi chờ nhau
Bà con bè bạn ở núi Hồng ngày một thêm xa vời.
Thật quái lạ, mối tình nhà đằm thắm lại dễ dàng cắt đứt,
Trong tráp có đem theo ngọn bút sắc như dao.
Chú thích:
(1) Lạng Thành: Thành Lạng Sơn.
(2) Mẫu sơn: Núi mẹ, núi cao nhất ở phía bắc huyện Lộc Bình, tỉnh Lạng Sơn sát biên giới Trung Quốc. Cũng gọi là Công Mẫu sơn.
(3) Đoàn Thành: Thành Lạng Sơn (xem thêm chú thích bài Xuân Tiêu Lữ Thứ, tập Thanh Hiên. Trên đường đi sang Trung Quốc các sứ bộ đều dừng chân tại trạm nghỉ cuối của đất nhà.
Câu này ý nói dùng ngọn bút để khuây khỏa nỗi nhớ nhà.
Trên Đường Đi Lạng Thành
Chập chùng núi dựng sóng xô
Sóng va kè đá sóng ồ ạt reo
Giao long ẩn đáy hang rêu
Đỗ quyên núp tổ nằm kêu mùa hè
Trăm muôn nhánh suối tuôn về
Nên dòng sông lớn nước chia ngọn nguồn
Núi Con thấp bé bên cồn
Núi Mẹ cao lớn đỉnh vươn tới trời
Chiều buông thành Lạng xa vời
Núi mây hò hẹn đời đời có nhau
Hồng Sơn chia cách bấy lâu
Lạ thay nghĩa nặng tình sâu dễ lìa
Tráp thơ dấu bút thần kỳ
Bén như đao kiếm cắt chi cũng rời
101
Lưu Biệt Cựu Khế Hoàng (1)
Táp niên cố hữu trùng phùng nhật
Vạn lý tiền đồ nhất xúc sơ
Đạo lộ nhật lai tình vị cánh
Vân sơn biệt hậu ý hà như
Trướng nhiên phân thủ trùng quan ngoại
Lão hĩ toàn thân bách chiến dư
Tha nhật Nam quy tương hội phỏng
Lục Đầu (2) giang thượng hữu tiều ngư
Từ Biệt Bạn Cũ Họ Hoàng
Ngày gặp lại người bạn cũ ba mươi năm trước,
Cũng là ngày tôi bắt đầu cho cuộc hành trình vạn dặm.
Tình cảm dọc đường những ngày gần đây chưa nói hết ,
Sau khi chia tay nhau ở chốn núi mây, ý nghĩa của bạn ra sao?
Buồn xiết bao cảnh biệt ly ngoài mấy tầng quan ải,
Già rồi mừng được toàn thân sau trăm trận đánh.
Mai đây trở về Nam, gặp gỡ hỏi thăm nhau,
Thì trên sông Lục Đầu đã có người đốn củi, người đánh cá.
Chú thích:
(1) Cựu khế Hoàng: Bạn cũ họ Hoàng. Họ Hoàng chưa rõ là ai, có lẽ là một võ tướng (bách chiến dư).
(2) Lục Đầu giang: Sông Lục Đầu, nơi người bạn họ Hoàng ở ẩn.
Biệt Bạn Cũ Họ Hoàng
Ba mươi năm trước bạn bầu
Là khi ta mới ban đầu viễn du
Tâm tình giãi tỏ hết chưa
Chia tay toan tính bạn giờ ra sao
Mấy từng ải biệt nao nao
Toàn thân trăm trận biết bao ơn trời
Lục Đầu giang vẫn có người
Đốn cây lưới cá vui đời phương Nam
102
Nam Quan Đạo Trung
Ngọc thư (1) phủng há ngũ vân đoan (2)
Vạn lý đan xa độ Hán quan (3)
Nhất lộ giai lai duy bạch phát
Nhị tuần (4) sở kiến đãn thanh san
Quân ân tự hải hào vô báo
Xuân vũ như cao cốt tự hàn
Vương đạo (5) đãng bình hưu vấn tấn
Minh Giang (6) bắc thướng thị Trường An (7)
Trên Đường Nam Quan
Chiếu của nhà vua từ từng mây năm sắc ban xuống,
Chiếc xe lẻ loi vượt cửa ải nhà Hán trên con đường muôn dặm.
Suốt dọc đường cùng với ta chỉ có mái tóc bạc,
Cả hai tuần chỉ thấy một mầu núi xanh.
Ơn vua như biển chưa mảy may báo đáp,
Mưa xuân như mỡ nhưng vẫn thấy trong xương lạnh buốt.
Đường của nhà vua rộng rãi bằng phẳng, thôi hỏi thăm chi nữa,
Theo dòng Minh Giang đi lên phía bắc là Trường An đó.
Chú thích:
(1) Ngọc thư: Chiếu vua.
(2) Ngũ vân đoan: Từng mây năm sắc. Chỉ triều đình.
(3) Hán quan: Trấn Nam Quan, nay là Hữu Nghị Quan.
(4) Nhị tuần: Hai mươi ngày. Theo cách chia ngày xưa, một tháng có 30 ngày, chia làm ba tuần: thượng tuần, trung tuần và hạ tuần.
(5) Vương đạo: Đường của nhà vua. Chỉ đường đến kinh đô Trung Quốc. Vương đạo còn chỉ đường lối hành xử của người quân tử, trái với bá đạo của kẻ tiểu nhân.
(6) Minh Giang: Tên con sông phát nguyên từ núi Phân Mao huyện Khâm tỉnh Quảng Đông chia làm hai ngả, một ngả chẩy theo hướng bắc, một ngả chẩy theo hướng nam đổ ra vịnh Bắc Bộ. Ngả này là con sông chia ranh giới giữa Việt Nam và Trung Quốc. Sứ bộ đi qua sông này lên phía bắc Trung Quốc.
(7) Trường An: Chỉ kinh đô nhà Thanh ở Yên Kinh (Bắc Kinh) chứ không phải là Trường An của nhà Đường ở đất Thiểm Tây.
Trên Đường Nam Quan
Năm mây ban xuống chiếu trời
Bánh xe vạn lý thoắt rời Hán Quan
Cùng ta chỉ có tóc sương
Hai tuần bốn phía núi non xanh mầu
Ơn vua báo đáp nào đâu
Mưa xuân nhờn mỡ buốt thâu xương già
Hỏi chi vương đạo gần xa
Minh Giang tách bến sẽ là Trường An
103
Trấn Nam Quan (1)
Lý Trần cựu sự yểu nan tầm
Tam bách niên lai trực đáo câm (kim) (2)
Lưỡng quốc bình phân cô lũy diện
Nhất quan hùng trấn vạn sơn tâm
Địa thiên mỗi vị truyền văn ngộ
Thiên cận tài tri giáng trạch thâm (3)
Đế khuyết hồi đầu bích vân biểu (4)
Quân thiều nhĩ bạn hữu dư âm (5)
Trấn Nam Quan
Việc cũ thời Lý Trần mờ mịt khó tin,
Cửa ải này cho đến nay đã trải ba trăm năm.
Hai nước phân chia bằng mặt lũy lẻ loi này,
Một cửa ải hùng vỹ trấn giữa lòng muôn vạn núi.
Nơi hẻo lánh thường nghe lời đồn sai,
Ở gần trời mới biết ơn mưa móc thấm sâu trên ban xuống.
Quay đầu nhìn về cửa khuyết ở ngoài mây biếc,
Bên tai còn nghe văng vẳng tiếng nhạc quân thiều.
