Oct 21, 2024

Thơ dịch

Tùng Cương dịch Yevgeny Onegin, A. Puskin Chương VIII
Tùng Cương * đăng lúc 09:51:25 PM, Oct 20, 2024 * Số lần xem: 75
Hình ảnh
#1
#2
#3
#4
#5
#6
#7

 

 

 
Tùng Cương dịch

                      Yevgeny Onegin, A. Puskin

    Evghênhi Ônhêghin, A. Puskin  Chương  I  🍁
               
 
Yevgeny Onegin - Aleksandr Pushkin - Chương II  💛 

Yevgeny Onegin - Aleksandr Pushkin - Chương III  🌹

    Yevgeny Onegin, A. Puskin  Chương  IV  🌼 -

 
Yevgeny Onegin, A. Puskin  Chương V  🌷    

Yevgeny Onegin, A. Puskin  Chương VI 🌱  

Yevgeny Onegin, A. Puskin Chương VII  💖                  


                                 ❤ 🌹 ❤

 

                                  Chương  VIII  🍂  

 

CHƯƠNG TÁM

ГЛАВА ВОСЬМАЯ

 

Fare thee well, and if for ever 
Still for ever fare thee well. 

Byron.[* 1]

 

I.

В те дни, когда в садах Лицея
Я безмятежно расцветал,
Читал охотно Апулея,
А Цицерона не читал,
В те дни, в таинственных долинах,
Весной, при кликах лебединых,
Близ вод, сиявших в тишине,
Являться Муза стала мне.
Моя студенческая келья
Вдруг озарилась: Муза в ней
Открыла пир младых затей,
Воспела детские веселья,
И славу нашей старины,
И сердца трепетные сны.

 

Xin chào, nếu là mãi mãi, xin chào vĩnh biệt.

Bairơn

I.

Những ngày ấy, dưới mái trường Lísêy ấm cúng 

Tôi đã trưởng thành bình yên, vô lo lắng,

Tôi say mê tìm đọc sách Apulêy,

Mà không hề đọc tới Shiserôn,

Cũng ngày ấy, trên cánh đồng huyền bí,

Mùa xuân đến, tiếng thiên nga ầm ỹ 

Trên mặt hồ bừng sáng, quá bình yên,

Nàng Thơ tìm về thăm hỏi tôi luôn.

Phòng ở của tôi thời học sinh lưu trú 

Bỗng rực sáng chan hòa. Ở nơi đó 

Nàng mở đầu bao dự định, vui thú trẻ trung,

Đã ngợi ca bao trò nghịch của trẻ con,

Và ca tụng niềm vinh quang thuở trước,

Những giấc mộng xốn xang trong con tim nao nức. 



II.

И свет ее с улыбкой встретил;
Успех нас первый окрылил;
Старик Державин нас заметил
И, в гроб сходя, благословил.
..............
..............
..............
..............
..............
..............
..............
..............
..............
..............

 

II.

Cuộc đời đón Nàng Thơ với nụ cười tươi tắn;

Đã chắp cánh cho ta nhờ lần đầu chiến thắng;

Ông già Đergiavin đã nhận ra ta

Cả khi ông xuống mồ, vẫn có lời ngợi ca.

..............
..............
..............
..............
..............
..............
..............
..............
..............
..............

III.

И я, в закон себе вменяя
Страстей единый произвол,
С толпою чувства разделяя,
Я Музу резвую привел
На шум пиров и буйных споров,
Грозы полуночных дозоров;
И к ним в безумные пиры
Она несла свои дары
И как Вакханочка резвилась,
За чашей пела для гостей,
И молодежь минувших дней
За нею буйно волочилась —
А я гордился меж друзей
Подругой ветреной моей.

 

III.

Và tôi ép mình phải theo lề luật 

Quản cho chặt say mê tự do nhất,

Phải sẻ chia tình cảm với đám đông,

Tôi dẫn Nàng Thơ sôi động, tinh thông

Đến dự tiệc vui long trời, luận tranh ngậu ngã,

Các cuộc kiểm tra giữa đêm đầy dông bão ;

Và khi thăm các đám tiệc điên khùng,

Nàng Thơ đem theo quà tặng của mình

Và như thần rượu Vakhanôchka càng sôi sục

Bên chén rượu, hát cho khách nghe thưởng thức,

Và đám người trẻ của những ngày qua

Bám theo Nàng Thơ lăn lộn, bôn ba-

Còn tôi tự hào giữa biết bao bè bạn

Có bạn gái của mình luôn nhẹ dạ.


