Vẩy Tay Đạt Ma Dịch Cân Kinh - Vẫy Tay Đuổi Bay Bệnh Tật
NGUỒN INTERNET * đăng lúc 06:14:30 PM, Dec 26, 2023 * Số lần xem: 1775
Hình ảnh
#1
Đạt Ma Vẩy Tay Dịch Cân Kinh
Phương pháp chữa bách bệnh không dùng thuốc,
không mất tiền
Đạt ma vẩy tay dịch cân kinh – Phương pháp chữa bách bệnh không dùng thuốc, không mất tiền
Tập “Dịch cân kinh” thấy ăn tốt ngủ ngon, đấy là việc phổ biến, nên đã làm tăng sức khỏe cho các bệnh nhân nói chung và chữa khá nhiều bệnh như: Suy nhược thần kinh, huyết áp cao, bệnh tim các loại, bệnh thận, bán thân bất toại, trúng gió, méo mồm, lệch mắt, hen suyễn…
Đông y cho rằng, vấn đề cơ bản của bệnh tật con người là do “khí huyết” (Âm-Dương) mất thăng bằng sinh ra. “Đạt Ma Dịch cân kinh” giải quyết được vấn đề này, nên đối với đa số các loại bệnh, nhất là bệnh mãn tính đều có thể chữa được cả…
1.Lịch sử:
Năm 917 (sau Công nguyên) Đạt Ma Tổ Sư từ Ấn Độ sang Trung Quốc thuyết pháp và truyền giáo, sau ở lại Trung Sơn – Hà Nam – Trung Quốc, xây dựng chùa Thiếu Lâm. Có nhiều đệ tử nhập môn học Phật để mai sau đi truyền giáo đem một tín ngưỡng mới đi tuyên truyền, có khi trái với tín ngưỡng cũ, dễ xảy ra xung đột nên cho đệ tử Chùa Thiếu Lâm vừa học lí thuyết Phật giáo, vừa phải luyện võ để tự vệ (một phái võ Thiếu Lâm vẫn tồn tại đến ngày nay).
Nhiều người xin nhập môn, nhưng thể lực kém không luyện võ được. Tổ sư truyền dạy một phương pháp luyện tập tên gọi là “Đạt Ma Dịch cân kinh” để chuyển biến thể lực của các đệ tử từ yếu thành khỏe. Cách tập đơn giản, nhưng hiệu lực lớn, vì tiêu trừ được bệnh.
2.Tư tưởng:
Ngày nay, người ta nghiên cứu lại phương pháp này chữa được rất nhiều bệnh. Phương pháp luyện tập “đạt Ma Dịch cân kinh” trước tiên nói về tư tưởng:
Phải có hào khí: nghĩa là phải có quyết tâm tập cho đến nơi và đều đặn, phải vững vàng tin tưởng, không nghe lời bàn ra nói vào mà chán nản bỏ dở.
Phải lạc quan: không lo sợ vì bệnh mà mọi người cho là hiểm nghèo, và tươi tỉnh tin rằng mình sẽ thắng bệnh do luyện tập.
3.Tư thế:
Tư thế: “Trên không dưới có, trên ba dưới bảy”.
Trên phải không, dưới nên có, đầu nên lơ lửng, miệng không hoạt động, bụng phải mềm, lưng nên thẳng, thắt lưng mềm dẻo, hai cánh tay phải vẫy, cùi chỏ thẳng và mềm, cổ tay trầm, bàn tay quay lại phía sau, ngón xòe như cái quạt. Vẫy, hậu môn phải thót, bụng dưới thót, gót chân lỏng, bàn chân phải cứng, các ngón chân bấm chặt như đứng trên đất trơn. Đây là những quy định cụ thể của các yêu cầu khi luyện “Đạt Ma Dịch cân kinh”.
Dựa trên yêu cầu này, khi tập vẫy tay, thì từ cơ hoành trở lên, phải giữ cho được trống không, buông lỏng thảnh thơi, đầu không nghĩ ngợi lung tung, chỉ chú ý vào việc tập, xương cổ cần buông lỏng để có cảm giác như đầu treo lơ lửng, mồm giữ tự nhiên (không mím môi), ngực nên buông lỏng để cho phổi thở tự nhiên, cánh tay buông tự nhiên, giống như hai mái chèo gắn vào vai. Từ cơ hoành trở xuống phải giữ cho chắc, đủ sức căng, bụng dưới thót vào, hậu môn nhích lên, mười ngón chân bấm chặt vào mặt đất, giữ cho đùi và bắp chân trong trạng thái căng thẳng, xương mông thẳng như cây gỗ.
4.Động tác vẫy tay:
Khi vẫy tay cần nhớ “lên không, xuống có”, nghĩa là lấy sức vẫy tay về phía sau, khi tay trở lại phía trước là do quán tính, không dùng sức đưa ra phía trước.
“Trên ba dưới bảy” là phần trên để lỏng chỉ độ ba phần khí lực, phần dưới lấy gắng sức tới bảy phần thể lực, vấn đề này phải quán triệt đầy đủ thì hiệu quả rất tốt.