Chú thích:
(1) Trấn Nam Quan: Tên một cửa ải ở biên giới Việt Trung từ tỉnh Lạng Sơn sang tỉnh Quảng Tây. Trấn Nam Quan có nghĩa là cửa ải trấn giữ phía Nam. Hiện nay là Hữu Nghị quan. Nguyễn Du đi qua cửa Nam Quan ngày 6 tháng 2 năm Quý Dậu (1813).
(2) Kể từ đầu Lê đến bây giờ, tức là từ thế kỷ XV đến thế kỷ XVIII khoảng 300 năm.
(3) Thiên cận: Gần trời. Ý nói đến cửa Nam Quan là gần với Trung Quốc. Trời đây là chỉ Hoàng Đế Trung Quốc.
(4) Đế khuyết: Cửa nhà vua. Đây nói về cung vua triều Nguyễn của nước ta ở Phú Xuân.
(5) Quân thiều: Khúc nhạc của nhà vua.
Trấn Nam Quan
Lý Trần khó kiếm tích xưa
Ải quan xừng xững tuổi vừa ba trăm
Giới ranh phân cách Bắc Nam
Một tòa hùng vĩ giữa ngàn núi mây
Lời đồn thường vẫn đơn sai
Gần trời mới hiểu mưa này thấm sâu
Biếc mây cửa khuyết quay đầu
Quân thiều còn vẳng nhạc chầu quốc vương
104
Mạc Phủ (1)Tức Sự
Triệt dạ la thanh bất tạm đình
Cô đăng tương đối đáo thiên minh
Kinh tuần khứ quốc tâm như tử
Nhất lộ phùng nhân diện tẫn sinh
Sơn lộc tích nê thâm một mã
Khê tuyền phục quái lão thành tinh
Khách tình chí thử dĩ vô hạn
Hựu thị Yên Sơn (2) vạn lý hành
Tức Cảnh Ở Mạc Phủ
Suốt đêm tiếng thanh la chẳng tạm dừng,
Ngọn đèn cô đơn đối diện với mình cho đến sáng.
Qua mấy tuần xa đất nước, lòng như chết rồi,
Dọc đường gặp toàn người lạ mặt.
Đường chân núi đầy bùn sâu ngập cả chân ngựa,
Yêu quái ẩn núp trong khe suối lâu đời đã thành tinh.
Nguồn cảm xúc của lữ khách đến nơi đây thật là vô hạn,
Lại còn muôn dặm đường đi nữa mới đến được non Yên.
Chú thích:
(1) Mạc phủ: Tức tướng phủ, nơi một võ tướng làm việc.
(2) Yên Sơn: Chỉ Yên Kinh, kinh đô nhà Thanh, tức thành Bắc Kinh ngày nay.
Tức Cảnh Ở Mạc Phủ
Suốt đêm não bạt thanh la
Ngọn đèn cô lữ mình ta đối sầu
Mấy tuần xa nước lòng đau
Gặp người toàn những người đâu lạ lùng
Vó câu ngập ngụa lối bùn
Quỷ yêu ẩn núp suối nguồn thành tinh
Hành nhân dào dạt tâm tình
Còn bao dặm thẳng Yên Kinh cách vời
105
Minh Giang Chu Phát
Tiêu cổ đông đông sơ xuất môn
Vạn sơn trung đoạn nhất sà bôn
Phù vân sạ tán thạch dung sấu
Tân lạo sơ sinh giang thủy hồn
Biệt hậu quan sơn tư đệ muội
Vọng trung nham tụ kiến nhi tôn
Nhật tà mạc hướng Hoa Sơn (1) quá
Phạ hữu thanh thanh trường đoạn vôn (viên)
Thuyền Ra Đi trên Sông Minh Giang
Bắt đầu ra cửa sông tiếng tiêu tiếng trống ầm ĩ,
Một con thuyền lướt nhanh giữa lòng muôn ngọn núi.
Mây nổi chợt tan dáng núi gầy đi,
Lụt mới đổ về nước sông đục ngầu.
Sau khi chia tay trên bước đường quan san nhớ đến em trai em gái.
Nhìn giữa đá núi, tưởng như trông thấy đàn con cháu.
Mặt trời đã xế chớ có vượt Hoa Sơn,
Sợ nghe tiếng vượn kêu buồn đứt ruột.
Chú thich:
(1) Hoa Sơn: Tên một ngọn núi ở tỉnh Quảng Tây.
Thuyền Ra Đi Trên Sông Minh Giang
Tiếng tiêu tiếng trống khởi hành
Một con thuyền lướt qua nhanh núi đồi
Non gầy mây thoảng gió trôi
Lụt về nước lũ đỏ ngời phù sa
Nhớ em trai gái quê nhà
Ngắm nhìn đá dựng ngỡ là cháu con
Trời chiều chớ vượt Hoa Sơn
Sợ nghe tiếng vượn kêu buồn chạnh đau
106
Hoàng Sào (1) Binh Mã
Đại Tiểu Hoa Sơn sổ lý phân
Hoàng Sào di tích (2) tại giang tân
Khởi tri Kim Thống Tần Trung đế (3)
Nãi xuất Tôn Sơn bảng ngoại nhân (4)
Ngộ quốc mỗi nhân câu hạn lượng (5)
Cùng thời tự khả biến phong vân (6)
Viễn lai nghĩ vấn thiên nhiên sự
Hang hộ giao đầu nhược bất văn
Di Tích Binh Mã Hoàng Sào
Đại Hoa Sơn, Tiểu Hoa Sơn cách nhau vài dặm;
Di tích Hoàng Sào hãy còn ở bến sông.
Nào ngờ vua Kim Thống đất Tần Trung,
Lại là anh chàng ở ngoài bảng Tôn Sơn.
Lầm lỡ việc nước chỉ vì câu nệ hẹp hòi.
Người ta đến lúc cùng có thể làm biến đổi gió mây
Khách xa tới muốn hỏi chuyện nghìn năm trước,
Nhà thuyền lắc đầu như không nghe biết gì.
Chú thích:
(1) Hoàng Sào: Người đời Đường, Quê ở Tào Châu, Sơn Đông. Sào học giỏi, đi thi tiến sĩ. Tuy văn chương hay, song vì tướng mạo quá xấu nên bị đánh trượt. Sau Sào cầm đầu cuộc khởi nghĩa nông dân ở Sơn Đông, đem quân đánh chiếm các tỉnh Hà Nam, Giang Tây, Phúc Kiến, Chiết Giang và vùng Kinh Tương, Lưỡng Quảng… Rồi thừa thắng đánh chiếm Trường An (thuộc tỉnh Thiểm Tây). Đường Huy Tông bỏ chạy vào đất Thục. Sào lên ngôi hoàng đế, đặt quốc hiệu Đại Tề, niên hiệu Kim Thống. Cuộc khởi nghĩa kéo dài 10 năm (875 – 884). Sau bị Lý Quốc Dụng đánh bại và bị giết.
(2) Di Tích Hoàng Sào: Chỗ đóng quân của Hoàng Sào xưa ở dẫy núi Hoa Sơn trên bờ sông Minh Giang, thuộc huyện Ninh Minh, tỉnh Quảng Tây. Nơi đây còn những vết đỏ như hình người và ngựa, tục truyền là binh mã của Hoàng Sào.
(3) Tần Trung: Nay là tỉnh Thiểm Tây, thời cổ là đất nước Tần, cho nên gọi là Tần Trung, cũng còn gọi là Quan Trung.
