Oct 21, 2024

Thơ dịch

Tùng Cương dịch Yevgeny Onegin, A. Puskin Chương VII 💖
Tùng Cương * đăng lúc 10:08:23 PM, Oct 06, 2024 * Số lần xem: 183
Hình ảnh
#1
#2
#3
#4
#5
#6
#7
#8
#9
#10
#11
#12
#13
#14
#15
#16

 

              

 

Tùng Cương dịch

                               Yevgeny Onegin, A. Puskin

    Evghênhi Ônhêghin, A. Puskin  Chương  I  🍁
               
 
Yevgeny Onegin - Aleksandr Pushkin - Chương II  💛 

Yevgeny Onegin - Aleksandr Pushkin - Chương III  🌹

    Yevgeny Onegin, A. Puskin  Chương  IV  🌼 -

 
Yevgeny Onegin, A. Puskin  Chương V  🌷    

Yevgeny Onegin, A. Puskin  Chương VI 🌱                   


                                 ❤ 🌹 ❤

 

                                  Chương  VI 💖

*

Глава седьмая

 

Москва, России дочь любима, 
Где равную тебе сыскать?

Дмитриев.

 

Как не любить родной Москвы?

Баратынский.

 

Гоненье на Москву! что значит видеть свет!
Где ж лучше?
‎Где нас нет.

Грибоедов.

 

I.

Гонимы вешними лучами, 
С окрестных гор уже снега 
Сбежали мутными ручьями 
На потопленные луга. 
Улыбкой ясною природа 
Сквозь сон встречает утро года; 
Синея блещут небеса. 
Еще прозрачные, леса 
Как будто пухом зеленеют. 
Пчела за данью полевой 
Летит из кельи восковой. 
Долины сохнут и пестреют; 
Стада шумят, и соловей 
Уж пел в безмолвии ночей. 

 

CHƯƠNG BẢY

I.

 

Nắng xuân mới làm ấm dần không khí,

Băng tuyết đóng trên sườn đồi, khe núi,

Tan chảy thành nước màu tối đổ về,

Dâng ngập thêm đồng cỏ đã tràn trề.

Đất trời nở nụ cười nhìn tươi rói

Ngủ đông dậy, chào đón ngày đầu năm mới;

Trời cao lồng lộng trong suốt, biếc xanh.

Những khu rừng cây trụi lá trên cành 

Như ngày một xanh dần lên nhờ mầm non phủ

Ong kiếm mật hoa đồng mải mê tìm đủ

Rời khỏi nhà đầy sáp, ong lũ lượt bay xa.

Đồng đất khô ráo dần, nay rực rỡ muôn hoa;

Đàn súc vật chạy đuổi nhau tán loạn,

Họa mi hót trong đêm khuya vắng lặng.

II.

Как грустно мне твое явленье, 
Весна, весна! пора любви! 
Какое томное волненье 
В моей душе, в моей крови! 
С каким тяжелым умиленьем 
Я наслаждаюсь дуновеньем 
В лицо мне веющей весны 
На лоне сельской тишины! 
Или мне чуждо наслажденье, 
И всё, что радует, живит, 
Всё, что ликует и блестит, 
Наводит скуку и томленье 
На душу мертвую давно, 
И всё ей кажется темно? 

 

II.

Xuân đã đến! Chào xuân! Mùa tình yêu đã tới!

Buồn da diết trong ta, lại thấy mùa xuân mới.

Sao lòng tôi, sao trong máu của tôi 

Thấy nôn nao, người mệt mỏi rã rời!

Có gì đó dịu dàng mà ngạt thở,

Ta sung sướng hít sâu vào tận hưởng 

Hương mùa xuân phả nhẹ khắp mặt ta 

Giữa bình yên, tĩnh lặng vùng quê xa!

Hay tôi thấy lạ xa niềm hoan lạc 

Tất những thứ đem niềm vui, làm sống lại,

Tất những gì làm hoan hỉ, rọi chói chang,

Gợi nỗi buồn và mệt mỏi toả lan

Khắp tâm hồn đã chết trong ta từ lâu quá,

Và mọi thứ tưởng như tăm tối cả?

 


III.

Или, не радуясь возврату 
Погибших осенью листов, 
Мы помним горькую утрату, 
Внимая новый шум лесов; 
Или с природой оживленной 
Сближаем думою смущенной 
Мы увяданье наших лет, 
Которым возрожденья нет? 
Быть может, в мысли к нам приходит 
Средь поэтического сна 
Иная, старая весна 
И в трепет сердце нам приводит 
Мечтой о дальней стороне, 
О чудной ночи, о луне… 

 

III.

Hay không thú, khi thấy muôn cành lá 

Đã rụng hết thu qua, giờ lại xanh nguyên cả,

Ta buồn lòng nhớ mất mát đắng cay,

Khi nghe rừng rộn rã reo vui lá cây;

Hay cùng với đất trời đang sôi nổi 

Suy nghĩ của ta còn đang bối rối

Thấy tuổi đời ta đến lúc úa tàn rồi ,

Năm tháng qua đi có bao giờ khứ hồi ?

Cũng có thể trong giấc mơ đầy thi vị

Đầu óc mải mê đi tìm lại

Một mùa xuân khác, mãi cũ xưa luôn 

Làm tim ta xao xuyến, đập nhanh hơn 

Vẫn canh cánh mơ về nơi chân trời xa lắc,

Một đêm diệu kỳ, trăng soi vằng vặc …

IV.

Вот время: добрые ленивцы, 
Эпикурейцы-мудрецы, 
Вы, равнодушные счастливцы, 
Вы, школы Лёвшина[1] птенцы, 
Вы, деревенские Приамы, 
И вы, чувствительные дамы, 
Весна в деревню вас зовет, 
Пора тепла, цветов, работ, 
Пора гуляний вдохновенных 
И соблазнительных ночей. 
В поля, друзья! скорей, скорей, 
В каретах, тяжко нагруженных, 
На долгих иль на почтовых 
Тянитесь из застав градских. 

 

IV.

Đã đến lúc: ơi các ngài lười vĩ đại,

Cùng các vị theo Epikur tôn thờ hưởng lạc,

Các bạn luôn may mắn, lại thờ ơ,

Ơi các ông chủ đất, các quý tộc địa phương ,

Các ông bố - chủ gia đình đông con cái,

Các bà vốn tinh nhanh lại hay nhận thấy,

Mùa xuân chào mời bạn tới miền quê,

Mùa ấm nồng, việc đồng áng, muôn sắc hoa khoe,

Mùa đi dạo khơi trong lòng bao hứng khởi,

Những đêm ngất ngây, hút hồn mời gọi.

Các bạn ơi, hãy bước vội ra đồng ngay!

Hãy lên xe, dù xe chất người đầy,

Xe nhà chậm, hay xe thư bay như gió!

Hãy mau thoát trạm gác vào thành phố.

 

2.Epikur là triết gia cổ Hy Lạp, ông tuyên truyền con người phải hướng tới hưởng lạc, hạnh phúc.

4.Левшин В А (1746-1826), nhà văn và nghiên cứu thơ ca dân gian. Nghĩa ở đây là: các chủ đất địa phương, các quý tộc.

13.на долгих - xe ngựa nhà, không được đổi ngựa suốt đường đi, nên chạy chậm,  на почтовых - còn xe thư, đến trạm nghỉ, được đổi ngựa, nên chạy nhanh.

 


V.

И вы, читатель благосклонный, 
В своей коляске выписной 
Оставьте град неугомонный, 
Где веселились вы зимой; 
С моею музой своенравной 
Пойдемте слушать шум дубравный 
Над безыменною рекой 
В деревне, где Евгений мой, 
Отшельник праздный и унылый, 
Еще недавно жил зимой 
В соседстве Тани молодой, 
Моей мечтательницы милой; 
Но где его теперь уж нет… 
Где грустный он оставил след. 

 

V.

Và thưa bạn, những người luôn thiện chí,

Đi xe ngoại được sơn màu như ý,

Hãy bỏ lại sau lưng thành phố đúng tổ ong,

Nơi các ngài đã rong chơi suốt mùa đông ;

Hãy đi với Nàng Thơ của tôi nhé,

Ta cùng lắng nghe rừng sồi lá reo vui vẻ,

Bên dòng sông không tên gọi, chảy lững lờ,

Ở làng quê mà  Evghênhi của tôi sống một thời,

Chàng đã sống cô đơn, rỗi nhàn, buồn chán,

Nào lâu lắm, chàng sống qua mùa đông phát ngán,

Là láng giềng của Tanhia ít tuổi đời,

Một cô nàng mơ mộng đáng yêu của tôi;

Nhưng chàng đã đi xa rồi tít mít…

Chàng để lại dấu vết buồn da diết.