Mắt nhìn thẳng, đầu không nghĩ ngợi gì, chỉ nhẩm đếm lần vẫy tay.
Các bước tập cụ thể như sau:
a. Hai bàn chân để xích ra bằng khoảng cách của hai vai.
b. Hai cánh tay duỗi thẳng theo vai, ngón tay xòe thẳng, lòng bàn tay quay về phía sau.
c. Bụng dưới thót lại, lưng thẳng, bụng trên co lên, cổ lỏng, đầu miệng trong trạng thái bình thường.
d. Các đầu ngón chân bám trên mặt đất, gót chân sát đất, bắp chân và đùi thẳng.
e. Hai mắt chọn một điểm đằng xa để nhìn, không nghĩ ngợi lung tung, chỉ chú ý vào ngón chân bám đùi vế chắc, hậu môn thót và nhẩm đếm.
f. Dùng sức vẫy tay về phía sau, để hai tay trở lại phía trước theo quán tính, tuyệt đối không dùng sức, chân vẫn lên gân, hậu môn co lên không lòi.
g. Vẫy tay từ 300-400-500-600 dần dần lên tới 1.000 cái vẫy tay, ước chừng 30 phút.
h. Phải quyết tâm tập đều đặn, lần vẫy tay dần dần tăng lên không miễn cưỡng vì “dục tốc bất đạt”, nhưng cũng không tùy tiện bữa tập nhiều, bữa tập ít hoặc nghỉ bệnh, vì thế dễ làm mất lòng tin trong việc luyện tập, khó có kết quả.
5.Chú ý:
Bắt đầu luyện tập cũng không nên dùng tận lực làm tổn thương các ngón chân (sau buổi tập nên vân vê các ngón chân, tay, mỗi ngón chín lần). Nôn nóng mong muốn khỏi bệnh ngay mà dùng quá sức cũng không đưa lại kết quả mong muốn. Có quyết tâm, nhưng phải từ từ tiến lên mới là đúng cách, sẽ thu được kết quả mĩ mãn.
Nếu tinh thần không tập trung, tư tưởng phân tán, thì khí huyết loạn xạ, và không chú ý đến “trên nhẹ dưới nặng” là sai và hỏng.
Khi vẫy tay tới 600 cái trở lên, thường thường có trung tiện, hắt hơi, hai chân nhức mỏi, toát mồ hôi, mặt nóng bừng… đấy là hiện tượng bình thường, đừng ngại.
Trung tiện và hắt hơi là do nhu động của đường ruột tăng lên, đẩy mạnh cơ năng tiêu hóa. Chân mỏi là do khí huyết dồn xuống cho hợp với “trên nhẹ, dưới nặng”. Đây là quy luật của sinh lí hợp với vũ trụ “thiên khinh, địa trọng”.
Người bệnh nặng có thể ngồi vẫy tay cũng được, nhưng nhớ phải thót đít và bấm 10 đầu ngón chân xuống đất.
Số lần vẫy tay trong 1 buổi tập không giới hạn, nhưng các buổi tập phải đều, không nên lúc nhiều lúc ít. 1800 lần trong một buổi tập là có tác dụng chữa bệnh tốt, có thể tập nhiều hơn. Khi tập thấy ăn ngon, ngủ tốt , đại tiểu tiện bình thường, tinh thần tỉnh táo là số lần tập phù hợp với sức khỏe của ta.
Lúc mới tập người bệnh nhẹ có thể vẫy nhanh vòng rộng , dùng sức nhiều, với người bệnh nặng vẫy chậm hơn, vòng hẹp, dùng ít sức. Vẫy nhanh quá thì tim đập quá nhanh, nhẹ quá thì không có tác dụng làm cho máu lưu thông.
Vẫy tay là môn thể dục cần sự mềm dẻo, dùng ý là chính mà không dùng sức, nhưng phải làm sao cho cho bả vai, lưng, ngực chuyển động làm cho cơ hoành lên xuống mới có tác dụng.
Khi tập căn cứ vào cảm nhận của mình để điều chỉnh nhiều ít, nhanh chậm, mạnh nhẹ sao cho phù hợp với bản thân. thấy nhanh nhẹn, tươi tỉnh hơn là tốt nếu kém trước thì cần điều chỉnh.
Đông y cho rằng động tác nhẹ là bổ ích cho cơ thể, động tác mạnh là loại bỏ các chất căn bã có hại cho cơ thể tức là chữa bệnh.
Nhẩm đếm làm cho tỉnh táo, đầu óc được yên tĩnh nghỉ ngơi chân tâm được bồi dưỡng.
Khi tập có thể trong nhà học ngoài trời, đảm bảo yên tĩnh, không khí trong sạch không có gió lùa.
Sau khi tập thấy ngực lưng nhẹ nhàng hơi thở đều hòa, mắt sáng,nước miệng ứa ra đại tiện nhuận, ăn ngon hơn, bệnh tật bớt dần thế là tập đúng và bệnh tật sẽ khỏi. Rất ít khi tập sai, mà chỉ có tác dụng nhiều ít khác nhau.