(4) Tôn Sơn Bảng Ngoại: Ngoài bảng Tôn Sơn. Tôn Sơn người đời Tống, đi thi liệt danh ở cuối bảng. Bè bạn viết thư hỏi đỗ hay trượt. Tôn Sơn đáp:
“Giải danh tận xứ thị Tôn Sơn
Dư nhân cánh tại Tôn Sơn Ngoại”
(Nơi cuối cùng bảng là Tôn Sơn
Người khác còn ở ngoài Tôn Sơn)
Người sau lấy chữ Lạc Tôn Sơn để chỉ người thi trượt.
(5) Chỉ việc vua quan nhà Đường không coi trọng người hiền tài, mà chỉ câu nệ hẹp hòi ở tướng mạo nên đến nỗi hại việc nước.
(6) Chỉ việc khởi nghĩa của Hoàng Sào.
Di Tích Binh Mã Hoàng Sào
Hoa Sơn lớn nhỏ gần nhau
Hoàng Sào di tích nơi đầu bến sông
Nào ngờ Kim Thống Tần Trung
Lại là kẻ thiếu tên trong bảng vàng
Bởi câu nệ khiến bẽ bàng
Đường cùng có thể mở màn gió mây
Khách xa muốn tỏ chuyện này
Lắc đầu chú lái chẳng hay biết gì
107
Ninh Minh Giang Chu Hành
Việt Tây sơn trung đa giản tuyền
Thiên niên hợp chú thành nhất xuyên
Tự cao nhi hạ như bát thiên
Than thượng hà sở văn
Ứng long (1) kích nộ lôi điền điền
Than hạ hà sở kiến
Nỗ cơ kịch phát thỉ ly huyền
Nhất tả vạn lý vô đình yên
Cao sơn giáp ngạn như tường viên
Trung hữu quái thạch sâm sâm nhiên
Hữu như long xà hổ báo ngưu mã la kỳ tiền
Đại giả như ốc tiểu như quyền
Cao giả như lập đê như miên
Trực giả như tẩu khúc như tuyền
Thiên hình vạn trạng nan tận ngôn
Giao ly xuất một thành trùng uyên
Dũng đào phún mạt nhật dạ tranh hôi huyên
Hạ lạo sơ trướng phí như tiên
Nhất hành tam nhật tâm huyền huyền
Tâm huyền huyền đa sở úy
Nguy hồ đãi tai cốt một vô để
Cộng đạo Trung Hoa lộ thản bình
Trung Hoa đạo trung phù như thị
Oa bàn khuất khúc tự nhân tâm
Nguy vong khuynh phúc giai thiên ý
Cao tài mỗi bị văn chương đố
Nhân nhục tối vi ly mị hỷ
Phong ban a đắc tận năng bình
Trung tín (2) đáo đầu vô túc thị
Bất tín “Xuất môn giai úy đồ”
Thí vọng thao thao thử giang thủy
Đi Thuyền Trên Sông Ninh Minh
Vùng núi Việt Tây có nhiều khe suối,
Qua nghìn năm chảy, hợp lưu thành một dòng sông.
Nước như đổ xuống tự trời cao,
Trên thác nghe thấy gì?
Nghe như tiếng con rồng có cánh nổi giận, sấm động ầm ầm.
Dưới thác thấy những gì?
Thấy như máy nỏ bật mạnh, tên lìa khỏi dây.
Một dòng tuôn vạn dặm không ngừng,
Núi cao giáp bờ như bức tường,
Giữa có những hòn đá kỳ lạ chen chúc nhau,
Có những hòn hình rồng, rắn, cọp, beo, trâu, ngựa bày la liệt trước mặt.
Lớn như nhà, nhỏ bằng nắm tay.
Hòn cao như đứng, hòn thấp như nằm ngủ.
Hòn thẳng như chạy, hòn cong như xoay vòng,
Nghìn hình vạn vẻ không nói hết.
Thuồng luồng, ly long , ra vào thành vực sâu,
Sóng vỗ bọt phun ngày đêm ầm ầm.
Nước lụt mùa hè vừa dâng, nước sôi sục,
Một mạch ba ngày đi, lòng chơi vơi.
Lòng chơi vơi vì sợ nhiều,
Nguy thay hiểm thay chìm sâu không đáy.
Mọi người đều nói đường trên đất Trung Hoa bằng phẳng,
Hóa ra đường Trung Hoa lại thế này!
Sâu hiểm quanh co giống lòng người,
Nguy vong nghiêng đổ đều là do ý trời,
Tài cao thường bị văn chương ghen ghét,
Thịt người là thứ ma quỷ thích nhất.
Sóng gió làm sao hết được,
Giữ trung tín nhưng rốt cuộc vẫn không đủ cậy nhờ.
Nếu không tin câu “Ra khỏi cửa đều là con đường nguy hiểm”,
Thì hãy nhìn dòng sông cuồn cuộn này.
Chú thích:
(1) Ứng long: Rồng hiện.
(2) Lấy ý ngược lại từ câu của Đường Giới đời Tống: Bình sinh thượng trung tín. Kim nhật nhiệm phong ba. (Ngày thường giữ trung tín, hôm nay mặc kệ phong ba).
Đi Thuyền Trên Sông Ninh Minh
Việt Tây suối lắm khe nhiều
Qua ngàn năm chẩy hợp lưu một dòng
Nước tuôn từ cõi trời không
Ầm vang thác đổ hãi hùng nghe chi
Rồng thiêng vỗ cánh hầm hè
Vực sâu đáy thác còn gì nữa đây
Nỏ căng tên lướt khỏi dây
Dòng tuôn vạn dặm không ngày ngừng trôi
Núi cao bờ dựng chọc trời
Giữa sông muôn vẻ đá ngồi chen nhau
Rắn rồng hổ báo ngựa trâu
Lớn tầy đình tạ nhỏ hầu nắm tay
Cao đứng dựng thấp nằm ngay
Chạy là hòn thẳng tròn xoay hòn vòng
Trăm muôn dáng vẻ hãi hùng
Vực sâu thủy quái giao long ra vào
Bọt phun sóng vỗ ào ào
Hè dâng lũ lụt sóng trào sục sôi
Ba ngày thủy lộ chơi vơi
Ba ngày dưới nước trên trời khiếp kinh
Hiểm nguy sóng gió lênh đênh
Từng nghe Trung Quốc thênh thênh phẳng bằng
Lộ trình như thế này chăng
Hiểm sâu quanh quất băn khoăn lòng người
Nguy vong nghiêng đổ ý trời
Văn chương trác tuyệt cho đời ghét ghen
Thịt người ma quỷ ăn quen
Cách chi sóng lặng gió im bây giờ
Tín trung chẳng đủ cậy nhờ
Không tin nhắn nhủ người xưa một điều
“Cửa ngoài bước bước hiểm nghèo”
Hãy coi sóng vỗ nước reo sông này
108
Vọng Quan Âm Miếu (1)
Y thùy tuyệt cảnh cấu đình đài
Phạt tận tùng chi trụy hạc thai
Thạch huyệt hà niên sơ tạc phá
Kim thân (2) tiền dạ khước phi lai
Đình vân xứ xứ tăng miên định
Lạc nhật sơn sơn viên khiếu ai
Nhất chú đàn hương (3) tiêu tuệ nghiệp (4)
Hồi đầu dĩ cách vạn tùng nhai
Trông Miếu Quan Âm
Ấy ai xây dựng đình đài ở chốn tận cùng này?