VI.

Меж гор, лежащих полукругом, 
Пойдем туда, где ручеек 
Виясь бежит зеленым лугом 
К реке сквозь липовый лесок. 
Там соловей, весны любовник, 
Всю ночь поет; цветет шиповник, 
И слышен говор ключевой, — 
Там виден камень гробовой 
В тени двух сосен устарелых. 
Пришельцу надпись говорит: 
«Владимир Ленской здесь лежит, 
Погибший рано смертью смелых, 
В такой-то год, таких-то лет. 
Покойся, юноша-поэт!» 

 

VI.

Men theo núi thành vòng bán cung nhỏ,

Ta hãy đến nơi có dòng suối chảy

Nằm quanh co, suối chạy trên đồng cỏ xanh non,

Đổ ra sông, đi qua rừng cây gia cỏn con.

Bạn tình của mùa xuân là họa mi thấp thoáng 

Suốt đêm hót; tầm xuân nở tung khắp chốn,

Tiếng suối nghe róc rách đến là vui,-

Đứng từ xa đã nhìn rõ mộ bia 

Nằm dưới bóng hai cây thông cổ thụ.

Dòng chữ viết cho khách xa xem hiểu đủ:

“Chỗ vĩnh  hằng của Vladimir Lensky ở nơi đây,

Chàng sớm qua đời bởi cái chết dũng cảm thay,

Vào ngày ấy, tháng này, hay năm cụ thể.

Nghỉ yên nhé, ơi nhà thơ tuổi trẻ !”

VII.

На ветви сосны преклоненной, 
Бывало, ранний ветерок 
Над этой урною смиренной 
Качал таинственный венок. 
Бывало, в поздние досуги 
Сюда ходили две подруги. 
И на могиле при луне, 
Обнявшись, плакали оне. 
Но ныне… памятник унылый 
Забыт. К нему привычный след 
Заглох. Венка на ветви нет; 
Один, под ним, седой и хилый 
Пастух по-прежнему поет 
И обувь бедную плетет. 

 

VII.

Cây thông đổ nằm nghiêng, giương cành lá,

Có gió sớm ban mai thổi qua hối hả 

Lướt ngang phần mộ khá yên bình

Khẽ đung đưa vòng hoa huyền bí treo trên cành.

Có nhiều bận, trời về chiều muộn thật 

Thấy hai bạn gái cùng nhau tất bật.

Thăm ngôi mồ đặt dưới ánh trăng soi,

Họ ôm nhau, khóc thút thít, nước mắt rơi.

Nhưng đến lúc… mộ chìm nơi vắng lặng

Bị quên hẳn. Dấu đường đến mộ thành quên lãng 

Xoá sạch rồi. Trên cành chẳng có vòng hoa treo;
Dưới bóng cây- ông lão chăn gia súc ốm đau,

Đầu bạc trắng, miệng hát nghêu ngao như trước,

Tay mải miết đan đôi giầy cà tàng khác.

 

VIII. IX. X.

Мой бедный Ленской! изнывая, 
Не долго плакала она. 
Увы! невеста молодая 
Своей печали неверна. 
Другой увлек ее вниманье, 
Другой успел ее страданье 
Любовной лестью усыпить, 
Улан умел ее пленить, 
Улан любим ее душою… 
И вот уж с ним пред алтарем 
Она стыдливо под венцом 
Стоит с поникшей головою, 
С огнем в потупленных очах, 
С улыбкой легкой на устах. 

 

VIII.IX.X.

Chàng Lensky không may của tôi hỡi!

Nàng khóc nhớ thương mới qua vài bữa.

Trời ơi! cô gái trẻ tóc còn xanh

Muốn giữ lòng thủy chung, đau đớn mà không thành.

Có người đến làm nàng say như điếu đổ,

Chàng khinh kỵ đem tình yêu vượt lên đau khổ,

Vì tình yêu, nàng quên hết cả mất rồi,

Chàng khinh kỵ giúp nàng lại yêu đời,

Chàng chiếm trọn tình yêu nàng mới đủ…

Giờ là lúc đôi uyên ương trước bàn thờ tổ

Nàng ngượng ngùng đội vòng hoa cưới trên đầu,

Nàng đứng im, mặt cúi xuống gằm sâu,

Nụ cười nhẹ trên môi trông thấp thoáng,

Mắt nhìn xuống vẫn ánh lên lửa hồng lấp loáng.


XI.

Мой бедный Ленской! за могилой 
В пределах вечности глухой 
Смутился ли, певец унылый, 
Измены вестью роковой, 
Или над Летой усыпленный 
Поэт, бесчувствием блаженный, 
Уж не смущается ничем, 
И мир ему закрыт и нем?.. 
Так! равнодушное забвенье 
За гробом ожидает нас. 
Врагов, друзей, любовниц глас 
Вдруг молкнет. Про одно именье 
Наследников сердитый хор 
Заводит непристойный спор. 

 

XI.

Chàng Lensky chẳng may của tôi hỡi!

Nằm im lặng dưới mồ sâu mãi mãi

Phận hẩm hiu, nhà thơ có buồn lòng,

Nghe tin người yêu vội vã lấy chồng,

Hay chàng ngủ yên dưới dòng sông Quên lãng,

Thấy hạnh phúc khi không còn xúc cảm,

Chẳng bận tâm hối tiếc mọi thứ trên đời,

Thế giới này lặng câm, đóng kín rồi?..

Đời là thế! Sự thờ ơ cùng quên thẳng 

Đang chờ sẵn ta vào áo quan sáu tấm.

Tiếng bạn bè, kẻ thù ác, người yêu xưa 

Chợt tắt ngay. Chỉ còn việc trang trại phải chia 

Khiến nhóm người đang tranh quyền thừa kế 

Mải cãi vã giành nhau từng món đồ chí choé.


XII.

И скоро звонкий голос Оли 
В семействе Лариных умолк. 
Улан, своей невольник доли, 
Был должен с нею ехать в полк. 
Слезами горько обливаясь, 
Старушка, с дочерью прощаясь, 
Казалось, чуть жива была, 
Но Таня плакать не могла; 
Лишь смертной бледностью покрылось 
Ее печальное лицо. 
Когда все вышли на крыльцо, 
И всё, прощаясь, суетилось 
Вокруг кареты молодых, 
Татьяна проводила их. 

 

XII.

Và nhanh quá, tiếng Ônga rộn rã

Trong nhà bác La rina không còn nữa.

Là tù nhân duyên phận, chàng khinh kỵ chấp hành 

Cùng Ônga di chỗ ở về trung đoàn.

Khóc rền rĩ, bà Larina mắt tràn rơi lệ,

Đành buồn bã chia tay Ônga và chàng rể,

Cảm tưởng như chẳng còn sức để vượt qua 

Nhưng người không khóc chỉ có Tanhia;

Màu da tái xanh như là người sắp chết 

Ánh lên mặt nàng đang buồn da diết.

Khi cả nhà bước xuống tam cấp tiễn người đi 

Lúc chia tay, mọi người, mọi thứ đều rối tinh

Ngay bên cạnh xe đôi uyên  ương trẻ tuổi,

Tanhia tiễn họ lên đường về nơi ở mới.




XIII.

И долго, будто сквозь тумана, 
Она глядела им вослед… 
И вот одна, одна Татьяна! 
Увы! подруга стольких лет, 
Ее голубка молодая, 
Ее наперсница родная, 
Судьбою вдаль занесена, 
С ней навсегда разлучена. 
Как тень она без цели бродит, 
То смотрит в опустелый сад… 
Нигде, ни в чем ей нет отрад, 
И облегченья не находит 
Она подавленным слезам — 
И сердце рвется пополам. 

 

XIII.

Nàng đứng mãi, như nhìn xuyên sương dày đặc,

Cố theo dõi bóng xe dần khuất mắt…

Và giờ đây, nàng còn lại một mình!

Ôi trời ơi, bạn gái bao năm tháng chân tình 

Là em gái của Tanhia còn ít tuổi,

Chị em ruột thịt, luôn tin nhau khỏi nói,

Nhưng cuộc đời đưa đẩy em phải theo chồng xa

Và từ nay, chị em đâu được sống một nhà.

Như cái bóng, Tanhia tha thẩn vào ra không mục đích,

Khi ngắm mãi khu vườn hoang tĩnh mịch…

Lòng đang buồn tìm đâu được cảnh vui

Chẳng cách nào giúp buồn chán nguôi ngoai 

Dù cố nén, nước mắt hai hàng rơi mặn chát,

Con tim bị xẻ đôi nghe tan nát.