IV.

Но я отстал от их союза
И вдаль бежал… она за мной.
Как часто ласковая Муза
Мне услаждала путь немой
Волшебством тайного рассказа!
Как часто, по скалам Кавказа,
Она Ленорой, при луне,
Со мной скакала на коне!
Как часто по брегам Тавриды
Она меня во мгле ночной
Водила слушать шум морской,
Немолчный шепот Нереиды,
Глубокий, вечный хор валов,
Хвалебный гимн отцу миров.

 

IV.

Nhưng tôi nhỡ chân, bị hội đoàn bỏ lại

Và tôi chạy phía xa… Nàng Thơ theo tôi mãi.

Thông thường thì Nàng Thơ vốn dịu dàng 

Lặng lẽ làm cho đường tôi đi nhẹ nhàng

Bằng câu chuyện có phép thần bí mật!

Như thường thấy trên các nẻo đường Kavkaz,

Nàng là thần Lenora, dưới ánh trăng,

Đã cùng tôi trên lưng ngựa phóng nhanh!

Còn hay gặp trên bờ  Tavriđa khi thăm viếng

Trong bóng tối đêm đen Nàng đưa tôi đến 

Nghe ào ào sóng biển vỗ bờ xa,

Tiếng thì thầm không ngừng của Nherêyđa,

Góp tiếng hát lắng sâu, muôn đời đầu sóng nổi

Cùng ca tụng Người trị vì thế giới. 


V.

И, позабыв столицы дальной
И блеск и шумные пиры,
В глуши Молдавии печальной
Она смиренные шатры
Племен бродящих посещала,
И между ими одичала,
И позабыла речь богов
Для скудных, странных языков,
Для песен степи ей любезной…
Вдруг изменилось всё кругом:
И вот она в саду моем
Явилась барышней уездной,
С печальной думою в очах,
С французской книжкою в руках.

 

V.

Khi quên hết hào quang, tiệc vui ồn ã

Của chính thủ đô nay thành xa xôi quá

Giữa hoang vu Môlđavia khá buồn phiền 

Nàng Thơ thăm các lều trại bình yên

Nhiều bộ lạc du mục đành nay đây mai đó 

Sống trong lều, Nàng Thơ thành người hoang dã,

Quên mất luôn ngôn ngữ của thánh thần

Dành cho bao thứ tiếng xa lạ, nghèo nàn,

Với cả những bài ca mà Nàng yêu tha thiết…

Chợt mọi việc chung quanh thay đổi hết:

Và giờ đây, Nàng có mặt trong vườn tôi 

Đến trong vai quý cô tỉnh lẻ, quê mùa thôi,

Với suy nghĩ buồn rầu nơi ánh mắt,

         Trong tay vẫn cầm sách in tiếng Pháp.

VI.

И ныне Музу я впервые
На светский раут[1] привожу;
На прелести ее степные
С ревнивой робостью гляжу.
Сквозь тесный ряд аристократов,
Военных франтов, дипломатов,
И гордых дам она скользит;
Вот села тихо и глядит,
Любуясь шумной теснотою,
Мельканьем платьев и речей,
Явленьем медленным гостей
Перед хозяйкой молодою,
И темной рамою мужчин
Вкруг дам как около картин.

 

VI.

Và giờ đây, lần đầu tiên tôi dẫn

Nàng Thơ đến giới thượng lưu gặp gỡ;

Với những điều kỳ diệu từ xứ thảo nguyên 

Lòng ngại ngùng phát ghen tức, tôi đứng nhìn.

Xuyên qua đám đông nhiều nhà quý tộc,

Quân nhân bảnh bao, nhà ngoại giao bặt thiệp,

Nàng Thơ đi qua các quý bà thật kiêu kỳ,

Rồi ngồi im một chỗ lặng lẽ nhìn,

Khi quan sát cảnh ồn ào, chật chội,

Thấp thoáng dáng phục trang và lời nói

Cứ dần dần khách khứa dẫn tới đây 

Trước nữ nhân chủ nhà đẹp, trẻ thay,

Bộ khung sẫm màu ghép lại bằng đàn ông cả

Quanh các quý bà như đứng bên bức họa.