Cần vững tin khi luyện tập, không hoang mang, lạc quan với cuộc sống, quyết tâm luyện tập đến nơi đến chốn thì dù bệnh nan y cũng khỏi. Càng để chậm, ngần ngại càng khó khăn và càng lâu khỏi bệnh.
Chống chỉ định: Những người đang ngoại thương không được phép tập, vì máu lưu thông mạnh làm vết thương há miêng, khó lành.
6.Hiệu quả phòng và trị bệnh
Bệnh gan: Do khí huyết, tạng gan không tốt gây nên khí không thoát, tích lũy, làm cho khó bài tiết. Đương nhiên là bệnh nan y ảnh hưởng tới cả mật và tì vị. Luyện “Dịch cân kinh” có thể giải quyết vấn đề này. Nếu có trung tiện là có kết quả sớm.
Bệnh mắt: Luyện “Dịch cân kinh” có thể khỏi đau mắt đỏ, các chứng đau mắt thông thường, cận thị, thậm chí nó chữa được cả bệnh đục thủy tinh thể (thong manh).
Trong nội kinh có nói “mắt nhờ huyết mà nhìn được”, khi khí huyết không dẫn đến bộ phận của mắt thì đương nhiên sinh ra các bệnh của mắt. Con mắt là trong hệ thống của thị giác, nhưng cũng là một bộ phận của cơ thể.
Khi tập có thể có phản ứng sự xung đột giữa chính khí và tà khí, ta vẫn tập thì sẽ sản sinh ra chất bồi bổ có nhiều ích lợi cho chính khí. Ta luyện tập đúng phép là làm tăng mức đề kháng, thải cặn bã trong các gân, thần kinh và cả tế bào khác mà máu bình thường không thải nổi. Như luyện “Đạt Ma Dịch cân kinh” khí huyết lưu thông mới thải nổi các cặn bã ra nên sinh ra phản ứng. Vậy ta đừng sợ, cứ tiếp tục tập như thường, hết một phản ứng là khỏi một căn bệnh, tập luyện dần đưa lại kết quả tốt.
7.Tiêu chuẩn đạt được Luyện “Đạt Ma Dịch Cân Kinh” đạt được bốn tiêu chuẩn như sau:
– Nội trung tố: tức là nâng cao can khí lên, là then chốt, điều chỉnh tạng phủ, lưu thông khí huyết, thanh khí sẽ thông suốt lên tới đỉnh đầu.
– Tứ trưởng tố: tức là tứ chi phối hợp với động tác theo đúng nguyên tắc khi tập “Dịch cân kinh”. Tứ trưởng tố song song với Nội trung tố sẽ làm cho tà khí bài tiết ra ngoài, trọc khí dằn xuống, cơ năng sinh sản ngày càng mạnh.
– Ngũ tâm phát: nghĩa là 5 trung tâm của huyệt dưới đây hoạt động mạnh hơn mức bình thường:
Bách hội: một huyệt trên đỉnh đầu.
Lao cung: hai huyệt của hai gan bàn tay.
Dũng Tuyền: hai huyệt ở hai gan bàn chân.
Khi luyện “Dịch cân kinh” năm huyệt này đều có phản ứng và hoàn toàn thông suốt. Nhâm đốc và 12 kinh mạch đều đạt tới hiệu quả phi thường, nó làm tăng cường thân thể tiêu trừ các bệnh nan y mà ta không ngờ.
– Lục phủ minh: Lục phủ là ruột non, mật, dạ dày, ruột già, bong bóng, tam tiêu.
Nghĩa là không trì trệ, lục phủ có nhiệm vụ thâu nạp thức ăn tiêu hóa và bài tiết được thuận lợi, xúc tiến các cơ năng sinh sản, giữ vững trạng thái bình thường của cơ thể, tức là âm dương thăng bằng, cơ thể thịnh vượng.
8.Những phản ứng có thể có khi tập
Khi luyện tập dịch cân kinh có thể xảy ra các phản ứng đó là hiện tượng thật khi có bệnh, không đáng ngại. Có thể liệt kê 34 phản ứng thông thường còn lại các phản ứng khác không kể xiết.
1, đau ruột. 2, tê dại. 3, lạnh 4, nóng 5, đầy hơi 6, Sưng 7, Ngứa 8, Ứa nước miếng 9, Ra mồ hôi 10, Có cảm giái kiến bò kiến cắn 11, Giật gân 12, Đau xương cổ, tiếng kêu lục cục 13, Cảm giác máu chảy dồn dập 14, Lông tóc dựng đứng 15, Âm nang nở to 16, Lưng đau 17, Hắy mắt, mi mắt giật 18, đầu nặng 19, Hơi thở ra nhiều, thở dốc 20, Hỏa 21, Trung tiện 22, Gót chân nhức mỏi như mưng mủ 23, Huyết áp biến đổi 24, Lưỡi có cơm trắng 25, da cứng 26, Sắc mặt biến đổi 27, Đau mỏi toàn thân 28, nôn mửa 29, Đại tiện ra máu, mủ hoặc phân đen 30, Tiểu tiện nhiều 31, trên đầu mọc mụn 32, Bệnh từ trong da thịt tiết ra, 33, Ngứa từng chỗ hay toàn thân. 34, chảy máu cam.