 

 

XIV.

И в одиночестве жестоком 
Сильнее страсть ее горит, 
И об Онегине далеком 
Ей сердце громче говорит. 
Она его не будет видеть; 
Она должна в нем ненавидеть 
Убийцу брата своего; 
Поэт погиб… но уж его 
Никто не помнит, уж другому 
Его невеста отдалась. 
Поэта память пронеслась 
Как дым по небу голубому, 
О нем два сердца, может быть, 
Еще грустят… На что грустить? 

 

XIV.

Đang lẻ bóng, nàng thấy càng đơn chiếc

Một khát vọng cháy bùng lên tha thiết,

Nghĩ về Ônhêghin nay ở tít nơi xa

Trái tim nàng công phẫn hét bật ra.

Mình sẽ chẳng bao giờ gặp chàng làm gì nữa;

Nàng chỉ thấy căm hờn Ônhêghin đã

Dám xuống tay giết hại đứa em rể của nàng;

Thi sĩ qua đời… nhưng chẳng ai màng 

Nhớ chàng nữa, người yêu của chàng hấp tấp 

Vội vã lấy chồng sau ngày chàng mất.

Kỷ niệm về nhà thơ đã xoá sạch sành sanh 

Như khói bay đã tan biến trên trời xanh,

Rất có thể, về chàng - hai con tim duy nhất 

Vẫn buồn nhớ… Nhưng buồn rầu, ai cần thiết?

XV.

Был вечер. Небо меркло. Воды 
Струились тихо. Жук жужжал. 
Уж расходились хороводы; 
Уж за рекой, дымясь, пылал 
Огонь рыбачий. В поле чистом, 
Луны при свете серебристом 
В свои мечты погружена, 
Татьяна долго шла одна. 
Шла, шла. И вдруг перед собою 
С холма господский видит дом, 
Селенье, рощу под холмом 
И сад над светлою рекою. 
Она глядит — и сердце в ней 
Забилось чаще и сильней. 

 

XV.

Trời chiều tối. Càng nhạt dần ánh sáng 

Tiếng nước chảy nghe xa. Côn trùng kêu không chán.

Điệu múa vòng mừng hội mùa khắp không gian;

Bên kia sông, khói tỏa, ánh lửa loang loang 

 Người đánh cá đang nhóm lò. Đồng gặt xong lúa 

Phủ màu bạc ánh trăng soi sáng toả

Nàng chìm trong mơ mộng thật sâu,

Tachiana một mình đi mãi thấy đã lâu.

Nàng cứ bước, chợt nhìn mau phía trước 

Từ đồi thấy ngôi nhà của bá tước,

Một khóm nhà, khu rừng nhỏ dưới chân đồi 

Và mảnh vườn sát mép sông, mặt nước sáng ngời.

Nàng nhìn mãi, trái tim nàng chợt thấy 

Đập nhanh hẳn, và mạnh như múa nhảy. 

 

XVI.

Ее сомнения смущают: 
«Пойду ль вперед, пойду ль назад?.. 
Его здесь нет. Меня не знают… 
Взгляну на дом, на этот сад». 
И вот с холма Татьяна сходит, 
Едва дыша; кругом обводит 
Недоуменья полный взор… 
И входит на пустынный двор. 
К ней, лая, кинулись собаки. 
На крик испуганный ея 
Ребят дворовая семья 
Сбежалась шумно. Не без драки 
Мальчишки разогнали псов, 
Взяв барышню под свой покров. 

 

XVI.

Nàng chợt thấy đang phân vân, bối rối:

“Có đi tiếp hay quay về thì tốt ?…

Chàng đã đi xa. Mình đến - chẳng ai hay…

Mình muốn nhìn dinh thự, mảnh vườn này”.

Đồi thoai thoải, nàng thả chân bước xuống,

Thấy khó thở, đưa mắt nhìn luống cuống,

Cứ phân vân nhưng vẫn cố nhìn quanh…

Và bước vào khu sân rộng để hoang.

Đàn chó sủa vang lao phía nàng đang đứng.

Khi nghe tiếng nàng gào như kêu cứu,

Cả một bày trẻ nhỏ lao vút từ trong nhà 

Đổ túa ra, tay xua đuổi, miệng la,

Chật vật, đám con trai mới đẩy lui đàn chó,

Ra bảo vệ cô khách vừa bước chân qua ngõ.

 

XVII.

«Увидеть барский дом нельзя ли?» — 
Спросила Таня. Поскорей 
К Анисье дети побежали 
У ней ключи взять от сеней; 
Анисья тотчас к ней явилась, 
И дверь пред ними отворилась, 
И Таня входит в дом пустой, 
Где жил недавно наш герой. 
Она глядит: забытый в зале 
Кий на бильярде отдыхал, 
На смятом канапе лежал 
Манежный хлыстик. Таня дале; 
Старушка ей: «а вот камин; 
Здесь барин сиживал один. 

 

XVII.

“Cô muốn viếng thăm nhà, được không nhỉ ?”-

Tanhia hỏi. Tỏ ra nhanh nhảu,

Đám trẻ con vội lao đi kiếm bà Anhixia

Muốn vào phòng trước thì phải mượn được chìa;

Bà Anhixia hiện ra ngay lập tức ,

Và mở cửa cho mọi người vào cùng lúc,

Tachiana đưa chân bước vào nhà 

Nơi ngày nào từng sống nhân vật chính của ta.

Nàng  thấy cảnh: bỏ quên trong phòng lăn lóc 

Cây cơ đánh bi-a nằm riêng một góc,

Trên ghế sô pha mềm: roi ngựa vứt sóng soài,

Tachiana đi thêm mấy bước dài,

Bà giúp việc già nói: “còn đây lò sưởi;

Nơi bá tước vẫn ngồi một mình bên đống lửa.


XVIII.

Здесь с ним обедывал зимою 
Покойный Ленский, наш сосед. 
Сюда пожалуйте, за мною. 
Вот это барский кабинет; 
Здесь почивал он, кофей кушал, 
Приказчика доклады слушал 
И книжку поутру читал… 
И старый барин здесь живал; 
Со мной, бывало, в воскресенье, 
Здесь под окном, надев очки, 
Играть изволил в дурачки. 
Дай бог душе его спасенье, 
А косточкам его покой 
В могиле, в мать-земле сырой!» 

 

XVIII.

Đây là chỗ, mùa đông, cậu nhà hay ăn uống 

Với cậu Lensky, người láng giềng chết uổng.

Xin mời cô chủ hãy bước theo tôi,

Đây là phòng cậu chủ thường ngồi;

Chỗ cậu ngủ nghê, uống cà phê nhấm nháp,

Chỗ này cậu nghe người làm thuê báo cáo,

Nơi sáng ra, cậu đọc sách hàng ngày…

Và nơi ông bá tước già nhiều năm sống ở đây 

Đã nhiều lúc, có tôi, ngày chủ nhật 

Ông bá tước già bên cửa sổ, đeo kính mắt 

Cho tôi ngồi đánh bài thích vô cùng 

Cầu hồn ông trên trời được cứu rỗi yên bình 

Cầu cho cốt xương ông nghỉ yên lành lặng lẽ 

Sâu dưới mộ, mãi nằm trong đất mẹ!”


XIX.

Татьяна взором умиленным 
Вокруг себя на всё глядит, 
И всё ей кажется бесценным, 
Всё душу томную живит 
Полу-мучительной отрадой: 
И стол с померкшею лампадой, 
И груда книг, и под окном 
Кровать, покрытая ковром, 
И вид в окно сквозь сумрак лунный, 
И этот бледный полусвет, 
И лорда Байрона портрет, 
И столбик с куклою чугунной 
Под шляпой с пасмурным челом, 
С руками, сжатыми крестом. 

 

XIX.

Tachiana ánh mắt nhìn trìu mến 

Hết mọi thứ xung quanh mắt nàng chạm đến,

Cảm tưởng rằng tất cả là vô giá rồi,

Mọi sự làm sống lại tâm hồn bải hoải rã rời 

Bằng tâm trạng đan xen giữa vui, và khổ;

Cây đèn tắt rồi nằm trên bàn gỗ,

Sách từng hàng, bên cửa sổ có kê 

Chiếc giường bên trên phủ thảm che đi,

Và cửa sổ có ánh trăng chiếu qua màn tối,

Khung cảnh nửa tối, nửa sáng trông mờ sương khói,

Cả chân dung huân tước Bai rơn,

Chiếc bệ con đặt tượng nhỏ bằng gang

Đầu đội mũ, vầng trán trông xám xịt,

Hai tay bị trói vào cây thập tự chặt thít.