VII.

Ей нравится порядок стройный
Олигархических бесед,
И холод гордости спокойной,
И эта смесь чинов и лет.
Но это кто в толпе избранной
Стоит безмолвный и туманный?
Для всех он кажется чужим.
Мелькают лица перед ним,
Как ряд докучных привидений.
Что, сплин иль страждущая спесь
В его лице? Зачем он здесь?
Кто он таков? Ужель Евгений?
Ужели он?.. Так, точно он.
— Давно ли к нам он занесен?

 

VII.

Nàng thấy thích nếp phong lưu, quý phái,

Cuộc trò chuyện tốp siêu giầu cầm lái

Sự lạnh lùng đầy kiêu hãnh, bình yên,

Là trộn pha tuổi tác với chức quyền.

Nhưng ai đấy nhỉ, trong khách mời nhà chọn được,

Đang im lặng, như đứng trong sương đặc?

Ai cũng cho chàng là khách lạ xa.

Những mặt người thấp thoáng trước chàng lướt qua,

Như cả loạt ảo ảnh quỷ ma buồn chán 

Như vẻ chán chường hay kiêu kiêu, thù oán

Lộ hết trên mặt chàng? Chàng đến làm gì?

Chàng là ai? Chả lẽ là Ônhêghin?

Không có lẽ là chàng? …Thì đúng đấy.

- Chàng đã được mời đến nhà lâu chưa vậy?

VIII.

Всё тот же он, иль усмирился?
Иль корчит так же чудака?
Скажите, чем он возвратился?
Что нам представит он пока?
Чем ныне явится? Мельмотом,
Космополитом, патриотом,
Гарольдом, квакером, ханжой,
Иль маской щегольнет иной,
Иль просто будет добрый малой,
Как вы да я, как целый свет?
По крайне мере мой совет:
Отстать от моды обветшалой.
Довольно он морочил свет…
— Знаком он вам? — И да и нет.

 

VIII.

Chàng vẫn thế hay hiền lành hơn trước?

Hay vẫn tỏ ra ngông cuồng hết mức?

Xin cho hay, chàng trở lại thế nào?

Chàng trình làng kiểu gì vào lúc này?

Làm gì nhỉ? Là Menmốt hay lãng du khắp chốn,

Theo thuyết vũ trụ luận, hay nhà ái quốc lớn,

Là Garald, đạo đức giả, hay tín đồ Tin lành,

Hay chỉ khoe mặt nạ khác trên mình 

Hay đơn giản chàng tí hon tốt bụng,

Hay giống các vị và tôi, toàn dân chúng?

Ít nhất, xin nghe lời khuyên nhủ của tôi:

Hãy tránh xa thứ mốt đã lỗi thời.

Chàng đã phỉnh phờ cuộc đời này đủ quá…

-Các vị có quen chàng? - Vừa không, vừa có cả.


IX.

— Зачем же так неблагосклонно
Вы отзываетесь о нем?
За то ль, что мы неугомонно
Хлопочем, судим обо всем,
Что пылких душ неосторожность
Самолюбивую ничтожность
Иль оскорбляет иль смешит,
Что ум, любя простор, теснит,
Что слишком часто разговоры
Принять мы рады за дела,
Что глупость ветрена и зла,
Что важным людям важны вздоры,
И что посредственность одна
Нам по плечу и не странна?

 

IX.

-Sao các vị tỏ ra không thân thiện,

Khi đánh giá chàng, đưa ra ý kiến?

Liệu có do chúng tôi nói hơi nhiều 

Luôn bận tâm, nhận xét về mọi điều,

Rằng người nhiệt huyết đều không cẩn trọng,

Tính tự ái đâu phải cần xem nặng

Bị đem ra sỉ nhục hay đùa cợt là thường 

Rằng người yêu tự do thấy tù túng trong lồng,

Rằng nhiều chuyện chỉ là nói suông, đường mật,

Vậy mà thấy sướng rơn coi là việc thật,

Rằng điều ngu ngốc thường nhẹ dạ, nhẫn tâm,

Người chức quyền chỉ để ý điều nhảm nhí hơn,

Rằng những thứ tầm tầm, luôn xoàng xĩnh,

Ta lại hợp, không xem là lạ lẫm?