Có các phản ứng trên là do trọc khí trong người bị đẩy ra làm sạch cơ thể tức là trừ bệnh tật. là phản ứng giữa chính khí và tà khí. Nếu ta tiếp tuc tập chính khí được bồi bổ làm tăng sức đề kháng, thải được các cặn bã trong các tế bào thần kinh, trong gân và các tế bào khác mà bình thường máu không thải nổi. Vì vậy khi có phản ứng ta đừng sợ, tiếp tục tập hết 1 phản ứng là hết 1 bệnh. luyên tập đều sẽ đưa lại kết quả tốt không ngờ.
9.Tóm tắt & Kinh nghiệm bản thân
Tóm tắt
Vẩy tay Đạt ma dịch cân kinh
– Tập ở đâu cũng được, giờ nào cũng được, nhưng chỗ rộng, thoáng nhiều cây xanh, gần thiên nhiên, tập buổi sáng sớm, nhìn về phía mặt trời mọc là tốt nhất.
– Chân đứng trên thảm hoặc đi dép, rộng ngang vai, 10 ngón chân bấm chặt xuống đất
– Tay vung mạnh về sau 7 phần, rơi tự nhiên về trước 3 phần, cổ tay vẩy mạnh lên, xuống.
– Cuốn lưỡi ngậm miệng, thót hậu môn liên tục trong suốt quá trình tập để khéo kín 2 mạch Nhâm & Đốc
– Mắt nhìn thẳng, hướng lên ~ 5 độ, về 1 điểm cố định ở phía trước. Ngoảnh ngang, nhìn dọc dễ bị ngẹo cổ, nên phải tập trung.
– Nhẩm đếm 1~100, 101~200,…, 1700, 1800…Mục đích để rèn sự tập trung, giúp đầu óc thư giãn, không nghĩ lung tung.
– Tập 1800 cái mỗi ngày ~ 30p, giúp đào thải độc tố, lưu thông khí huyết, tăng cường sức khỏe, đẩy lùi bệnh tật, kể cả ung thư.
Kinh nghiệm bản thânTrong quá trình tập thì mình thấy việc luyện để tập trung thót hậu môn và đếm liên tục là khó nhất. Cũng như kiểm soát việc thở ra đằng mũi hít vào đằng miệng trong khi bơi vậy.
Lâu lâu phải để ý xem còn thót hậu môn không. Đếm có nhầm không, mình hay nhầm ở đoạn X10, ví dụ 510 thì phải đến 511 nhưng thường đếm thành 520, 530…hay 509 rồi đến 510 nhưng hay đếm thành 600…
Tập đếm để luyện tĩnh tâm, không suy nghĩ linh tinh làm loạn tâm.
Mình hay đếm như sau:
– Một, hai, ba…, chín chín, một trăm.
– Một không một, một không hai…, một chín tám, một chín chín, hai trăm…
– Chín không một, chín không hai…, chín chín tám, chín chín chín, một nghìn.
– Quay lại đếm 1000 tiếp theo.
Cổ tay phải vảy lên, vảy xuống để đóng mở huyệt Nội quan và Ngoại quan.
Cuốn lưỡi ngậm miệng và thót hậu môn để khép kín 2 mạch Nhâm và Đốc.
Mười đầu ngón chân bấm xuống đất để tác động lên các đường kinh âm đi từ đầu các ngón chân.
Mắt nhìn thẳng, không quanh sang hai bên. Thư giãn. Vẩy tay đều đều.
Sau khi tập đầu óc nhẹ nhàng, lòng bàn tay hơi căng vì máu dồn về, bàn tay ấm nóng, chân tay ra mồ hôi, bụng đói…
Chú ý: Người bị đau gối, không đứng được, có thể ngồi ghế không tựa lưng, vẩy tay tình thường, chân vẫn bấm xuống đất, hiệu quả cũng rất tốt.
10.Các kiểu vẩy tay phổ biến:
Như chúng tôi tìm hiểu, thì hiện nay có một số kiểu vẩy tay, cơ bản đều là giúp lưu thông khí huyết, nâng cao sức khỏe, nhưng mỗi kiểu tập lại có một số điểm khác nhau tùy thuộc mục đích của ngưởi sáng tạo ra và đối tượng hướng tới.
1.Đạt ma Dịch cân kinh (gốc)
2.Đạt ma Dịch cân kinh (cải cách – xoay tay khi vẩy ra sau)
3.Phất thủ liệu pháp (tập khí là chính)
4.Dịch cân kinh 2 nhịp (Khí công y đạo)
5.Dịch cân kinh 4 nhịp (Khí công y đạo)
6.Vẩy tay Pingshuaigong (Phổ biến ở Đài Loan và Trung Quốc)
Tương truyền, kinh này xuất phát từ chùa Thiếu Lâm (Trung Quốc), là công phu do Đạt Ma sư tổ truyền dạy nhằm giúp chư tăng có đủ sức khỏe để tu tập giáo pháp. Dịch cân kinh giúp chuyển đổi gân cốt và cơ bắp từ suy nhược thành sung mãn.