XX.

Татьяна долго в келье модной 
Как очарована стоит. 
Но поздно. Ветер встал холодный. 
Темно в долине. Роща спит 
Над отуманенной рекою; 
Луна сокрылась за горою, 
И пилигримке молодой 
Пора, давно пора домой. 
И Таня, скрыв свое волненье, 
Не без того, чтоб не вздохнуть, 
Пускается в обратный путь. 
Но прежде просит позволенья 
Пустынный замок навещать, 
Чтоб книжки здесь одной читать. 

 

XX.

Tachiana đứng lâu trong phòng rất mốt 

Thấy đầu óc mê đi, hồn như hút mất.

Nhưng muộn rồi. Trời nổi gió lạnh thêm.

Đồng tối mò. Rừng chìm vào giấc ngủ im lìm.

Khắp trên mặt sông sương mù giăng kín mít;

Nấp sau núi, vầng trăng bị che hết,

Cô gái đi hành hương đã tới lúc về rồi 

Đáng ra từ lâu phải trở về thôi.

Và Tanhia cố giấu đi hơi lo ngại,

Nàng hít thở thật sâu cho vơi sợ hãi,

Chuẩn bị lên đường quay lại về nhà.

Nhưng trước tiên, nàng xin phép bà già

Sẽ trở lại thăm khu nhà chủ đi xa thêm nữa ,

Nàng muốn đọc một mình vài cuốn sách đã.


XXI.

Татьяна с ключницей простилась 
За воротами. Через день 
Уж утром рано вновь явилась 
Она в оставленную сень, 
И в молчаливом кабинете, 
Забыв на время всё на свете, 
Осталась наконец одна, 
И долго плакала она. 
Потом за книги принялася. 
Сперва ей было не до них, 
Но показался выбор их 
Ей странен. Чтенью предалася 
Татьяна жадною душой; 
И ей открылся мир иной. 

 

XXI.

Tachiana tạm biệt bà già tay hòm chìa khoá

Sau cánh cồng. Qua một ngày, mặt trời vừa hé,

Đã thấy nàng trước cửa nhà bá tước rồi,

Nàng bước vào phòng khách vắng bóng người 

Và ngồi lại trong căn phòng tĩnh lặng,

Tất mọi thứ trên đời tạm quên đi hẳn,

Thế là nàng được thoải mái một mình,

Nàng mặc cho nước mắt chảy thành dòng.

Rồi sau đó, bắt đầu nhìn giá sách.

Lúc mới đến, còn bận tâm thứ khác,

Sách ở đây được lựa có khác hơn,

Thấy kì kì, nàng cầm mấy cuốn lên xem luôn,

Cắm đầu đọc, với cả tâm hồn đang thèm khát 

Và phía trước mở ra chân trời hoàn toàn khác.


XXII.

Хотя мы знаем, что Евгений 
Издавна чтенье разлюбил, 
Однако ж несколько творений 
Он из опалы исключил: 
Певца Гяура и Жуана, 
Да с ним еще два-три романа, 
В которых отразился век, 
И современный человек 
Изображен довольно верно 
С его безнравственной душой, 
Себялюбивой и сухой, 
Мечтанью преданной безмерно, 
С его озлобленным умом, 
Кипящим в действии пустом. 

 

XXII 

Evghênhi, dù rằng ta vẫn biết,

Từ lâu lắm, chán sách rồi, đâu tha thiết,

Nhưng trong nhiều tác giả người đọc ít quan tâm 

Chàng vẫn tìm ra đôi ba cuốn đáng xem:

Người ca ngợi Giaur và Giuan có cả 

Và tiểu thuyết thêm vài ba cuốn nữa,

Sách kể về chuyện thế kỷ ngày nay 

Và con người hiện ta gặp hàng ngày 

Được miêu tả khá hay và chân thực

Với tâm thế chàng thấy hợp tình về đạo đức,

Vừa khô khan, vừa ích kỷ đến khó tin,

Rất trung thành với đầu óc mộng mơ, nên

Với trí óc chàng rất thiên về ác độc,

Toàn vô ích làm bao điều sôi sục.

 

5.Tiếng Anh: The Giaour, Trường ca của Bai rơn, sáng tác năm 1813, kể về nữ tù nhân người Treckeshenka, do không chung thủy, bị người yêu trả thù, thả xuống biển Thổ Nhĩ Kì theo hủ tục thời đó.


XXIII.

Хранили многие страницы 
Отметку резкую ногтей; 
Глаза внимательной девицы 
Устремлены на них живей. 
Татьяна видит с трепетаньем, 
Какою мыслью, замечаньем 
Бывал Онегин поражен, 
В чем молча соглашался он. 
На их полях она встречает 
Черты его карандаша. 
Везде Онегина душа 
Себя невольно выражает 
То кратким словом, то крестом, 
То вопросительным крючком. 

 

XXIII 

Tachiana gặp nhiều trang hằn sâu vết 

Nơi dấu móng tay còn lưu nhiều vệt;

Mắt nàng nhìn rõ thật chăm chăm 

Thấy rất nhiều vết tích sinh động hơn.

Tachiana thấy có chút gì gây thắc mắc 

Xem Ônhêghin thường tỏ ra kinh ngạc

Với ý gì, bởi nhận xét gì

Có điều gì chàng im lặng đồng tình.

Bên lề chỗ đánh dấu nàng thường gặp

Bút chì của chàng luôn gạch khắp.

Đọc dần dần, nàng khắc nhận ra rằng 

Tâm hồn Ônhêghin tự lộ hết bản thân mình 

Khi ngắn gọn một từ, khi dấu thập,

Khi chàng đặt rõ dấu hoài nghi rất thật.


XXIV.

И начинает понемногу 
Моя Татьяна понимать 
Теперь яснее — слава богу — 
Того, по ком она вздыхать 
Осуждена судьбою властной: 
Чудак печальный и опасный, 
Созданье ада иль небес, 
Сей ангел, сей надменный бес, 
Что ж он? Ужели подражанье, 
Ничтожный призрак, иль еще 
Москвич в Гарольдовом плаще, 
Чужих причуд истолкованье, 
Слов модных полный лексикон?.. 
Уж не пародия ли он?[~ 1] 

 

XXIV

Và như vậy, mỗi ngày dần một ít 

Tachiana chợt bắt đầu nhìn ra được hết

Và bây giờ, rõ nhất - lạy Chúa tôi -

Về con người nàng chót yêu mê muội mất rồi

Số phận tỏ quyền uy buộc nàng vào chặt:

Với người lạ kỳ, đáng buồn, nguy hiểm thật,

Chàng do Thiên đường hay Địa ngục sinh ra,

Là thiên thần, kiêu ngạo hệt quỷ ma,

Là ai nhỉ? Lẽ nào chỉ do bắt chước 

Hồn ma quỷ vô hình hay thậm chí được 

Là người Matxcơva khoác áo Horald à,

Chỉ truyền đi những kỳ quặc lạ xa,

Thích chơi trội, sính khoe vốn từ đang thời mốt? ..

Liệu có phải trò nhái đùa nhằm giễu nốt?

XXV.

Ужель загадку разрешила? 
Ужели слово найдено? 
Часы бегут; она забыла, 
Что дома ждут ее давно, 
Где собралися два соседа 
И где об ней идет беседа. 
— Как быть? Татьяна не дитя, — 
Старушка молвила кряхтя. — 
Ведь Олинька ее моложе. 
Пристроить девушку, ей-ей, 
Пора; а что мне делать с ней? 
Всем наотрез одно и то же: 
Нейду. И всё грустит она 
Да бродит по лесам одна. — 

 

XXV

Không có lẽ, nàng giải xong câu đố?

Chả có lẽ, đã tìm ra điều cần có ?

Thời gian đi nhanh, nàng quên biến mất rằng,

Cả nhà từ lâu lắm ngóng đợi nàng ,

Hai bác láng giềng sang chơi góp chuyện 

Họ bàn bạc về nàng, hoàn toàn thân thiện.

Làm gì đây? Tachiana còn con nít nữa đâu ,-

Bà mẹ già cất tiếng, giọng rầu rầu ,-

Nhỏ hơn chị, Ônga đã yên bề gia thất.

Thật quá rõ, phải lo chồng cho Tachiana trước nhất ,

Đến tuổi rồi; nhưng biết làm gì đây?

Gặp anh nào nó cũng dứt khoát chối từ ngay.