X.

Блажен, кто с молоду был молод,
Блажен, кто во-время созрел,
Кто постепенно жизни холод
С летами вытерпеть умел;
Кто странным снам не предавался,
Кто черни светской не чуждался,
Кто в двадцать лет был франт иль хват,
А в тридцать выгодно женат;
Кто в пятьдесят освободился
От частных и других долгов,
Кто славы, денег и чинов
Спокойно в очередь добился,
О ком твердили целый век:
N. N. прекрасный человек.

 

X.

Hạnh phúc thay ai trẻ ngay từ trẻ,

Thật may mắn ai trưởng thành không trễ,

Trước cuộc đời lạnh lẽo, thờ ơ;

Ai bền gan chịu đựng với tháng năm qua,

Ai không hiến hết cho mộng mơ huyễn hoặc,

Ai hiểu rõ trên đời đầy đen bạc,

Tuổi hai mươi biết trưng diện cộng khôn ranh,

Tuổi ba mươi biết chọn vợ theo tính toán riêng;

Năm mươi tuổi biết càng nhanh giải thoát 

Mọi khoản nợ riêng và nhiều nợ khác,

Ai đạt vinh quang, tiền bạc, chức quan

Cứ bình yên, tuần tự, quen xếp hàng,

Ai suốt cả đời được người khen nức nở:

N.N. chính là người càng tài giỏi.


XI.

Но грустно думать, что напрасно
Была нам молодость дана,
Что изменяли ей всечасно,
Что обманула нас она;
Что наши лучшие желанья,
Что наши свежие мечтанья
Истлели быстрой чередой,
Как листья осенью гнилой.
Несносно видеть пред собою
Одних обедов длинный ряд,
Глядеть на жизнь как на обряд,
И вслед за чинною толпою
Идти, не разделяя с ней
Ни общих мнений, ни страстей.

 

XI.

Nhưng buồn thật, nghĩ rằng sao phí hại 

Tuổi trẻ được ban cho ta mãi mãi,

Rằng tuổi xanh bị phản bội suốt đời,

Rằng tuổi trẻ thường dối lừa con người;

Rằng khát vọng đẩu đời cao đẹp nhất,

Rằng mơ ước của ta  trẻ trung thật,

Đều lụi tàn theo vết trượt quá nhanh,

Như lá rơi mùa thu sớm rữa tan.

Chịu sao nổi khi ta càng chứng kiến 

Đời là loạt bữa tiệc dài không hết,

Nhìn vào đời chỉ thấy tất lễ nghi,

Toàn chạy theo đám người mơ khanh tướng chi chi,

Ta đi miết, không sẻ chia cùng ai cả 

Những ý kiến chung, những say mê rực lửa.


 

XII.

Предметом став суждений шумных,
Несносно (согласитесь в том)
Между людей благоразумных
Прослыть притворным чудаком,
Или печальным сумасбродом,
Иль сатаническим уродом,
Иль даже Демоном моим.
Онегин (вновь займуся им),
Убив на поединке друга,
Дожив без цели, без трудов
До двадцати шести годов,
Томясь в бездействии досуга
Без службы, без жены, без дел,
Ничем заняться не умел.

 

XII.

Chịu sao nổi (bạn tán đồng cùng tôi nhỉ)

Khi ta bị lôi ra luận bàn ầm ỹ,

Giữa những người chín chắn, khôn ngoan 

Tiếng giả vờ kỳ quặc - ta phải mang,

Hay là kẻ khùng điên luôn buồn chán,

Hay quái vật Sa tăng luôn phá đám,

Thậm chí hay là Đêmôn của tôi 

Ônhêghin (tôi lại nói tới chàng thôi),

Vì đấu súng đã giết đi người bạn,

Chàng sống nốt, không mục tiêu, không làm lụng,

Trước hai mươi sáu tuổi lận cuộc đời,

Chỉ bận lo nhảy nhót rồi vui chơi,

Không phục vụ, chẳng vợ con, không bận bịu,

Không làm nổi một việc nên hồn thật sự.