Chặt hết cành tùng, trứng hạc rơi xuống
Hang đá nọ bắt đầu đục phá từ năm nào?
Tượng vàng mới bay đến đây đêm qua.
Chốn chốn mây ngừng trôi, sư nằm yên giấc,
Núi núi bóng chiều rơi, tiếng vượn kêu thương.
Đốt một nén hương đàn để tiêu tan hết cái nghiệp chướng do trí tuệ gây ra
Quay đầu nhìn lại đã cách muôn lớp núi.
Chú thích:
(1) Quan Âm Miếu: Miếu thờ Bồ Tát Quan Thế Âm.
(2) Kim thân: Mình vàng, chỉ tượng Phật. Câu này lấy tích ở chữ “phi lai thạch”. Tương truyền chùa Tương Sơn có hòn đá ở Quảng Châu bay đến thành tượng Phật.
(3) Đàn hương: Hương làm bằng gỗ chiên đàn.
Trông Miếu Quan Âm
Đình đài chùa miếu ai xây
Đốn thông trứng hạc rơi đầy cõi hoang
Hồi nào khởi sự đục hang
Đêm qua bay đến tượng vàng Thích Ca
Giấc say mây đậu sư già
Chiều rơi bóng núi vượn ca tiếng sầu
Chướng căn duyên trước nợ sau
Bởi tâm bởi tuệ cơ cầu phát sinh
Hương đàn một nén lung linh
Quay đầu núi đã cách nghìn rặng cao
109
Tam Giang Khẩu Đường Dạ Bạc
Tây Việt (1) trùng sơn nhất thủy phân
Lưỡng sơn tương đối thạch lân tuân
Viên đề thụ diểu nhược vô lộ
Khuyển phệ lâm trung tri hữu nhân
Tứ vọng vân sơn nhân độc lão
Đồng chu Hồ Việt các tương thân
Thập niên (2) dĩ thất hoàn hương lộ
Ná đắc gia hương nhập mộng Tần
Đêm Đậu Thuyền Ở Cửa Sông Tam Giang
Giữa dãy núi trập trùng đất Tây Việt, có một dòng nước chia đôi,
Hai ngọn núi đối nhau, đá chồng chất
.Vượn hú trên ngọn cây tưởng chừng không có lối đi,
Chó sủa trong rừng sâu, biết là có người.
Nhìn bốn phía toàn mây với núi, người riêng thấy mình già,
Người Hồ, người Việt cùng thuyền đều thân nhau.
Mười năm đã quên mất đường về quê cũ,
Sao cho quê nhà luôn đi vào trong giấc mộng.
Chú thích:
(1) Tây Việt: Vùng đất Quảng Tây.
Thập niên: Mười năm. Nguyễn Du ra làm quan với nhà Nguyễn đã trên mười năm, trong đó có tám năm ở Huế xa quê nhà.
(2) Ý nói nhớ quê nhà, xa lâu đến nỗi quên cả đường về, nhưng quê nhà luôn luôn hiện về trong giấc mộng.
Đêm Đậu Thuyền Ở Cửa Sông Tam Giang
Chập chùng Tây Việt núi cao
Có dòng sông chẩy dạt dào tách đôi
Đối nhau hai đỉnh tuyệt vời
Đầu non vượn hú tưởng nơi cùng đường
Chó tru biết có bản mường
Bốn bề núi úp cảm thương phận già
Chung thuyền Hồ Việt một nhà
Mười năm quên bẵng làng ta nẻo về
Xin cho ngàn dặm tình quê
Thấm vào tận những cơn mê độc hành
110
Thái Bình (1) Thành Hạ Văn Xuy Địch
Thái Bình thành ngoại tây phong khởi
Xuy trứu Ninh Minh nhất giang thủy
Giang thủy trứu hề giang nguyệt hàn
Thùy gia hoành địch bằng lan can
Nhị thập thất nhân (2) cộng hồi thủ
Cố hương dĩ cách vạn trùng san
Nghe Thổi Sáo Ở Dưới Thành Thái Bình
Ngoài thành Thái Bình gió tây nổi,
Làm cho cả một dòng sông Ninh Minh gợn sóng.
Nước sông gợn sóng trăng sông lạnh,
Nhà ai (có người) tựa lan can thổi sáo?
Cả hai mươi bẩy người (trên thuyền) đều quay đầu nhìn lại,
Quê nhà đã cách muôn trùng núi.
Chú thích:
(1) Thái Bình: Thành phủ Thái Bình của tỉnh Quảng Tây.
(2) Nhị thập thất nhân: Hai mươi bẩy người. Tổng số nhân viên sứ đoàn Nguyễn Du.
Nghe Thổi Sáo Ở Dưới Thành Thái Bình
Ngoài thành Thái nổi gió tây
Làm cho dòng nước Minh đầy sóng xao
Trăng sông lạnh lẽo dường bao
Ai kia thổi sáo tựa vào lan can
Hăm bẩy người chợt bàng hoàng
Quê hương đã biệt núi ngàn khuất xa
111
Chu Hành Tức Sự
Tây Việt sơn xuyên đa hiểm hi
Hành hành tòng thử hướng thiên nhi (nhai)
Băng nhai quái thạch nộ tương hướng
Thủy điểu sa cầm hiệp (1) bất phi
Thiên địa biên chu phù tự diệp
Văn chương tàn tức nhược như ti
Vị liên thượng quốc phong quang hảo
Quan tỏa hương tình vị phóng quy
Tức Cảnh Đi Thuyền
Núi sông miền tây đất Việt nhiều hiểm trở,
Từ đây cứ đi, đi mãi đến tận chân trời.
Nhũng bờ núi lở, những hòn đá kỳ quái giận dữ nhìn nhau,
Chim nước chim bãi dạn người không bay đi.
Chiếc thuyền con nổi trôi như chiếc lá trong trời đất,
Hơi tàn văn chương yếu đuối như sợi tơ.
Vì yêu phong cảnh đẹp của thượng quốc,
Nên khóa chặt tình quê, chưa thả cho về
Chú thích:
(1) Hiệp: Khinh, lờn mặt.
Tức Cảnh Đi Thuyền
Núi sông Tây Việt hiểm nghèo
Cứ đi đầu bãi cuối đèo chân mây
Non băng đá giận chau mày
Chim sông chim bãi dạn dầy đứng yên
Thuyền con chiếc lá nổi chìm
Tàn hơi văn cũng tơ mềm sợi tơ
Xứ người mến cảnh nên thơ
Khóa tình quê lại vẫn chưa thả về
112
Thái Bình Mại Giả Ca
Thái Bình cổ sư thô bố y
Tiểu nhi khiên vãn hành giang mi
Vân thị thành ngoại lão khất tử
Mại ca khất tiền cung thần xuy
Lân chu thời hữu hiếu âm giả
Khiên thủ dẫn thướng thuyền song hạ
Thử thời thuyền trung ám vô đăng
Khí phạn bát thủy thù lang tạ
Mô sách dẫn thân hướng tọa ngung
Tái tam cử thủ xưng đa tạ
Thủ vãn huyền sách khẩu tác thanh
Thả đàn thả ca vô tạm đình
Thanh âm thù dị bất đắc biện
Đãn giác liêu lượng thù khả thinh
Chu tử tả tự vị dư đạo
“Thử khúc Thế Dân dữ Kiến Thành”(1)
Quan giả thập số tịnh vô ngữ
Đã kiến giang phong tiêu tiêu giang nguyệt minh
Khẩu phún bạch mạt thủ toan xúc
Khước tọa liễm huyền cáo chung khúc
Đàn tận tâm lực cơ nhất canh
Sở đắc đồng tiền cận ngũ lục
Tiểu nhi dẫn đắc há thuyền lai
Do thả hồi cố đảo đa phúc
Ngã sạ kiến chi bi thả tân
Phàm nhân nguyện tử bất nguyện bần
Chỉ đạo Trung Hoa tẫn ôn bảo
Trung Hoa diệc hữu như thử nhân
Quân bất kiến sứ thuyền triêu lai cung đốn lệ
Nhất thuyền nhất thuyền doanh nhục mễ
Hành nhân bão thực tiện khí dư
Tàn hào lãnh phạn trầm giang để
Người Hát Rong Ở Thái Bình
Ở phủ Thái Bình có người mù mặc áo vải thô,
Có em bé dắt ra bến sông.