Nàng vẫn một mình trong lòng buồn bã 

Vào rừng vắng vẩn vơ, lang thang mãi.-


XXVI.

«Не влюблена ль она?» — В кого же? 
Буянов сватался: отказ. 
Ивану Петушкову — тоже. 
Гусар Пыхтин гостил у нас; 
Уж как он Танею прельщался, 
Как мелким бесом рассыпался! 
Я думала: пойдет авось; 
Куда! и снова дело врозь. — 
«Что ж, матушка? за чем же стало? 
В Москву, на ярманку невест! 
Там, слышно, много праздных мест». 
— Ох, мой отец! доходу мало. —
«Довольно для одной зимы, 
Не то уж дам я хоть взаймы». 

 

XXVI

“Hay Tachiana đã yêu? “ -Thì yêu ai mà nói?

Buianốp mới mở lời liền bị từ chối,

Ivan Petushkốp cùng chung số phận buồn.

Chàng Pưkhtin khinh kị đến nhà có lần;

Và chàng tỏ ra mê gần như điếu đổ,

Mê đến mức tưởng bị thu hết hồn, rõ khổ!

Tôi nghĩ thầm: lần này chắc chắn xong.-

Nhưng mà không! chuyện lại vẫn long đong,

“Làm sao nhỉ, mẹ ơi, sao ngang trái vậy?

Cho đi Matxcơva, nơi cô dâu về hội chợ đấy!

Nghe nói nhiều chỗ trống, rất thiếu cô dâu”.

Cha mẹ ơi, thu nhập của tôi có nhiều đâu.-

“Chỉ cần chị có đủ cho mùa đông là được,

Còn nếu bí, tôi cho vay dùng tạm trước”.

 

10-11. nhiều chỗ trống- là ngôn ngữ văn phòng, chỉ vị trí đang thiếu, đang cần, ý hài hước, châm biếm.


XXVII.

Старушка очень полюбила 
Совет разумный и благой; 
Сочлась — и тут же положила 
В Москву отправиться зимой. 
И Таня слышит новость эту. 
На суд взыскательному свету 
Представить ясные черты 
Провинцияльной простоты, 
И запоздалые наряды, 
И запоздалый склад речей; 
Московских франтов и цирцей 
Привлечь насмешливые взгляды!.. 
О страх! нет, лучше и верней 
В глуши лесов остаться ей. 

 

XXVII 

Bà Larina tỏ ra vô cùng thích thú 

Thật thiện chí và hợp tình lời khuyên nhủ;

Bà tính rồi và lập tức quyết ngay:

Cho Tachiana đi Matxcơva đúng đợt đông này.

Nàng được biết tin mới ngay vừa tỏ.

Việc ra mắt giới thượng lưu quen đòi hỏi 

Mà đưa nàng ra trình làng vốn chỉ là 

Một nàng thôn nữ bình dị, thật thà,

Quần áo mặc giản đơn và lỗi mốt,

Cách ăn nói xưa quê quê, lỗi thời nốt;

Trước mắt dân Matxcơva quen trưng mốt sang giàu 

Thì đúng là trò cười cho họ, chắc chết mau!..

Ôi sợ lắm ! Không, tốt và hay hơn cả:

Cứ ở lại quê, nơi rừng sâu là an toàn quá.

 

 

XXVIII.

Вставая с первыми лучами, 
Теперь в поля она спешит 
И, умиленными очами 
Их озирая, говорит: 
«Простите, милые долины, 
И вы, знакомых гор вершины, 
И вы, знакомые леса; 
Прости, небесная краса, 
Прости, веселая природа; 
Меняю милый, тихий свет 
На шум блистательных сует… 
Прости ж и ты, моя свобода! 
Куда, зачем стремлюся я? 
Что мне сулит судьба моя?» 

 

XXVIII 

Nàng trở dậy, khi đằng đông hửng sáng,

Ra đồng ngắm cảnh, chân đi nhoang nhoáng 

Đưa mắt nhìn ruộng đồng, trìu mến, thân thương,

Nàng nhìn quanh bốn phía, mới nói luôn:

“Xin chào nhé, ơi thảo nguyên thân thiết,

Các bạn hỡi, những đỉnh núi cao thân quen hết,

Bao cánh rừng cây xanh tốt, đã quen;

Ta xin chào trời cao vút trong xanh,

Xin chào nhé, ôi quá yên lành trời đất;

Ta phải đổi thế giới thanh bình, thân yêu thật

Lấy thủ đô huyên náo, tất bật, ồn ào…

Ta xin chào, tự do của ta nào!

Ta phải đến đâu, chờ mong điều gì nữa?

Số phận có đem gì cho ta như đã hứa?”


XXIX.

Ее прогулки длятся доле. 
Теперь то холмик, то ручей 
Остановляют поневоле 
Татьяну прелестью своей. 
Она, как с давними друзьями, 
С своими рощами, лугами 
Еще беседовать спешит. 
Но лето быстрое летит. 
Настала осень золотая. 
Природа трепетна, бледна, 
Как жертва, пышно убрана… 
Вот север, тучи нагоняя, 
Дохнул, завыл — и вот сама 
Идет волшебница зима. 

 

XXIX

Nàng đi dạo thành lâu hơn chờ đợi.

Giờ là lúc khi gò đồi, khi dòng suối 

Tự nhiên níu chân nàng không muốn bước thêm 

Bằng mê say vẻ đẹp của mình riêng.

Như với bạn bè đã lâu thân thiết,

Nào đồng cỏ, nào rừng cây xanh biếc 

Nàng vội vàng nói chuyện cùng chúng say sưa.

Nhưng mùa hè ngắn ngủi chỉ lướt qua.

Trời đất đã sang thu màu vàng rực.

Thiên nhiên cũng xốn xang, trời nhìn nhợt nhạt thực,

Được trang hoàng, hệt đồ tế thần, thật tuyệt vời…

Đang kéo mây đen về, trời phương Bắc giữa hồi 

Đang hấp hối, gió rú gào, và thấy rõ

Mùa đông diệu kỳ đang tràn về đó.


XXX.

Пришла, рассыпалась; клоками 
Повисла на суках дубов; 
Легла волнистыми коврами 
Среди полей, вокруг холмов; 
Брега с недвижною рекою 
Сравняла пухлой пеленою; 
Блеснул мороз. И рады мы 
Проказам матушки зимы. 
Не радо ей лишь сердце Тани. 
Нейдет она зиму встречать, 
Морозной пылью подышать 
И первым снегом с кровли бани 
Умыть лицо, плеча и грудь: 
Татьяне страшен зимний путь. 

 

XXX

Đông đã đến len lỏi nơi nơi trong trời đất;

Tuyết rơi phủ dầy trên cành sồi cao ngất;

Tuyết mênh mông như thảm trải nhấp nhô

Phủ cánh đồng, quanh các ngọn đồi mấp mô;

Nằm bất động, nước trong sông không chảy 

Khăn tuyết xốp mọi nơi đều được trải;

Trời mùa đông rét dần. Và ta thấy hân hoan 

Với bao trò tinh nghịch của bà mẹ mùa đông.

Chỉ có trái tim Tachiana không chào đón.

Nàng không tỏ nhiệt tình mừng đông đến

Hít thở làn không khí đầy vị giá băng

Đón hạt tuyết đầu mùa rơi từ mái nhà ngang

Trà lên mặt, đôi vai và khắp ngực:

Tachiana chỉ thấy đường mùa đông sợ thực.

 


XXXI.

Отъезда день давно просрочен, 
Проходит и последний срок. 
Осмотрен, вновь обит, упрочен 
Забвенью брошенный возок. 
Обоз обычный, три кибитки 
Везут домашние пожитки, 
Кастрюльки, стулья, сундуки, 
Варенье в банках, тюфяки, 
Перины, клетки с петухами, 
Горшки, тазы et cetera, 
Ну, много всякого добра. 
И вот в избе между слугами 
Поднялся шум, прощальный плач: 
Ведут на двор осьмнадцать кляч, 

 

XXXI

Ngày định khởi hành đã từ lâu lùi lại,

Rồi cũng đến hạn cuối cùng không lùi mãi.

Phải kiểm tra, sửa chữa, đóng chắc thêm 

Chiếc xe hàng chẳng dùng đã lâu để quên.

Một xe thường, ba xe trượt có khoang hàng hết,

Xe phải chở bao thứ linh tinh cần thiết,

Nào ghế, bàn, xoong chảo, đủ thứ hòm,

Nào súng săn, lọ mứt chật cả thùng,

Chuồng gà sống, đệm lông đủ cả,

Nào chậu rửa, bình nước, et cetera, không kể,

Thôi thì trăm vạn thứ bà rằn.