XIII.

Им овладело беспокойство,
Охота к перемене мест
(Весьма мучительное свойство,
Немногих добровольный крест).
Оставил он свое селенье,
Лесов и нив уединенье,
Где окровавленная тень
Ему являлась каждый день,
И начал странствия без цели,
Доступный чувству одному;
И путешествия ему,
Как всё на свете, надоели;
Он возвратился и попал,
Как Чацкий, с корабля на бал.

 

XIII.

Chàng cứ thấy trong lòng không yên ả

Thú xê dịch, luôn đổi thay chỗ ở 

(Cái tính này gây đau khổ rất dài,

Có vài người tự nguyện mang thập tự trên vai).

Chàng bỏ lại đằng sau làng quê từng sống,

Những đồng lúa, cánh rừng trải dài rộng,

Nơi còn lưu dấu máu đậm hôm xưa,

Vẫn hiện trong tâm trí từng phút từng giờ,

Chàng đã bắt đầu đi đó đây không mục đích,

Làm việc ấy chỉ có tình cảm là hiểu hết,

Và mọi lần đi thăm đó thăm đây,

Như mọi điều trên đời rồi có lúc chán ngay;

Chàng trở về, và bước chân vào đời lại,

Hệt Trasky xuống tầu là tiến vào vũ hội.


XIV.

Но вот толпа заколебалась,
По зале шепот пробежал…
К хозяйке дама приближалась,
За нею важный генерал.
Она была нетороплива,
Не холодна, не говорлива,
Без взора наглого для всех,
Без притязаний на успех,
Без этих маленьких ужимок,
Без подражательных затей…
Всё тихо, просто было в ней,
Она казалась верный снимок
Du comme il faut… [* 2] (Шишков, прости:
Не знаю, как перевести.)

 

XIV.

Nhưng đám khách chợt bắt đầu di chuyển,

Nghe vang khắp phòng tiếng thầm thì trò chuyện …

Đến gần bà chủ nhà, một mệnh phụ đang đi,

Theo sau nàng là ông tướng uy nghi,

Trông nàng bước từ từ, không vội vã,

Vẻ mặt chẳng nhiều lời, không lạnh giá,

Không ánh nhìn trơ trẽn trước mọi người,

Không kiếm tìm thắng lợi, thành công hoài,

Không động tác, hay nét nhìn ngúng nguẩy,

Không muốn bắt chước theo ai đưa đẩy…

Nàng toát lên vẻ bình thản, giản đơn,

Có lẽ nàng là bức vẽ chính xác luôn 

Du  comme ít faut… (Thưa Siskôp, xin tha lỗi:

Tôi chưa biết cách làm sao dịch nồi.)

 

13. Du comme il faut…


XV.

К ней дамы подвигались ближе;
Старушки улыбались ей;
Мужчины кланялися ниже,
Ловили взор ее очей;
Девицы проходили тише
Пред ней по зале: и всех выше
И нос и плечи подымал
Вошедший с нею генерал.
Никто б не мог ее прекрасной
Назвать; но с головы до ног
Никто бы в ней найти не мог
Того, что модой самовластной
В высоком лондонском кругу
Зовется vulgar. [* 3](Не могу…

 

XV.

Thấy nhiều quý bà lại gần nàng hơn nữa;

Các bà lão mỉm cười chào niềm nở;

Cánh đàn ông cúi mình xuống thấp hơn,

Mong cố tìm bắt ánh mắt nàng mỹ nhân;

Các thiếu nữ đi qua luôn im lặng,

Đi trước nàng trong phòng: Ai cũng ngắm,

Là mũi và đôi vai dướn vượt hẳn lên 

Của người đi cùng là vị tướng quân.

Không ai có thể đẹp hơn nàng được;

Nhưng nhìn kĩ từ đầu tới chân đang bước,

Không có ai phát hiện được luôn,

Có cái gì trong nàng gọi là mốt độc tôn,

Ngay trong giới ăn chơi ở London sành điệu

Gọi là vulgar (Tôi mong dịch ra, mà chịu…


XVI.