Bảo rằng đó là ông già ăn xin ở ngoài thành,
Hát rong xin tiền để kiếm cơm.
Thuyền bên cạnh lúc đó có người thích nghe hát,
Dắt tay ông già xuống thuyền, đến bên cửa sổ.
Lúc này trong thuyền tối không có đèn,
Cơm thừa canh cặn đổ rất bừa bãi.
Ông già sờ soạng đến ngồi vào một góc,
Hai ba lần giơ tay lên thi lễ tạ ơn.
Tay nắn dây đàn, miệng cất tiếng hát,
Vừa múa vừa hát không ngừng nghỉ.
Thanh âm khác lạ quá không hiểu được,
Có điều nghe du dương cũng hay.
Người nhà thuyền viết chữ bảo ta rằng:
“Đó là khúc hát về Thế Dân và Kiến Thành”.
Hơn chục người xem đều im lặng lắng nghe,
Chỉ thấy gió trên sông vi vu và trăng trên sông vằng vặc.
Miệng sùi bọt tay rã rời,
Ngồi yên, cất đàn, ngỏ lời đã đàn hát xong.
Dốc hết tâm lực gần một trống canh.
Mà chỉ được năm sáu đồng tiền.
Đứa bé dẫn được ra khỏi thuyền,
Còn quay đầu lại chúc đa phúc,
Ta chợt thấy vậy vừa buồn đau vừa chua xót,
Phàm người ta thà muốn chết, không ai muốn nghèo.
Thường chỉ nghe ở Trung Nguyên ai cũng no ấm.
Ngờ đâu Trung Nguyên cũng có người như thế này,
Anh chẳng thấy lệ cung đốn mỗi ngày cho thuyền đi sứ?
Thuyền này thuyền nọ đều đầy gạo thịt,
Người trong đoàn sứ ăn no còn thừa thì vứt,
Cơm nguội, thức ăn thừa đổ xuống đáy sông.
Chú thích:
(1) Kiến Thành, Nguyên Cát, Thế Dân đều là con Đường Cao Tổ. Kiến Thành là Thái Tử, Nguyên Cát là Tề Vương và Thế Dân là Tần Vương. Nhưng Thế Dân là tay hùng lược, đánh đông dẹp bắc, tập hợp được nhiều mưu sĩ, tướng tá giúp cha lập nên cơ nghiệp nhà Đường. Thế Dân cùng thủ hạ lập mưu vu cho Kiến Thành và Nguyên Cát làm loạn, giết, giành ngôi Thái Tử, sau làm vua là Đường Thái Tông (627 – 649).
Người Hát Rong Ở Thái Bình
Thái Bình có khách mù lòa
áo thô
Em bé dẫn ra bến đò
Thân già hành khất ngoại ô
Hát rong năm tháng vật vờ kiếm ăn
Thuyền này vốn chuộng ca ngâm
Dắt tay ông lão xuống khoang chào mời
Thuyền không đèn đóm tối thui
Cơm thừa canh cặn rớt rơi bộn bề
Ông già sờ soạng dụt dè
Cung tay thi lễ thầm thì tạ ơn
So dây cất tiếng nỉ non
Tay đàn miệng hát véo von không ngừng
Thanh âm ngôn ngữ lạ lùng
Du dương làn điệu nghe chừng hay hay
Bút đàm thuyền chủ trao tay
“Thế Dân hại Kiến Thành này khúc ca”
Âm ba sầu lắng nghe qua
Gió vi vu thổi trăng tà trên sông
Miệng sùi bọt mép tay rung
Xếp đàn thưa hát đã xong một bài
Dốc tâm suốt trống canh dài
Công lênh biết mấy hưởng vài mươi xu
Rời thuyền theo gót bé thơ
Còn quay đầu lại chúc dư phúc phần
Lòng sao chua xót vô ngần
Đời thà chịu chết ai thân muốn nghèo
Trung Nguyên tiền lắm của nhiều
Ngờ đâu cơ khổ đến điều thế kia
Thấy chăng sứ bộ phủ phê
Thuyền này thịt đống thuyền kia gạo đầy
Tiệc dư đổ tháo sông ngay
Của ăn thức uống mập thây cá rùa
113
Sơn Đường Dạ Bạc
Ngọ mộng tỉnh lai vãn
Tà nhật yểm song phi
Phong kính duy thuyền tảo
Sơn cao đắc nguyệt trì
Ỷ bồng thiên lý vọng
Hợp nhãn cách niên ti (tư)
Mạc cận thương nhai túc
Đề viên triệt dạ bi
Đêm Đậu Thuyền Ở Sơn Đường
Tỉnh giấc mộng trưa trời đã muộn,
Mặt trời xế bóng thôi chiếu lên cửa sổ.
Gió mạnh phải buộc thuyền sớm,
Núi cao được thấy trăng lên chậm.
Dựa mui thuyền trông ra nghìn dặm,
Nhắm mắt lại nghĩ đến chuyện đã cách một năm xa nhà.
Chớ ngủ lại gần vách núi,
Tiếng vượn sẽ kêu buồn suốt đêm.
Đêm Đậu Thuyền Ở Sơn Đường
Giấc trưa chợt tỉnh trễ ngày
Mặt trời thôi chiếu xế ngay song đào
Gió lay thuyền sớm cắm sào
Trăng lên chầm chậm núi cao trăng tròn
Mạn thuyền ngó dặm ngàn muôn
Khép mi xót biệt ruộng vườn đầy năm
Neo thuyền lựa chốn xa xăm
Chớ gần núi kẻo vượn nằm khóc đêm
114
Đề Đại Than (1) Mã Phục Ba Miếu
Tạc thông lĩnh đạo định Viêm (2) khư
Cái thế công danh tại sử thư
Hướng lão đại niên căng quắc thước
Trừ y thực ngoại tẫn doanh dư
Đại Than phong lãng lưu tiền liệt
Cổ miếu tùng sam cách cố lư
Nhật mộ thành tây (3) kinh cức hạ
Dâm Đàm (4) di hối cánh hà như
Đề Miếu Mã Phục Ba Ở Đại Than
Đục thông đường Ngũ Lĩnh để đi bình định cõi Nam,
Công danh che trùm đời, được ghi sử sách
Tuổi cao, già rồi vẫn còn khoe quắc thước,
Ngoài cơm áo ra tất cả đều là thừa.
Sóng gió Đại Than còn lưu dấu công lao to lớn ngày trước,
Cây tùng, cây sam ở ngôi miếu cổ cách xa quê nhà
Chiều tà dưới lớp gai góc phía tây thành,
Nỗi hận ở Dâm Đàm rốt lại như thế nào rồi?