Ngày nay, phép chữa bệnh theo Dịch cân kinh được gọi là phất thủ liệu pháp. Đây là phương pháp khí công chữa bệnh bằng cách lắc tay đơn giản, dễ nhớ, dễ tập và có hiệu quả cao đối với nhiều bệnh mạn tính khác nhau, từ suy nhược thần kinh, hen suyễn đến bệnh tiêu hóa, tim mạch, sinh dục…
Tìm nơi thoáng mát, không khí trong lành. Mặc quần áo rộng rãi. Đứng thẳng, hai chân dang ra song song ngang vai, các ngón chân bám chặt vào mặt đất, hậu môn nhíu lại, bụng dưới hơi thót, ngực hơi thu vào, vai xuôi tự nhiên, hai mắt khép hờ, đầu lưỡi chạm nướu răng trên, tâm ý hướng về Đan điền (dưới rốn khoảng 3 phân).
Hai cánh tay, bàn tay và các ngón tay duỗi thẳng tự nhiên. Hai cánh tay hơi cong ở khuỷu. Đưa hai cánh tay về phía trước, đồng thời hít vào. Dùng lực vẫy hai cánh tay ra phía sau đến hết tầm và thở ra. Khi hết tầm tay ra phía sau, hai cánh tay theo đà của lực quán tính trở về phía trước, đồng thời với hít vào. Sau đó lại tiếp tục vẫy tay ra phía sau. Một lần hít vào, một lần thở ra là một cái lắc tay. Làm liên tục nhiều cái. Tối thiểu 500 cái một lần tập. Mỗi ngày có thể tập hai lần. Nếu để chữa bệnh thì mỗi lần tập phải thực hành từ 1.500 cái trở lên.
Động tác lắc tay phải bền bỉ, đều đặn, nhẹ nhàng, linh hoạt. Không cần dùng sức mạnh để cố vẫy tay ra phía sau mà chỉ dùng sức bình thường, tương ứng với nhịp thở điều hòa của cơ thể. Việc nhíu hậu môn và bám các đầu ngón chân xuống đất cũng vậy. Chỉ cần dùng sức vừa phải nhằm bảo đảm tâm lý thoải mái và thể lực dẻo dai để có thể thực hành đến hàng ngàn cái mỗi lần tập.
Động tác đưa tay về trước là do phản lực quán tính từ phía sau tạo nên. Tuyệt đối không dùng sức. Tầm tay phía trước không vượt quá thắt lưng. Trong suốt quá trình lắc tay, mặc dù cánh tay di động trước sau, nhưng phải luôn duy trì tình trạng thoải mái tự nhiên, cánh tay không gồng sức.
Những người bệnh hoặc có tật ở chân không đứng được vẫn có thể thực hành hiệu quả phất thủ liệu pháp bằng cách ngồi trên đất hoặc trên ván, vẫy tay ở vị thế cánh tay co lại khoảng 90 độ.
Cơ chế tác động của phất thủ liệu pháp
Động tác hít thở phối hợp với lắc tay điều hòa và liên tục tác động vào các cơ ngực và thành bụng, nhất là cơ hoành, giúp xoa bóp các nội tạng, thúc đẩy sự vận hành khí huyết và tăng cường chức năng của các cơ quan. Nó cũng có tác dụng khai thông những bế tắc, ứ trệ trong kinh mạch hoặc tạng phủ. Những người tiêu hóa đình trệ sau khi thực hành khoảng 500-700 cái sẽ có trung tiện hoặc ợ hơi, có cảm giác dễ chịu rất rõ. Phất thủ liệu pháp là phương pháp đơn giản nhất để chữa bệnh đau dạ dày hoặc rối loạn tiêu hóa. Những trường hợp khí nghẽn, khí bế, khí uất do stress, bệnh tật hoặc do tập khí công sai lệch cũng có thể làm cho thông bằng phất thủ liệu pháp.
Theo quan điểm của y học truyền thống và khí công cổ đại, con người và vũ trụ có quan hệ giao hòa thông qua hô hấp. Hai nhà bác học người Pháp Jacqueline Chantereine và Camille Savoire cũng kết luận: “Lực vũ trụ nhập vào con người ở đầu và xuất ra nơi bàn chân phải, âm lực của quả đất nhập vào con người nơi chân trái để lên đến đỉnh đầu ở phía sau ót”. Những động tác của phất thủ liệu pháp tuy đơn giản nhưng đã trực tiếp phát huy quy luật này đối với việc chữa bệnh và tăng cường nội khí.
Ở phía trên, động tác hít thở và lắc tay kích hoạt huyệt Bách hội ở đỉnh đầu và Đại chùy ở giữa hai bả vai để thu thiên khí, khai thông và tăng cường hoạt động của các đường kinh dương. Bách hội và Đại chùy đều là những điểm giao hội của các đường kinh dương và mạch Đốc.