Люблю я очень это слово,
Но не могу перевести;
Оно у нас покамест ново,
И вряд ли быть ему в чести.
Оно б годилось в эпиграмме…)
Но обращаюсь к нашей даме.
Беспечной прелестью мила,
Она сидела у стола
С блестящей Ниной Воронскою,
Сей Клеопатрою Невы;
И верно б согласились вы,
Что Нина мраморной красою
Затмить соседку не могла,
Хоть ослепительна была.

 

XVI.

Tôi quả thật rất là yêu từ đó,

Nhưng không thể dịch trơn tru nghĩa có

Hiện từ này còn mới ở nước ta,

Đã chắc gì được tất cả coi trọng mà.

Rất có thể dùng cho thơ đùa vui thì tốt…)

Nhưng xin nói với quý bà của ta nốt.

Nàng thật xinh, vẻ quyến rũ yêu đời,

Nàng ngồi kia bên bàn dáng thảnh thơi,

Cùng Nhina Varônskaia rạng ngời rực rỡ

Một Kleopatra trên dòng Nhêva tuyệt mỹ 

Và chắc là quý vị đồng ý rằng,

Nhina đẹp như đá cẩm thạch tạc thành,

Vẫn không thể lấn át nàng mỹ nhân bên cạnh,

Dù sắc đẹp Nhina rõ là lấp lánh.

XVII.

«Ужели, — думает Евгений, —
Ужель она? Но точно… Нет…
Как! из глуши степных селений…»
И неотвязчивый лорнет
Он обращает поминутно
На ту, чей вид напомнил смутно
Ему забытые черты.
«Скажи мне, князь, не знаешь ты,
Кто там в малиновом берете
С послом испанским говорит?»
Князь на Онегина глядит.
— Ага! давно ж ты не был в свете.
Постой, тебя представлю я. —
«Да кто ж она?» — Жена моя. —


XVII.

“Chả có lẽ,-Evghênhi nghĩ mãi,-

Không có nhẽ là nàng? Nhưng đúng rồi… không phải..

Lạ sao! Từ làng quê ở mãi thảo nguyên…”

Cầm ống nhòm, nhìn dán mắt trân trân,

Chàng theo dõi từng giây, từng phút,

Về phía quý bà có vẻ gợi lên quá ít

Những nét mờ đã quên mất từ xưa

“Bá tước ơi, vậy anh có biết chưa,

Ai đang đội mũ berê màu huyết dụ

Đang tiếp chuyện đại sứ Tây Ban Nha kia chứ?”

Bá tước đưa mắt nhìn Ônhêghin.

-Á à! Anh đã lâu không đến giới thượng lưu.

Đợi chút nhé, Tôi đưa anh đi giới thiệu vậy,-

“Ai thế nhỉ?” -Nàng là nhà tôi đấy.-

 

XVIII.

«Так ты женат! не знал я ране!
Давно ли?» — Около двух лет. —
«На ком?» — На Лариной. — «Татьяне!»
— Ты ей знаком? — «Я им сосед».
— О, так пойдем же. — Князь подходит
К своей жене и ей подводит
Родню и друга своего.
Княгиня смотрит на него…
И что ей душу ни смутило,
Как сильно ни была она
Удивлена, поражена,
Но ей ничто не изменило:
В ней сохранился тот же тон,
Был также тих ее поклон.


XVIII.

“Anh lấy vợ rồi sao! Tôi nào biết!

Lâu chưa nhỉ? “ -Chừng hai năm là ít .-

“-Lấy ai? “ -Con gái nhà Larina. -“Tachiana à!”

-Anh có quen nàng chứ? -“Tôi vốn láng giềng mà.”

-Ồ vậy thế, ta lại gần chỗ nàng nhé.

Bá tước bước về phía nàng, luôn thể 

Dẫn người vừa có họ, vừa là bạn thân tình 

Bá tước phu nhân đưa mắt nhìn chàng…

Và hiểu rõ mình như gà đang mắc tóc,

Dù nàng thấy ngạc nhiên hết mức,

Một cảm xúc đến gây sốc trong lòng,

Nhưng nàng còn nguyên nét mặt bình thường:

Giọng nàng vẫn y chang không ngoại lệ,

Nàng chào khách thật kiệm lời, lặng lẽ.

XIX.