Và trong nhà, giữa đám người làm

Tiếng cười nói rộn ràng, chia tay khóc mếu:

Mười tám ngựa được dẫn ra, không lo chỗ thiếu,


XXXII.

В возок боярский их впрягают, 
Готовят завтрак повара, 
Горой кибитки нагружают, 
Бранятся бабы, кучера. 
На кляче тощей и косматой 
Сидит форейтор бородатый, 
Сбежалась челядь у ворот 
Прощаться с барами. И вот 
Уселись, и возок почтенный, 
Скользя, ползет за ворота. 
«Простите, мирные места! 
Прости, приют уединенный! 
Увижу ль вас?..» И слез ручей 
У Тани льется из очей. 

 

XXXII

Ngay trong lúc ngựa đưa vào xe kéo,

Đám đầu bếp lo cho nhà ăn khéo léo.

Cả núi đồ chất hết lên xe để đi xa,

Tiếng vặc nhau đám đánh xe và tiếng đàn bà.

Trên lưng chú ngựa gầy, lông dầy lởm chởm

Là người đánh xe ngựa rậm râu quai nón,

Đám dân đang ở nhờ tập trung trước cửa nhà 

Đến chào chia tay bà chủ. Và rồi là

Người đi đã lên xe ngồi và xe chuyển bánh,

Xe nhanh chóng phóng qua cửa chính.

Chào chia tay, biết bao chỗ thân thương!

Xin chia tay mảnh đất quê hương!

Liệu ta có ngày về thăm?..” Và nước mắt 

Như suối chảy trên má Tachiana nghe mặn chát.



XXXIII.

Когда благому просвещенью 
Отдвинем более границ, 
Со временем (по расчисленью 
Философических таблиц, 
Лет чрез пятьсот) дороги верно 
У нас изменятся безмерно: 
Шоссе Россию здесь и тут, 
Соединив, пересекут. 
Мосты чугунные чрез воды 
Шагнут широкою дугой, 
Раздвинем горы, под водой 
Пророем дерзостные своды, 
И заведет крещеный мир 
На каждой станции трактир. 

 

XXXIII

Khi nào giáo dục của ta mạnh mẽ,

Ta phải vạch ra làn ranh rộng hơn nhé,

Cùng thời gian (theo tính toán các bộ óc Nga,

Các bảng ghi thu nhập các quốc gia,

Chừng năm trăm năm nữa) mới may được thấy 

Làm đường sá tiến hành nhanh gấp mấy:

Đường bộ  Nga chạy đi khắp mọi miền,

Các vùng sâu, vùng xa được nối liền.

Cầu gang sẽ bắc trên suối sâu, sông rộng,

Cầu xây dựng nhịp dài như cầu vồng lồng lộng,

Xẻ núi ra, chạy đường ngầm dưới nước sâu,

Đào rõ nhiều mái vòm to, đẹp, thật cao,

Và tổ chức khắp nơi bao trạm nghỉ,

Ở mỗi trạm đều xây tiện nghi ăn, giải trí.


XXXIV.

Теперь у нас дороги плохи[2], 
Мосты забытые гниют, 
На станциях клопы да блохи 
Заснуть минуты не дают; 
Трактиров нет. В избе холодной 
Высокопарный, но голодный 
Для виду прейскурант висит 
И тщетный дразнит аппетит, 
Меж тем, как сельские циклопы 
Перед медлительным огнем 
Российским   молотком 
Изделье легкое Европы, 
Благословляя колеи 
И рвы отеческой земли. 

 

XXXIV

Đường sá ở ta sao mà tồi tệ,

Cầu cống dựng xong không bảo trì, sập sệ,

Trạm nghỉ gì mà rận rệp chạy khắp nơi 

Không cho ai được một phút nghỉ ngơi;

Nhà nghỉ chẳng có. Chỉ có nhà ngồi lạnh buốt,

Phòng ẩm thấp, khách đói không có gì để nuốt 

Để cho vui, bảng giá vẫn được treo,

Chỉ trêu ngươi khách muốn ăn chịu đói meo,

Khi các vị Shiklốp ở vùng quê hẻo lánh,

Trước lửa bếp lò rèn cháy lét leo, lách tách,

Người Nga dùng kìm búa của người Nga

Chữa dăm ba thứ đơn giản của châu Âu chở qua,

Cám ơn những ổ gà trên quê cha đất tổ,

Đường nát bét, thợ sửa xe công việc đủ.

 

2.Do người dịch không tự tin khoản chính tả của mình, cứ sửa đi sửa lại, đành dựa vào tác giả Hoàng Tuấn Công: có thể viết theo hai cách như nhau: sập sệ và xập xệ!

 

XXXV.

За то зимы порой холодной 
Езда приятна и легка. 
Как стих без мысли в песне модной 
Дорога зимняя гладка. 
Автомедоны наши бойки, 
Неутомимы наши тройки, 
И версты, теша праздный взор, 
В глазах мелькают как забор[3].
К несчастью, Ларина тащилась, 
Боясь прогонов дорогих, 
Не на почтовых, на своих, 
И наша дева насладилась 
Дорожной скукою вполне: 
Семь суток ехали оне. 

 

XXXV

Nhưng bù lại, trời mùa đông lạnh giá,

Đi đường lại dễ dàng, vui thú quá.

Như lời thơ nhạt nhẽo trong ca khúc nghe hay

Đường sá mùa đông Nga bằng phẳng, êm thay.

Những người đánh xe ngựa xứ này đều tài giỏi,

Xe tam mã phóng như bay không biết mỏi,

Và cột cây số ven đường làm mắt mải mê nhìn,

Chúng lướt nhanh như hàng giậu đuổi theo mình.

Chỉ hơi chán, bà Larina đã già, cao tuổi quá

Sợ không dám đi bằng xe đắt giá,

Không dùng xe thư, mà chạy xe nhà,

Và Tanhia được dịp nếm đủ mấy ngày qua

Cảnh buồn chán trên đường xa dằng dặc:

Bảy ngày đẫy, xe mới về Matxcơva được.

 

6.Автомедоны - người đánh xe ngựa cho trong “Iliad” của Gomer. Ở đây ý châm biếm: người đánh xe ngựa.



XXXVI.

Но вот уж близко. Перед ними 
Уж белокаменной Москвы, 
Как жар, крестами золотыми 
Горят старинные главы. 
Ах, братцы! как я был доволен, 
Когда церквей и колоколен 
Садов, чертогов полукруг 
Открылся предо мною вдруг! 
Как часто в горестной разлуке, 
В моей блуждающей судьбе, 
Москва, я думал о тебе! 
Москва… как много в этом звуке 
Для сердца русского слилось! 
Как много в нем отозвалось! 

 

XXXVI

Nhưng thành phố đã gần. Trước mặt nhìn lấp lánh

Là Matxcơva được xây bằng đá trắng,

Bao mái vòm nhà thờ cổ kính sáng choang.

Như lửa loang, các cây thập tự dát ánh vàng.

Ơi các bạn! tôi thấy hài lòng quá,

Nhà thờ với tháp chuông hiện ra tất cả,

Các khu vườn, cung điện một chuỗi nguy nga

Trước mặt tôi toàn cảnh chợt mở ra!

Như thường thấy khi chia tay gian khó

Số phận của tôi phải nay đây mai đó,

Ơi Matxcơva, tôi chỉ nghĩ đến Người!

Ơi Matxcơva nghe chất chứa biết bao điều rồi

Trong tim mỗi người Nga luôn hoà trộn!

Nhắc đến Matxcơva, có bao điều thiêng liêng vang vọng!


XXXVII. 

Вот, окружен своей дубравой, 
Петровский замок. Мрачно он 
Недавнею гордится славой. 
Напрасно ждал Наполеон, 
Последним счастьем упоенный, 
Москвы коленопреклоненной 
С ключами старого Кремля: 
Нет, не пошла Москва моя 
К нему с повинной головою. 
Не праздник, не приемный дар, 
Она готовила пожар 
Нетерпеливому герою. 
Отселе, в думу погружен, 
Глядел на грозный пламень он. 

 

XXXVII

Kìa, ta thấy hàng cây cao bao khắp 

Lâu đài Piôtr. Vẻ ngoài nhìn trầm mặc 

Đầy tự hào niềm kiêu hãnh mới đây.