Ở phía dưới, việc nhíu hậu môn và bám các đầu ngón chân xuống mặt đất kích thích hai huyệt Trường cường và Hội âm ở hai bên hậu môn và tĩnh huyệt của các đường kinh âm. Quan trọng nhất là huyệt Dũng tuyền ở giữa lòng bàn chân và Ẩn bạch ở đầu ngoài móng ngón chân cái. Động tác này có tác dụng hấp thu địa khí, khai thông và tăng cường hoạt động của các âm kinh.
Theo học thuyết Kinh lạc, dương phải thường giáng và âm phải thường thăng. Vì lắc tay liên tục đến hàng ngàn cái nên khi các đường kinh dương được khai thông và đi dần xuống (Dương giáng) điểm cuối ở đầu ngón chân, chúng sẽ tự động kích hoạt những tĩnh huyệt của kinh âm, khiến các đường kinh này chạy ngược trở lên (âm thăng). Đối với các đường kinh âm cũng vậy, khi chạy đến điểm cuối ở phía trên, nó sẽ lại kích hoạt các đường kinh dương đi trở xuống và cứ thế tiếp tục luân chuyển tuần hoàn trong cơ thể. Đây chính là một biểu hiện của quy luật Cực dương sinh âm và Cực âm sinh dương.
Phất thủ liệu pháp có tác dụng cân bằng âm dương, thuận khí, giáng hư hỏa. Theo y học cổ truyền, khí dương thường thừa mà khí âm thường thiếu. Âm hư có thể do bẩm sinh, hay quá căng thẳng, lo âu trong cuộc sống. Sự mất cân bằng đó là đầu mối của nhiều bệnh tật mà Đông y gọi chung là chứng Âm hư Hỏa vượng (hay sốt về chiều, mờ mắt, mắt đỏ, khô cổ, ù tai, đau lưng, hay lở miệng, hay ho, suyễn, viêm họng, viêm xoang mạn). Phất thủ liệu pháp có thể chữa các chứng này bằng cách kích thích các đường kinh âm để sinh âm, bồi bổ âm khí. Chính tư thế của liệu pháp cũng bảo đảm nguyên tắc thượng hư hạ thực (như thư giãn phần vai, cứng chắc phần hạ bộ, nhíu hậu môn, bám các đầu ngón chân…) - biện pháp điều trị hữu hiệu với những chứng hư hỏa. Nguyên tắc này đòi hỏi người tập luôn giữ cho phần trên của cơ thể được thư giãn về hình, hư linh về ý. Ngược lại, phần dưới phải đầy đặn, cứng chắc nhằm đưa trung tâm lực của cơ thể dồn xuống.
Phất thủ liệu pháp cũng giúp điều hòa thần kinh giao cảm. Khoa học hiện đại cho biết trên 50% bệnh tật của con người là do những cảm xúc âm tính gây ra. Chính tâm lý căng thẳng do tình chí uất ức hoặc nhịp sống quá nhanh trong một thời gian dài dễ làm thần kinh quá tải, suy nhược và rối loạn. Sự rối loạn này làm cơ thể mệt nhọc, ăn ngủ kém ngon, giảm sức đề kháng, dễ sinh bệnh tật hoặc làm trầm trọng thêm những chứng bệnh đã có. Nếu tập trung tư tưởng vào nhịp lắc tay, người tập sẽ mất đi những cảm xúc khó chịu thường ngày. Đó là nguyên tắc dùng một niệm để chế vạn niệm.
Theo học thuyết Paplov, khi ta gây hưng phấn ở một điểm và một vùng nhỏ thì những phần còn lại của vỏ não sẽ rơi vào trạng thái ức chế, nghỉ ngơi. Áp dụng những nguyên tắc này, việc tập trung vào lắc tay sẽ điều hòa được thần kinh giao cảm, phục hồi tính tự điều chỉnh, tự hoàn thiện vốn có của hệ thần kinh trung ương.
Tập phất thủ liệu pháp có gây phản ứng nguy hiểm gì không?
Phất thủ liệu pháp có tác dụng kích thích, xúc tiến để cơ thể tự khai thông, tự chỉnh lý; nó không vận khí, không cưỡng cầu nên hiếm khi xảy ra sai lệch. Trong quá trình tập, người tập có thể đau, tức, ngứa ngáy, co giật do việc khai mở một số huyệt vị trên đường kinh hoặc công phá một tổ chức bệnh trước khi những chỗ bế tắc này bị thải trừ hết. Thông thường, những phản ứng trên sẽ tự chấm dứt sau một vài ngày.
Do không rơi vào nhập tĩnh nên khó xảy ra trường hợp người tập bị ảo giác làm rối loạn tâm lý. Phất thủ liệu pháp tác động kích thích đồng thời các huyệt bách hội, hội âm và trường cường. Do đó, bách hội và hội âm tạo ra những van an toàn để trung hòa với chân hỏa phát sinh từ trường cường, khó xảy ra trường hợp chênh lệch thái quá giữa âm và dương nên không gây nguy hiểm cho người tập.