Ей-ей! не то, чтоб содрогнулась,
Иль стала вдруг бледна, красна…
У ней и бровь не шевельнулась;
Не сжала даже губ она.
Хоть он глядел нельзя прилежней,
Но и следов Татьяны прежней
Не мог Онегин обрести.
С ней речь хотел он завести
И — и не мог. Она спросила,
Давно ль он здесь, откуда он
И не из их ли уж сторон?
Потом к супругу обратила
Усталый взгляд; скользнула вон…
И недвижим остался он.

 

XIX.

Quả đúng thế, không hẳn nàng run rẩy,

Hay chợt thấy tái đi, da hổng lên vậy ,

Nét lông mày không động đậy, giữ nguyên,

Không phải cần mím chặt hai môi yên,

Dù chàng vẫn không thể dịu dàng hơn được nữa,

Nhưng dấu tích của Tachiana ngày xưa cũ

Chàng không tài nào thấy lại được rồi.

Chàng muốn trao đổi với nàng đôi nhời 

Mà không thể. Nàng cất lời để hỏi,

Chàng đã đến lâu chưa? Từ đâu tới,

Có phải từ quê họ mới ra không?

Sau đó nàng đưa mắt nhìn chồng 

Đầy mệt mỏi, mắt nàng nhìn nhanh lướt…

Ông bất động y nguyên như lúc trước.

 

XX.

Ужель та самая Татьяна,
Которой он наедине,
В начале нашего романа,
В глухой, далекой стороне,
В благом пылу нравоученья
Читал когда-то наставленья,
Та, от которой он хранит
Письмо, где сердце говорит,
Где всё наруже, всё на воле,
Та девочка… иль это сон?..
Та девочка, которой он
Пренебрегал в смиренной доле,
Ужели с ним сейчас была
Так равнодушна, так смела?

XX.

Không có lẽ, đây là Tachiana xưa nhỉ,

Người chàng gặp trong khu vườn vắng vẻ

Ngay ở đầu tiểu thuyết của ta thôi,

Một miền quê hẻo lánh xa xôi,

Mà lúc ấy, chàng liên hồi thuyết giáo,

Nào khuyên nhủ, dặn dò, rồi chỉ bảo 

Là cô nàng, ở nhà chàng thấy vẫn lưu 

Lá thư xưa ghi tiếng nói con tim,

Khi mọi thứ hiện ra tự nhiên, đầy đủ 

Cô gái ấy… hay mình đang mơ ngủ?..

Chính cô nàng ở ngày ấy mà chàng 

Đã coi thường nơi hẻo lánh yên bình,

Không có lẽ giờ đây thành cô đó,

Chàng ở cạnh, nàng thờ ơ, mạnh bạo quá?

XXI.

Он оставляет раут тесный,
Домой задумчив едет он;
Мечтой то грустной, то прелестной
Его встревожен поздний сон.
Проснулся он; ему приносят
Письмо: князь N. покорно просит
Его на вечер. «Боже! к ней!..
О, буду, буду!» и скорей
Марает он ответ учтивый.
Что с ним? в каком он странном сне!
Что шевельнулось в глубине
Души холодной и ленивой?
Досада? суетность? иль вновь
Забота юности — любовь?

 

XXI.

Chàng rút khỏi buổi gặp đang đông kín,

Trên đường về, chàng chìm trong suy tính;

Ngủ muộn luôn lo lắng, không yên

Chàng nằm mơ, lúc vui vẻ, khi buồn phiền.

Chàng tỉnh dậy, biết có người đem thư đến 

Trong thư viết: Bá tước N. mời tha thiết 

Chàng đến đêm hội. “Trời hỡi! muốn gặp nàng!..

Ôi, sẽ đi, nhất định chứ!” và vội vàng 

Chàng tẩy, sửa thư trả lời càng lịch thiệp.

Chàng sao vậy? Đang mơ kì lạ thiệt!

Có cái gì lay động tận tâm can

Trong tâm hồn lười nhác đang lạnh băng?

Có bực giận? Vội vàng ? Hay giờ lại

Tuổi trẻ chỉ quan tâm - chuyện tình yêu vẫy gọi?


XXII.