Napoleon mất công ngóng đợi đêm ngày 

Y nóng ruột đợi vận may sẽ tới,

Không chống cự, Matxcơva đành quỳ gối

Dâng lên y chìa khoá mở thành cổ Kremlin:

Không đời nào, Matxcơva của tôi làm việc trên,

Đã không chịu cúi đầu chào Napoleon vào thành phố.

Không mở hội, đến quà mừng càng không có

Mà lo chào Napoleon bằng đám cháy rõ to

Cho người hùng nóng lòng đợi chiến thắng trong mơ.

Từ lúc đó, y chết chìm trong suy nghĩ tiếp,

Khi chứng kiến thành phố ra mồi lửa khủng khiếp.

 

1. Lâu đài Piôtr do kiến trúc sư Kodakôp phụ trách xây dựng năm 1776, diện mạo hiện nay là do việc trùng tu năm 1840, lâu đài Piôtr nằm cách trạm gác cửa ra vào Tverxkaia khoảng 3 vecta trên đường Peterburg.

 

XXXVIII.

Прощай, свидетель падшей славы, 
Петровский замок. Ну! не стой, 
Пошел! Уже столпы заставы 
Белеют; вот уж по Тверской 
Возок несется чрез ухабы. 
Мелькают мимо бутки, бабы, 
Мальчишки, лавки, фонари, 
Дворцы, сады, монастыри, 
Бухарцы, сани, огороды, 
Купцы, лачужки, мужики, 
Бульвары, башни, казаки, 
Аптеки, магазины моды, 
Балконы, львы на воротах 
И стаи галок на крестах. 

 

XXXVIII

Xin chào nhé, tòa lâu đài Piôtr 

Đã chứng kiến tiếng tăm (của Napoleon) sụp nốt.

Thôi, đừng dừng, hãy đi, Các cột Khải hoàn môn

Hiện ra trăng trắng, xe chạy theo phố Tverxkaia luôn 

Phải tránh quá nhiều ổ gà trên đường dày đặc.

Thấy thấp thoáng nhiều bà bán hàng vặt,

Các bé trai chạy việc, quầy hàng, cột đèn đường,

Các lâu đài, nhà thờ cổ, cây cối trong vườn 

Người Bukhar, xe trượt băng, vườn rau quả

Dân buôn bán, đàn ông buôn đủ thứ cả

Các phố dài, tháp canh cũ, người Kôdắc dọc ngang 

Hàng thuốc này, cửa hàng mốt thời trang,

Ban công đấy, bên cửa ra vào là tượng sư tử,

Quạ ngậu ngã đậu trên cây thập tự.

XXXIX. XL.

В сей утомительной прогулке 
Проходит час-другой, и вот 
У Харитонья в переулке 
Возок пред домом у ворот 
Остановился. К старой тетке, 
Четвертый год больной в чахотке, 
Они приехали теперь. 
Им настежь отворяет дверь 
В очках, в изорванном кафтане, 
С чулком в руке, седой калмык. 
Встречает их в гостиной крик 
Княжны, простертой на диване. 
Старушки с плачем обнялись, 
И восклицанья полились. 

 

XXXIX. XL

Đoạn đường cuối diễn ra hơi mệt quá 

Mất một hai giờ mới tới nơi. Kia thấy đã

Đến nhà thờ Kharitôn, rẽ ngõ con con

Xe tới nhà, ngay trước cửa chính luôn.

Rồi đỗ lại. Đã là nơi bà chị cao tuổi,

Bị hành hạ, bốn năm nay, vì lao phổi,

Vậy đoàn xe nhà bà Larina tới đúng nhà rồi.

Khách đến nhà, cửa rộng mở chào mời 

Mắt đeo kính, chiếc áo trên người bị rách,

Tay cầm tất là ông già đầu bạc Kalmức.

Họ vào nhà, từ phòng khách vọng tiếng reo

Trên đi văng, nữ bá tước trông bủng beo.

Hai bà lão ôm nhau mừng mừng tủi tủi,

Hoà với tiếng hân hoan nghe bổi hổi.


XLI.

— Княжна, mon ange! — «Pachette!»[* 1] — Алина! — 
«Кто б мог подумать? — Как давно! 
Надолго ль? — Милая! Кузина! 
Садись — как это мудрено! 
Ей-богу, сцена из романа…» 
— А это дочь моя, Татьяна. — 
«Ах, Таня! подойди ко мне — 
Как будто брежу я во сне… 
Кузина, помнишь Грандисона?» 
— Как, Грандисон?.. а, Грандисон! 
Да, помню, помню. Где же он? — 
«В Москве, живет у Симеона; 
Меня в сочельник навестил; 
Недавно сына он женил. 

 

XLI 

-Chào bá tước, mon ange!-“Pachette!”- Alina ạ!

“Ai có thể nghĩ rằng? -Sao lâu quá

Đến ở lâu chứ ? - hở cô em yêu!

Ngồi xuống đi -  Mới thấy tuyệt làm sao!

Ôi Lạy Chúa, y như trong tiểu thuyết…”

-Con gái của em đây, Cháu là Tachiana, bác biết.-

“Ôi Tanhia! lại đây với bác nào-

Cứ như là bác thấy mộng hay sao…

Thế em gái, cô còn nhớ Grandison không đấy?”

-Chuyện gì nhỉ, Grandison nào? à, ông Grandidon ngày ấy!

Có, nhớ mà, vẫn nhớ. Thế giờ sống ở đâu?-

“Ở ngay Matxcơva, xóm đạo Simeôn;

Hôm trước lễ Giáng sinh, ông ta thăm chị;

Ông ấy mới  lấy vợ cho con trai mà lị.

 

1.-Chào bá tước, thiên thần ơi! “Chào cô Pasa!” - Chị Alina ạ!

Ta thấy hơi châm biếm, với cách nói tiếng Pháp, pha ngôn ngữ thị dân cấp thấp: tên tiếng Nga đã ở dạng âu yếm Pasa lại cộng thêm hậu tố-ette, cũng dạng thân thiết tiếng Pháp.


XLII.

А тот… но после всё расскажем, 
Не правда ль? Всей ее родне 
Мы Таню завтра же покажем. 
Жаль, разъезжать нет мочи мне; 
Едва, едва таскаю ноги. 
Но вы замучены с дороги; 
Пойдемте вместе отдохнуть… 
Ох, силы нет… устала грудь… 
Мне тяжела теперь и радость, 
Не только грусть… душа моя, 
Уж никуда не годна я… 
Под старость жизнь такая гадость…» 
И тут, совсем утомлена, 
В слезах раскашлялась она. 

 

XLII 

Chuyện người ấy…nhưng để sau ta kể hết 

Đúng vậy chứ? Nhà sẽ đưa đi tiếp 

Cho Tachiana thăm một lượt khắp họ hàng.

Tiếc là ta sức cạn, không thể lang thang ;

Chân với cẳng chỉ lê đi dăm ba bước.

Nhưng hai mẹ con đi đường, mệt là chắc;

Thôi cả nhà đi nghỉ sớm lại người…

Ôi trời ơi, sức đâu hết, ngực đau hoài…

Giờ là lúc, có vui, càng mệt lả…

Chứ không phải chỉ buồn mới mệt đâu, em ạ,

Nay ta đâu còn được tích sự gì…

Đúng là già như hoa sắp héo, chán phè…”

Giờ là lúc, người sao mà mệt bã,

Hễ cứ khóc, lại thêm ho xa xả.

 
 

XLIII.

Больной и ласки и веселье 
Татьяну трогают; но ей 
Не хорошо на новоселье, 
Привыкшей к горнице своей. 
Под занавескою шелковой 
Не спится ей в постеле новой, 
И ранний звон колоколов, 
Предтеча утренних трудов, 
Ее с постели подымает. 
Садится Таня у окна. 
Редеет сумрак; но она 
Своих полей не различает: 
Пред нею незнакомый двор, 
Конюшня, кухня и забор. 

 

XLIII 

Thấy bà bác vừa ân cần vừa vui tính

Khiến cháu gái càng vô cùng cảm kích;

Nhưng lạ nhà, nàng chưa thích, chưa quen,

Vì nàng ưa chỗ ngủ ở nhà bên lò sưởi, nên.

Ở đây tấm rèm vải lụa treo trên cửa sổ,

Giường cũng lạ, nên nàng hơi khó ngủ,

Nhà thờ nơi đây tiếng chuông đổ đã lâu,

Báo cho người ngày làm việc bắt đầu,

Dựng nàng dậy khỏi giường, muốn nằm đâu có được.