Phất thủ liệu pháp tuân thủ nguyên tắc thượng hư hạ thực và tâm ý quán chiếu Đan điền, khiến năng lượng của cơ thể không chạy lên đầu gây tổn thương cho não, không xảy ra những chứng trạng mà người ta thường gọi là tẩu hỏa nhập ma.
Việc đầu lưỡi chạm nướu răng trên và nhíu hậu môn làm nối liền hai mạch Nhâm, Đốc, tạo ra sự thông nhau giữa hai bể khí âm và dương. Sự tương thông này giúp nội khí tuần hoàn trong thân người, điều hòa âm dương và sinh lực giữa lục phủ ngũ tạng.
(Theo Sức Khỏe & Đời Sống)
🍑💘🍎
Dịch Cân Kinh và những sự thật có thể gây thất vọng
Tương truyền, kinh này xuất phát từ chùa Thiếu Lâm (Trung Quốc), là công phu do Đạt Ma sư tổ truyền dạy, bí kíp Dịch cân kinh giúp nhiều nhân vật trong truyện kiếm hiệp của nhà văn Kim Dung thành danh, còn ở đời thực là môn điều hòa khí huyết.
Dịch cân kinh là tên gọi rút gọn của Dịch cân tẩy tủy kinh hay có nơi gọi là Đạt Ma dịch cân kinh, là một cuốn sách võ thuật dạy cách thổ nạp chân khí, nhằm cường thân kiện thể, trường sinh.
Dịch cân kinh là bí kíp quan trọng hàng đầu trong những tác phẩm kiếm hiệp của cố nhà văn Kim Dung như Thiên long bát bộ, Tiếu ngạo giang hồ, Lộc đỉnh ký. Nhắc đến Dịch cân kinh trong truyện Kim Dung, người ta nhớ đến chuyện Lệnh Hồ Xung (trong Tiếu ngạo giang hồ) bị trọng thương chờ chết mà vẫn hồi phục nhờ Dịch cân kinh. Du Thản Chi (Thiên long bát bộ) thì vô tình tập theo Dịch cân kinh mà từ nhân vật hạng bét trong võ lâm trở thành cao thủ. Kim Dung còn cho nhân vật dùng Dịch cân kinh đẩy kịch độc băng hàn ra khỏi cơ thể, tự chữa vết thương.
Trong phim kiếm hiệp Thiếu Lâm Tự được coi là cái nôi của võ học Trung Hoa.
Theo cố nhà Kim Dung, Dịch cân kinh là một loại “thần công” do Bồ Đề Đạt Ma sáng tạo ra với uy lực vô song.
Tương truyền, để sáng tạo ra bí kíp này, người sáng lập võ Thiếu Lâm phải mất 9 năm.
Có lần, Tuệ Khả đại sư (một đệ tử của Đạt Ma) đã nhặt được bí kíp này. Khi đọc, ông chỉ thấy những từ ngữ rất uyên thâm được viết bằng tiếng Phạn nhưng không tài nào hiểu nổi, chỉ biết rằng chắc chắn đây không phải một loại sách tầm thường.
Thế rồi, vị đại sư dắt theo cuốn kinh đi khắp giang hồ để tìm bậc cao nhân giải nghĩa. Nhưng ông đi suốt 20 năm dòng mà không thể có kết quả gì.
Cho đến một ngày ông gặp nhà sư Thiên Trúc pháp hiệu Ban Thích Mật Đế trụ trì núi Nga Mi.
Dịch cân kinh được coi là “Bí kíp báu vật” của Thiếu Lâm.
Hai người lấy bí kíp ra để cùng nghiên cứu. Rốt cục sau 19 ngày, cả hai đã cùng giải mật được hết cuốn bí kíp.
Dịch cân kinh được cho là tuyệt diệu ở chỗ bao quát tất cả kinh lạc của con người, liên hệ với tinh thần ngũ tạng. Khắp mà không tan, đi mà không dứt, khí ở trong sinh, huyết ở ngoài thân.
Luyện được rồi thì tâm động là nội lực tự phát như nước thủy triều dâng, giống như bơi thuyền trên sóng dữ, đợt sóng dâng lên hạ xuống thì thuyền lúc cao lúc thấp, không cần dùng sức.
Đây là môn luyện tập nội công chí tôn vô thượng, bởi lẽ nội công đã luyện thành thì có thể tùy tâm mà phát động.
Địch yếu hay mạnh thì ta đều dễ dàng biến đổi để giành phần hơn như con thuyền trên nước, sóng dâng thì thuyền dâng theo.
Tác giả Kim Dung mô tả rằng: “Với Dịch cân kinh, hàng trăm năm qua không phải bậc kì nhân thì không truyền thụ, mà dẫu kì nhân nhưng không gặp kì duyên thì cũng không truyền thụ.
Dù có là đệ tử xuất chúng của chính Thiếu Lâm mà không có phúc duyên thì cũng không thể truyền”.
Trong tác phẩm Thiên long bát bộ của ông, nhân vật Trang Tụ Hiền nhờ luyện Dịch cân kinh mà đẩy được kịch độc ra khỏi cơ thể rồi trở thành một cao thủ trong giới võ lâm. Còn nếu cưỡng cầu luyện có thể dẫn đến tẩu hỏa nhập ma như trường hợp của Cưu Ma Trí.