Онегин вновь часы считает,
Вновь не дождется дню конца.
Но десять бьет; он выезжает,
Он полетел, он у крыльца,
Он с трепетом к княгине входит;
Татьяну он одну находит,
И вместе несколько минут
Они сидят. Слова нейдут
Из уст Онегина. Угрюмый,
Неловкий, он едва, едва
Ей отвечает. Голова
Его полна упрямой думой.
Упрямо смотрит он: она
Сидит покойна и вольна.

 

XXII.

Ônhêghin lại chăm chăm căn giờ giấc,

Lại hối hả, không đợi ngày kết thúc,

Nhưng mười giờ, chàng giục xe lên đường,

Xe như bay, chàng đến cửa nhà nàng,

Chàng thấp thỏm vào tìm nữ bá tước;

Chỉ thấy độc Tachiana trong phòng trước,

Cả hai người có ít phút được bên nhau 

Họ cùng ngồi, Ônhêghin chịu không tài nào 

Mở được miệng. Trông Ônhêghin càu cạu 

Vẻ lúng túng, trả lời như cắm cảu

Câu được câu không. Ẩn trong đầu chàng

Ngồn ngang bao ý nghĩ ngang tàng.

Chàng đưa mắt nhìn giờ càng ương ngạnh:

Nàng vẫn thản nhiên, tự tin, nhìn lành lạnh.


XXIII.

Приходит муж. Он прерывает
Сей неприятный tête-à-tête;
С Онегиным он вспоминает
Проказы, шутки прежних лет.
Они смеются. Входят гости.
Вот крупной солью светской злости
Стал оживляться разговор;
Перед хозяйкой легкий вздор
Мелькал без глупого жеманства,
И прерывал его меж тем
Разумный толк без пошлых тем,
Без вечных истин, без педанства,
И не пугал ничьих ушей
Свободной живостью своей.

 

XXIII.

Ông chồng đến. Làm dở dang câu chuyện,

Chẳng thú  vị cuộc đổi trao trực diện; 

Ông cùng Ônhêghin ngồi nhớ lại chuyện xưa 

Những trò tinh nghịch, lời đùa cợt vu vơ,

Cùng cười cả. Rồi có thêm khách mới.

Nhờ tin nóng bỏng giới thượng lưu quan tâm tới 
Chuyện diễn ra mỗi lúc mỗi nổi sôi hơn;

Trước chủ nhà, kể chuyện bông lơn 

Chỉ loáng thoáng không tỏ ra làm điệu,

Khi cần thiết, biết kịp thời dừng chuyện,

Khéo đổi đề tài, không chuyển vị  nhạt phèo,

Không nêu chân lý vĩnh cửu , không cố chấp nhiều,

Không động chạm, chẳng làm người nghịch nhĩ

Bằng sự sống động tự nhiên như vốn dĩ.

XXIV.

Тут был однако цвет столицы,
И знать и моды образцы,
Везде встречаемые лицы,
Необходимые глупцы;
Тут были дамы пожилые
В чепцах и розах, с виду злые;
Тут было несколько девиц,
Не улыбающихся лиц;
Тут был посланник, говоривший
О государственных делах;
Тут был в душистых сединах
Старик, по-старому шутивший:
Отменно тонко и умно,
Что нынче несколько смешно.

 

XXIV.

Nhưng có mặt giới tinh hoa thủ đô cả nước,

Có thể thấy các mẫu thời trang mốt trước 

Có lắm người mặt quen nhẵn mọi nơi,

Những kẻ ngu si cần phải có trên đời;

Có những quý bà sồn sồn đứng tuổi 

Đầu đội mũ, cài hoa, nhìn mặt mà thấy chối;

Các bóng hổng trông thấy có dăm cô,

Trên mặt không cười nụ điểm tô;

Viên công sứ hễ mỗi khi phải nói

Chỉ toàn chuyện quốc gia đang nóng hổi;

Ở đây đầu tóc bạc xức nước hoa 

Nhân vật già, chỉ đùa đúng kiểu già:

Dứt khoát phải thông minh và ý nhị,

Thời nay thấy chuyện này buồn cười một tí.

 

 

 

Ý kiến bạn đọc

Vui lòng login để gởi ý kiến. Nếu chưa có account, xin ghi danh.