Chú thích:
(1) Đại Than: Một ghềnh lớn của sông Minh Giang hay Tả Giang. Truyền thuyết cho rằng Mã Viện khi tiến quân vào nước ta đã phải phá thác ghềnh để thuyền đi cho dễ. Cho nên những chỗ có ghềnh thác trên các sông miền nam Trung Quốc đều có miếu thờ Mã Viện.
(2) Viêm: Vùng đất phía nam thuộc xứ nóng, Viêm Bang hoặc Việt Viêm là tiếng được nhà Cách Mạng Dân Tộc Lý Đông A dùng để gọi Việt Nam.
(3) Thành Tây: Chỉ mộ Mã Viện chôn phía tây thành.
(4) Dâm Đàm: Tên hồ. Mã Viện đem quân đánh Hai Bà Trưng mãi không được, phải lui quân về Lãng Bạc. Trời nóng bức, hơi độc từ dưới hồ bốc lên khiến diều hâu không bay được. Viện đã hối hận vì không nghe lời em mình.
Lãng Bạc là vùng đất trũng, ngập nước, ở khoảng dưới chân núi Tiên Du thuộc tỉnh Hà Bắc ngày nay. Xin đừng lâm là Hồ Tây, Hà Nội.
Đề Miếu Mã Phục Ba Ở Đại Than
Thông đường đục núi chinh Nam
Trùm đời công trận vũ hoàn sử ghi
Tuổi già quắc thước gớm ghê
Ngoài cơm áo mọi thứ kia đều thừa
Đại Than sóng gió cướp cờ
Bách tùng cổ miếu mịt mờ quê hương
Tây thành gai góc tà dương
Dâm Đàm hận cũ bi thương cỡ nào
115
Vãn Há Đại Than Tân Lạo Bạo Trướng Chư Hiểm Câu Thất
Ngân Hà tạc dạ tự thiên khuynh
Giang thủy mang mang giang ngạn bình
Vị tín quỷ thần năng tướng hựu
Tẫn giao long hổ thất tinh linh
Bình cư bất hội giảng “trung tín”
Đáo xứ vô phương “tề tử sinh”
Cánh hữu hiểm hy nhiêu thập bội
Ngô tương hà dĩ khấu thần minh
Chiều Xuống, Đại Than Lũ Mới Tràn Về, Tất Cả Các Quãng Nguy Hiểm
Đều Ngập Dưới Nước
Đêm qua dòng sông Ngân từ trên trời đổ xuống.
Nước sông mênh mông, bờ sông ngập bằng.
Chưa tin quỷ thần có thể giúp đỡ gì,
Đến cả rồng cọp cũng đều mất hết linh thiêng.
Ngày thường không biết nói chuyện “Trung Tín”,
Thì đến bất cứ nơi nào cũng không thể giải quyết việc sống chết cho mình được.
Vẫn còn có chỗ hiểm nguy gấp mười lần,
Ta sẽ lấy gì để xin với thần minh?
Chiều Xuống Đại Than Lũ Mới Tràn Về
Tất Cả Các Quãng Nguy Hiểm Đều Ngập Dưới Nước
Đêm qua dòng nước sông Ngân
Trời cao đổ xuống trắng ngần mênh mông
Quỷ thần hỗ trợ gì không
Đêm nay rồng cọp đừng hòng linh thiêng
Ngày thường trung tín lãng quên
Sống còn ai gánh nỗi riêng cho mình
Hiểm nguy còn gấp mười lần
Lấy gì khấn nguyện thần minh hộ trì
116
Hạ Than Hỷ Phú
Tâm hương bái đảo tướng quân tì (1) (từ)
Nhất trạo trung lưu tứ sở chi
Đáo xứ giang sơn như thức thú
Hỷ nhân xà hổ bất thi uy
Vạn châu tùng thụ tăng nhân ốc
Nhất đái hàn yên Yến Tử ky (cơ)
Tịch tịch thuyền song vô cá sự
Ngư ca giang thượng khán tà huy
Tả Nỗi Mừng Xuống Khỏi Thác
Thành tâm dâng hương cầu khẩn trước đền tướng quân,
Một con thuyền giữa dòng chẩy mặc cho nó trôi đi.
Đến nơi nào cũng thích thú như sông núi đã từng quen biết,
Mừng cho người, vì rắn, cọp đã không ra oai.
Muôn cụm tùng kia là nơi nhà sư ở,
Nơi có một dải khói lạnh là Hòn Én.
Lặng lẽ bên cửa sổ thuyền, không có việc gì,
Nghe khúc hát của thuyền chài trên sông, ngắm bóng chiều tà.
Chú thích:
(1) Tướng quân từ: Đền thờ Mã Viện.
Tả Nỗi Mừng Xuống Khỏi Thác
Tâm hương một nén trước đền
Giữa dòng chẩy mặc con thuyền trôi đi
Núi sông nào cũng cố tri
Rắn beo chẳng nỡ thị uy mừng người
Cội tùng sư cụ nghỉ ngơi
Tổ hương lạnh khói én trời bay sang
Thuyền trôi song vắng thư nhàn
Ngắm chiều rơi tiếng hát vang bác chài
117
Thương Ngô (1) Tức Sự
Ngu Đế (2) nam tuần cánh bất hoàn
Nhị phi (3) sái lệ trúc thành ban
Du du trần tích thiên niên thượng
Lịch lịch quần thư nhất vọng gian
Tân lạo sơ thiêm tam xích thủy
Phù vân bất biện Cửu Nghi san (4)
Tầm thanh dao tạ tỳ bà ngữ
Thiên lý thanh sam bất nại toàn (5)
Tức Cảnh Ở Thương Ngô
Vua Ngu Thuấn đi tuần ở phương nam, không trở về nữa,
Hai bà phi khóc, nước mắt rưới vào khóm trúc thành vết lốm đốm.
Dấu cũ từ nghìn năm trước xa xôi,
Điều sách chép rành rành nay hiện rõ trước mắt.
Lụt mới đổ về nước cao thêm ba thước,
Mây nổi che không trông rõ núi Cửu Nghi.
Xa nghe tiếng đàn tỳ bà nhưng đành phải từ tạ,
Vì khách áo xanh đang trên đường nghìn dặm, không thể quay lại được.
Chú thich:
(1) Thương Ngô: Đất thuộc tỉnh Hồ Nam ngày nay. Thương Ngô từ đời Minh Thanh đã đổi là Ngô Châu phủ.
(2) Ngu Đế: Vua Thuấn đi tuần phương nam, chết ở núi Thương Ngô, Hồ Nam.
(3) Nhị Phi: Hai bà vợ của Ngu Thuấn là Nga Hoàng và Nữ Anh nghe tin chồng chết, đi tìm, khóc, nước mắt nhỏ vào những cây trúc bên dòng sông Tương nơi hai bà nhẩy xuống tự trầm. Vỏ trúc rây nước mắt trở thành loại trúc đốm (ban trúc).
(4) Cửu Nghi: Núi ở huyện Ninh Viễn tỉnh Hồ Nam, có chín ngọn cao vút, mây phủ dầy đặc, khó nhìn rõ.
(5) Nguyễn Du ngồi trên thuyền đi qua Thương Ngô nghe vẳng trên sông tiếng tỳ bà từ xa đưa lại, ông liên hệ đến tiếng tỳ bà trên sông Tầm Dương trong bài Tỳ Bà Hành của Bạch Cư Dị đời Đường, nhưng vì chàng “Tư Mã Giang Châu đang vội đi trên con đường ngàn dặm, không thể quay lại được để soạn bài ca cho người gẩy khúc đàn tỳ đó.”