Cưu Ma Trí cưỡng cầu luyện luyện Dịch cân kinh dẫn đến tẩu hỏa nhập ma.
Sự thật khiến người yêu võ nản lòng
Qua truyền thuyết và các tác phẩm kiếm hiệp của cố nhà văn Kim Dung nhiều người tin rằng Dịch cân kinh và Tẩy tủy kinh (bí kíp giúp cải lão hoàn đồng). là do Bồ Đề Đạt Ma sáng tạo ra.
Những hình ảnh mô tả cách tập luyện Dịch cân kinh.
Trong khi đó, không ít ý kiến lại phản đối những học thuyết này bởi họ lý giải rằng, từ đời Đường trở về trước, chưa có tài liệu nào đủ tin cậy để chứng minh chuyện Đạt Ma truyền dạy võ công cho đệ tử.
Theo ghi chép trong Tống sử, có một cuốn Tồn tưởng pháp, một cuốn Thái tức quyết của Đạt Ma, một cuốn Đạt Ma huyết mạch luận của Huệ Khả, đều là những sách dạy về luyện khí, dưỡng thần.
Nhưng theo các nhà nghiên cứu, có khả năng những sách này là do người đời Tống tạo ra rồi gán tên cho Đạt Ma. Có một số học giả lại khẳng định bí kíp này thực chất được ra đời từ thời nhà Thanh.
Năm 1984, trong bài nghiên cứu “Võ thuật Thiếu Lâm thực chất không có liên quan gì đến Đạt Ma”, giáo sư Trương Truyền Tỉ của đại học Bắc Kinh đã bác bỏ thuyết Dịch cân kinh do Đạt Ma sáng tạo ra.
Dịch cân kinh, tác phẩm được coi là cội nguồn công phu Thiếu Lâm, thực chất là một cuốn sách rèn luyện công phu giúp lưu thông kinh mạch, cường gân tráng cốt của các chân nhân Đạo giáo.
Quan điểm này đã gây thất vọng lớn cho rất nhiều người vốn ngưỡng mộ công phu Thiếu Lâm, hoặc là những tín đồ của truyện kiếm hiệp.
Nhưng nhìn chung, Dịch cân kinh gắn với võ Thiếu Lâm vẫn là quan điểm phổ biến hơn bởi nó được coi là cơ sở để các cao tăng luyện tập 72 thứ tuyệt kỹ, khiến môn phái này trở thành võ lâm Bắc Đẩu.
Cách đây không lâu, dư luận lại tiếp tục dấy lên tranh cãi khi tìm thấy ở Tứ Xuyên một cuốn Dịch cân tẩy tủy kinh bản khắc in, trên có chữ “Nam Tống Thiếu bảo Nhạc Bằng phụng giám định bản nha tàng”.
Việc cuốn sách được khắc in cho thấy tính chính thống và tin cậy của tư liệu trên sách.
Nếu đây là đúng, thì thuyết Dịch cân kinh đã có từ đời Tống là hoàn toàn có cơ sở, cũng có nghĩa rằng, bí kíp Dịch cân kinh là hoàn toàn có thật chứ không chỉ là huyền thoại.
Sau khi đối chiếu các nguồn khác nhau, người ta đã tổng hợp được hệ thống nội công của Dịch cân kinh: Bộ này gồm 24 thức được chia ra làm 2 phần Dịch Cân và Tẩy Tủy:
12 thức Tiền bộ (Dịch Cân Kinh): là những bí quyết nhập môn, mục đích luyện là để khí và lực luôn đi đôi với nhau, làm cho tinh thần sung túc, người luyện như được hoán gân chuyển cốt vậy.
12 thức Hậu bộ (Tẩy Tủy Kinh): là những thế luyện dẫn dắt học giả đến với cảnh giới của nội công thượng thừa, tùy ý mà dẫn khí tới mọi nơi trong cơ thể mà cũng được vô bệnh, trường thọ.
Dịch cân kinh thiên về luyện khí chứ không phải các bài tập thực chiến.
Như vậy Dịch cân kinh có khả năng cực lớn chỉ là những bí quyết để luyện tập thân thể tráng kiện, thể lực dồi dào, trí lực minh mẫn, giúp tăng cường tuổi thọ.
Bí kíp này hoàn toàn không thiên về khả năng chiến đấu và khó có thể khiến người tập trở thành võ lâm cao thủ.
Ngày nay, phép chữa bệnh theo Dịch cân kinh được gọi là phất thủ liệu pháp. Đây là phương pháp khí công chữa bệnh bằng cách lắc tay đơn giản, dễ nhớ, dễ tập và có hiệu quả cao đối với nhiều bệnh mạn tính khác nhau, từ suy nhược thần kinh, hen suyễn đến bệnh tiêu hóa, tim mạch, sinh dục…
Quốc Tiệp (Võ Thuật)
Ý kiến bạn đọc
Vui lòng login để gởi ý kiến. Nếu chưa có account, xin ghi danh.