Tức Cảnh Ở Thương Ngô
Nam du vua Thuấn không về
Lệ rơi trúc đốm hai phi khóc người
Ngàn năm dấu cũ xa vời
Sách xưa ghi chép rõ mười là đây
Lụt dâng ba thước sông đầy
Cửu Nghi chín ngọn trong mây khuất chìm
Tỳ bà vẳng tiếng tơ êm
Xót người xanh áo đang trên dặm dài
118
Thương Ngô Mộ Vũ
Vũ trệ Tầm Giang (1) hiểu phát trì
Ngô thành bạc mộ thượng phi phi
Nhất giang tân lạo bình Tam Sở (2)
Đại bán phù vân trú Cửu Nghi
Trách trách tiểu chu nan quá Hạ
Sam sam trường phát tự tri Di (3)
Bình ba nhật mộ Tương Đàm (4) viễn
Bôi tửu bằng lan điếu nhị phi
Mưa Chiều Ở Thương Ngô
Mưa giữ lại ở Tầm Giang, sớm mai lên đường muộn,
Xế chiều ở thành Ngô vẫn mưa lâm dâm.
Đầy sông nước lụt tràn cả ra đất Tam Sở,
Phần lớn mây nổi ở núi Cửu Nghi.
Chiếc thuyền nhỏ hẹp khó qua được miền Hoa Hạ,
Tóc để búi to, dài tự biết mình là người Di.
Trời chiều, sóng yên, Tương Đàm còn ở phía xa,
Tựa lan can rót rượu viếng hai bà phi.
Chú thích:
(1) Tầm Giang: Sông chẩy qua Thương Ngô vào Quảng Đông.
(2) Tam Sở: Ba nước Sở: Đông, Tây và Nam Sở.
(3) Di: Tiếng người Trung Hoa thời xưa chỉ chung những dân tộc ở về phía đông. Còn gọi là man di. Người Việt Nam để tóc dài, búi tóc khác với người Trung Quốc kết bím thời Mãn Thanh nên tác giả viết thế để phân biệt chứ không có ý hạ thấp. Các bản đều cho hạ là mùa hè, nhưng xét thấy Hạ là mùa hè thì câu sẽ không đối được với câu dưới. Hạ phải đối với Di. Vì vậy Hạ phải là Hoa Hạ chỉ đất nước Trung Quốc.
(4) Tương Đàm: Tên một huyện của tỉnh Hồ Nam.
(5) Nhị Phi: Hai bà phi Nga Hoàng và Nữ Anh.
Mưa Chiều Ở Thương Ngô
Tầm Giang mưa trễ muộn đi
Ngô Thành chiều vẫn dầm dề mưa rơi
Tràn sông Tam Sở lụt rồi
Cửu Nghi chín ngọn mây trôi khuất mờ
Thác ghềnh Hoa Hạ nhấp nhô
Tóc nuôi búi gọn sứ đồ man di
Tương Đàm xa tít mù kia
Mạn thuyền bái điếu hai phi rượu nồng
119
Thương Ngô Trúc Chi Ca
I
Quế Lâm (1) tân lạo dũng trường xuyên
Thủy ốc bằng cao dục thướng thiên
Ngọ hậu đông phong xuy cánh cấp
Vãng lai vô số Quảng Đông thuyền
II
Văn Xương các thượng dạ đăng minh
Nhất phiến hàn quang xạ thủy tinh
Lai vãng du thuyền bất tri số
Mãn giang tề phát trạo ca thanh
III
Vũ tự bàng đà vân tự si
Cửu Nghi sơn sắc vọng trung nghi
Ngu vương táng xứ vô khâu mộ
Thủy diện huyền thanh tự nhị phi
IV
Thanh sơn lâu các nhất tằng tằng
Trú kiến yên hà dạ kiến đăng
Cổ tự vô danh nan vấn tấn
Bạch vân thâm xứ ngọa sơn tăng
V
Lãng hoa song trạo tật như phi
Khán bãi long chu để mộ quy
Sinh diện tương phùng vô úy tị
Hồ tê vi lộ tiếu Nam di
VI
Nhất thanh liệt trúc tán lưu hoàng
Kinh khởi sa đinh nhạn sổ hàng
Thiên tế dao chiêm quy khứ xứ
Thương Ngô bách thướng định Hành Dương (3)
VII
Trường giang phá lãng diểu vô nhai
Tam ngũ du thuyền sấn dạ khai
Vô nguyệt vô đăng khán bất kiến
Tỳ bà thanh tự thủy trung lai
VIII
Kê Lung (4) sơn tại thủy trung ương
Vạn khoảnh yên ba cộng diểu mang
Tương ước đông gia cụ chu tiếp
Thiên phi các thượng cộng phần hương
IX
Thành bắc sơn lưu hồng cánh hồng
Thành nam thùy liễu bất câm phong
Nhứ phi hoa lạc vô nhân quản
Nhất dạ tùy lưu đáo Quảng Đông
X
Ban trúc yên đồng xích nhị trường
Trà âu phù động Vũ Tiền (5) hương
Nhất lai nhất vãng nhân vô vấn
Độc ỷ thuyền song chính hận lang
XI
Thập chích long chu nhất tự trần
Xao la qua cổ điếu Linh Quân (6)
Hoàng hoa khuê nữ tham hành lạc
Khiêu xuất thuyền đầu bất tỵ nhân
XII
Đường chu lan tiếp nhật tân phân
Vãng vãng lai lai bất yếm tần
Ký thủ họa thuyền tam ngũ chích
Tối phong lưu thị bố y nhân
XIII
Duyên thành dương liễu bất thăng nhu
Diệp diệp ti ti vị cập thu
Hảo hướng phong tiền khán dao duệ
Tối điên cuồng xứ tối phong lưu
XIV
Trường quần tập tập duệ khinh tiêu
Vân kế nga nga ủng thúy kiều
Doanh đắc quỷ đầu (7) mãn nang khẩu
Bằng quân vô phúc dã năng tiêu
XV
Thuyền vỹ đăng lung tứ xích can
Thuyền đầu họa hổ hắc ban ban
Bố kỳ thượng tả “Tuần Hà” tự
Chỉ cật hoa thuyền bất cật gian
Ca Điệu Trúc Chi Làm Khi Đi Qua Thương Ngô
I
Vừa mới lụt ở Quế Lâm nước sông dâng lên to,
Nhà bè nổi cao như muốn lên tận trời.
Sau trưa, gió đông càng thổi gấp,
Thuyền Quảng Đông qua lại nhiều không đếm được.
II
Ban đêm đèn sáng choang trên gác Văn Xương,
Một ánh sáng lạnh lẽo chiếu hắt lên từ mặt nước bóng như gương.
Thuyền chơi qua lại không biết bao nhiêu chiếc,
Đầy sông vang lên tiếng hát chèo thuyền.
III
Mưa cứ rơi tầm tã, mây cứ thẫn thờ,
Sắc núi Cửu Nghi không trông được rõ,
Nơi chôn vua Thuấn không có gò mộ,
Tiếng đàn trên mặt nước nghe như tiếng đàn của hai bà phi.
IV
Lầu gác trên núi xanh tầng này nối tầng khác,
Ban ngày nhìn thấy khói ráng, ban đêm trông thấy đèn.
Chùa cổ không có tên, khó hỏi thăm,
Trong tầng núi cao đầy mây trắng che dầy, có nhà sư nằm ngủ.
V
Đôi chèo tung sóng hoa, (thuyền) chạy nhanh như bay,
Xem đua thuyền rồng xong, mãi đến tối mới về
Mặt lạ gặp nhau không tránh né,
Hàm răng hạt bầu hé cười, vì thấy ta là nguời Nam Di.
VI
Một tiếng pháo trúc nổ tỏa khói lưu hoàng.
Kinh động mấy hàng chim nhạn bay vút lên từ bãi cát.
Vời trông chốn đi về ở phía ven trời,
Từ Thương Ngô đi lên phía Bắc hẳn là đến Hành Dương.
VII
Sông lớn, sóng nổi mênh mông, mịt mờ không bờ bến,
Dăm ba thuyền khách chơi lướt nhanh giữa màn đêm.
Không có trăng, không có đèn, nhìn chẳng thấy gì,
Chỉ nghe tiếng đàn tỳ bà từ trong nước vọng đến.
VIII
Núi Kê Lung ở ngay giữa lòng nước,
Muôn khoảng khói sóng đều mênh mang mờ mịt.
Hẹn với người hàng xóm phía đông đem đầy đủ thuyền và mái chèo,
Cùng nhau lên thắp hương trên gác Thiên Phi.
IX
Phía bắc thành, hoa sơn lựu đã đỏ lại càng đỏ thêm,
Phía nam thành, liễu rủ không chế ngự được gió.
Tơ bay, hoa rụng không ai để ý
Một đêm theo dòng nước trôi đến Quảng Đông.
X
Ống điếu bằng loại trúc đốm dài thước hai,
Bình trà bốc lên mùi hương Vũ Tiền.
Thuyền qua lại, không ai hỏi han gì nhau,
Một mình ngồi dưa bên cửa sổ thuyền, đúng là cô gái đang giận chồng.
XI
Mười chiếc thuyền rồng bầy hàng chữ “nhất”
Khua thanh la, đánh trống, viếng Linh Quân.
Cô gái cài hoa cúc mải xem cuộc vui,
Nhẩy ra đầu thuyền không tránh người (lên xuống).
XII
Thuyền bằng gỗ đường, chèo bằng gỗ lan suốt ngày nhộn nhịp,
Qua qua, lại lại, không biết bao nhiêu lần.
Nhớ lấy dăm ba chiếc thuyền có vẽ hình trang trí,
Khách chơi phong lưu bậc nhất chính là bọn người áo vải.
XIII
Những cây dương liễu ở dọc thành mềm mại vô cùng,
Lá lá, tơ tơ, chưa vào thu.
Ta thích nhìn thấy chúng lay động trước gió,
Lúc chúng điên cuồng nhất chính là lúc tinh thần cốt cách của chúng cao đẹp nhất.
XIV
Quần là dài lướt thướt, áo lụa chẽn mỏng,
Búi tóc cao cao, cài trâm thúy,
Được bạc, nhét đầy túi tiền,
(Thì) dù anh biết mình là vô phúc, cũng vẫn cứ tiêu tiền (để đến với các cô gái ấy)
XV
Đuôi thuyền, treo đèn lồng dài bốn thước,
Đầu thuyền, vẽ hình con cọp đen sì.
Trên lá cờ vải viết hai chữ : “Tuần Sông”
Chỉ cật vấn số thuyền chơi thôi, chẳng xét hỏi gì bọn gian.
Chú thích:
(1) Quế Lâm: Thị trấn trên sông Quế Giang. Ngày nay là thủ phủ tỉnh Quảng Tây.
(2) Văn Xương Các: Đền thờ Văn Xương Đế Quân, vị thần chủ về việc học và văn học.
(3) Hành Dương: Tên núi thuộc tỉnh Hồ Nam
(4) Kê Lung: Tên một ngọn núi hình giống chiếc lồng gà.
(5) Vũ Tiền: Vũ Tiền Trà, một loại trà ngon hái trước tiết Cốc Vũ.
(6) Linh Quân: Tức Khuất Nguyên.
(7) Quỷ Đầu: Một thứ tiền cổ.
Điệu Ca Trúc Chi Làm Khi Qua Đất Thương Ngô
I
Quế Lâm lụt lớn nước to
Mái nhà bè nổi tưởng nhô tới trời
Xế trưa gió thổi cấp thời
Quảng Đông thuyền ngược thuyền xuôi vô vàn
II
Đèn đêm soi gác Văn Xương
Một tia lạnh lẽo nước gương chiếu vào
Thuyền qua lại biết là bao
Đầy sông vang tiếng hát chào khách xa
III
Mưa rơi mây thấp la đà
Cửu Nghi chín ngọn mù sa mịt mùng
Mồ vua gò miếu đều không
Tiếng đàn mặt nước nỗi lòng hai phi
IV
Gác lầu núi tiếp núi kia
Ngày thì khói ráng đêm thì đèn soi
Không tên chùa khó tìm tòi
Tầng cao mây núi sư ngơi giấc ngày
V
Chèo hoa thuyền lướt như bay
Xem đua thuyền suốt cả ngày mới thôi
Tránh nhau chi lạ mặt người
Răng bầu toe toét nhạo cười Nam di
VI
Pháo đùng một tiếng khói che
Nhạn từ bãi thấp cao phi vút trời
Cõi đi về chốn xa xôi
Thương Ngô phía bắc cách vời Hành Dương
VII
Sông to sóng cả mù sương
Dăm ba thuyền khách đêm trường lướt nhanh
Đã không đèn lại thiếu trăng
Tỳ bà êm ái vọng thanh tới thuyền
VIII
Núi Kê giữa sóng thanh tuyền
Khói mây muôn khoảng triền miên mịt mờ
Mé đông cùng khách hẹn hò
Rủ nhau chiêm bái gác thờ Thiên Phi
IX
Bắc thành hoa lựu đỏ hoe
Nam thành tơ liễu khó che gió lùa
Tơ bay hoa rụng hững hờ
Một đêm trôi tới bến bờ Quảng Đông
X
Điếu bằng trúc đốm thước hai
Vũ Tiền hương ngát bay dài trà thơm
Thuyền qua lại chẳng thăm nom
Dựa thuyền vợ trẻ còn đương giận chồng
XI
Long chu mười chiếc bình bồng
Giăng hàng chữ nhất chiêng cồng nổi lên
Viếng Linh Quân mải đứng xem
Tóc cài hoa cúc cô em chận đường
XII
Chèo lan thuyền gỗ sa đường
Qua qua lại lại vấn vương mấy lần
Dăm thuyền trang trí hoa văn
Phong lưu bậc nhất chính dân áo xồng
XIII
Liễu dương mềm mại vô cùng
Tơ tơ lá lá ngập ngừng ý thu
Lắt lay trước gió dễ ưa
Điên cuồng là lúc liễu thừa thanh cao
XIV
Quần là áo lụa đẹp sao
Tóc gài trâm thúy búi cao ưa nhìn
Vận may túi nhét đầy tiền
Biết mình vô phúc vẫn xin dâng nàng
XV
Hoa đăng bốn thước đuôi thuyền
Phía đầu mũi vẽ hổ đen đen xì
“Tuần Sông” phất phới cờ đề
Thuyền gian chẳng xét cứ nhè thuyền hoa
Ý kiến bạn đọc
Vui lòng
login để gởi ý kiến. Nếu chưa có account, xin
ghi danh.