Giờ Tachiana ngồi bên cửa sổ ngắm ra trước 

Bóng tối mờ mờ; nhưng ánh mắt nàng 

Không nhìn ra cảnh đồng ruộng ở làng:

Nàng chỉ thấy một khu sân nhìn xa lạ,

Căn nhà bếp, hàng rào và chuồng ngựa.


XLIV.

И вот: по родственным обедам 
Развозят Таню каждый день 
Представить бабушкам и дедам 
Ее рассеянную лень. 
Родне, прибывшей издалеча, 
Повсюду ласковая встреча, 
И восклицанья, и хлеб-соль. 
«Как Таня выросла! Давно ль 
Я, кажется, тебя крестила? 
А я так на руки брала! 
А я так за уши драла! 
А я так пряником кормила!» 
И хором бабушки твердят: 
«Как наши годы-то летят!» 

 

XLIV 

Và tuần tự, Tachiana được đưa đi thăm hết 

Các nhà họ hàng, được mời ăn nồng nhiệt,

Kể cho ông lão với bà cả nghe,

Chuyện nàng hơi nhác lười, đãng trí ghê.

Với cô cháu người thân từ xa tới,

Nhà nào cũng ân cần, mời bánh mì với muối.

Ai cũng trầm trồ, khen nức mới vui sao.

“Ôi Tanhia lớn phổng quá, mới hồi nào

Ta, có lẽ, đặt tên con thì phải?

Ta từng ẵm con trên tay này mãi!

Ta từng xoắn tai đau, con sợ hãi nỉ non!

Ta cho con ăn bánh quy lúc bé tí hon!”

Và rồi các bà đồng thanh khẳng định cả:

Ôi tuổi của ta trôi qua sao mà nhanh quá!”

 

6.Mời bánh mì với muối là kết hợp món ăn trong phong tục người Nga, tỏ nhiệt tình, tiếp đón thân mật, trang trọng; lời chúc khách khứa trước bữa ăn.

XLV.

Но в них не видно перемены; 
Всё в них на старый образец: 
У тетушки княжны Елены 
Всё тот же тюлевый чепец; 
Всё белится Лукерья Львовна, 
Всё то же лжет Любовь Петровна, 
Иван Петрович также глуп, 
Семен Петрович также скуп, 
У Пелагеи Николавны 
Всё тот же друг мосьё Финмуш, 
И тот же шпиц, и тот же муж; 
А он, всё клуба член исправный, 
Всё так же смирен, так же глух, 
И так же ест и пьет за двух. 

 

XLV

Nhưng thấy họ như xưa, không có gì thay đổi;

Họ vẫn vậy, vẫn theo cùng một lối:

Bà Elena, bá tước, vẫn đội trên đầu 

Chiếc mũ đăng ten hồi nào, có đổi đâu;

Bà Lukeria Lvôpna thoa phấn da trắng bóc,

Bà Lyubôv Petrôvna thường hay lừa như trước,

Ông Ivan Petrôvich vẫn đần ngốc như xưa,

Ông Xemiôn Petrôvich có tiếng ki ki,

Bà Pelagêya Nhikolavna như trước 

Vẫn giữ ông bạn trai, me xừ Phinmush,

Vẫn chó con xinh Spis, vẫn ông chồng;

Là thành viên câu lạc bộ luôn một lòng,

Tính dễ chịu, tai ông thì điếc đặc,

Vẫn cứ uống và ăn bằng hai người là chắc.

 

11. Nói về mốt nuôi chó cảnh mini ở nửa sau tk.XVIII, ở đây là giống Spis. Sang đầu tk. XIX, sở thích này bị giảm dần.


XLVI.

Их дочки Таню обнимают. 
Младые грации Москвы 
Сначала молча озирают 
Татьяну с ног до головы; 
Ее находят что-то странной, 
Провинциальной и жеманной, 
И что-то бледной и худой, 
А впрочем, очень недурной; 
Потом, покорствуя природе, 
Дружатся с ней, к себе ведут, 
Цалуют, нежно руки жмут, 
Взбивают кудри ей по моде 
И поверяют нараспев  
Сердечны тайны, тайны дев, 

 

XLVI

Chị em họ gặp Tachiana đều choàng ôm thân thiết.

Matxcơva có nhiều đại mỹ nhân trẻ hết

Gặp Tanhia lần đầu, họ không thiết nói một câu 

Chỉ nhìn từ gót chân tới tận đỉnh đầu;

Họ coi nàng có cái gì ngồ ngộ,

Đúng gái tỉnh lẻ toát ra từ điệu bộ,

Da trắng tai tái và người bị gầy thôi,

Mà nói chung, cũng không đến mức quá tồi;

Rồi sau đó, thuận theo luật trời cùng là nữ,

Họ thân với Tachiana, dẫn về nhà chơi nữa,

Khi họ hôn, còn chà tay thấy êm êm,

Uốn tóc cho nàng theo mốt đương nhiên

Và vội vã kể luôn nàng nghe lại

Mọi bí mật yêu đương, chuyện riêng tư con gái,

 


XLVII.

Чужие и свои победы, 
Надежды, шалости, мечты. 
Текут невинные беседы 
С прикрасой легкой клеветы. 
Потом, в отплату лепетанья, 
Ее сердечного признанья 
Умильно требуют оне. 
Но Таня, точно как во сне, 
Их речи слышит без участья, 
Не понимает ничего, 
И тайну сердца своего, 
Заветный клад и слез и счастья, 
Хранит безмолвно между тем 
И им не делится ни с кем. 

 

XLVII 

Chuyện thành bại của mình và người khác,

Bao hy vọng, trò nghịch tinh, mơ ước.

Kể hết ra qua các cuộc chuyện trò 

Cứ phải thêm gia vị - nói xấu nhỏ to,

Rồi đủ chuyện linh tinh vô thưởng vô phạt,

Họ nài nỉ Tachiana đáp lễ tình riêng kể thật,

Với giọng mềm mỏng, rất nhẹ nhàng.

Nhưng Tachiana hệt như vẫn mơ màng,

Tai nghe họ, như nàng không chú ý,

Tỏ không hiểu họ chờ nói gì nhỉ ,

Giữ chuyện thầm kín con tim vẫn vẹn nguyên ,

Kho báu thiêng liêng nước mắt, hạnh phúc riêng ,

Vẫn im thít không hé răng ra nói,

Không trao đổi một lời dù họ hỏi.


XLVIII.

Татьяна вслушаться желает 
В беседы, в общий разговор; 
Но всех в гостиной занимает 
Такой бессвязный, пошлый вздор; 
Всё в них так бледно равнодушно; 
Они клевещут даже скучно; 
В бесплодной сухости речей, 
Расспросов, сплетен и вестей 
Не вспыхнет мысли в целы сутки, 
Хоть невзначай, хоть наобум; 
Не улыбнется томный ум, 
Не дрогнет сердце, хоть для шутки. 
И даже глупости смешной 
В тебе не встретишь, свет пустой. 

 

XLVIII 

Tachiana dỏng tai nghe chăm chú

Các mẩu chuyện, tán nhăng cùng cả lũ;

Nhưng mọi người trong phòng khách chỉ quan tâm 

Toàn chuyện tầm phào, nhảm nhí, nhố nhăng;

Mọi thứ đều nhạt nhẽo, bàng quan, phát ngán;

Ngay nói xấu, mà nghe sao rõ chán;

Lời nói khô khan, nghe đoạn quên luôn,

Toàn chuyện dò tin, thêu dệt, tin buôn,

Trí óc vẫn tối tăm, không thấy khôn hơn trước,

Dù không cố tình, không tùy sao cũng được;

Đầu óc ngu ngơ, không thể nở nụ cười,

Trái tim không run rẩy, dù chỉ cợt đùa thôi.

Và thậm chí, khi nghe điều ngốc nghếch,

Bạn chẳng thấy buồn cười, nghĩ sao đời rỗng tuếch.


XLIX.

Архивны юноши толпою 
На Таню чопорно глядят 
И про нее между собою 
Неблагосклонно говорят. 
Один какой-то шут печальный 
Ее находит идеальной, 
И, прислонившись у дверей, 
Элегию готовит ей. 
У скучной тетки Таню встретя, 
К ней как-то Вяземский подсел 
И душу ей занять успел. 
И, близ него ее заметя, 
Об ней, поправя свой парик, 
Осведомляется старик. 

 

XLIX

Tốp công tử ngành ngoại giao, lưu trữ 

Nhin Tachiana với ánh nhìn không thân thiện nữa 

Và mỗi khi tán gẫu với nhau về nàng 

Đều tỏ ra không thích rõ ràng.

Một anh nhả nhớt làm vẻ càng buồn bã 

Coi Tachiana là cô nàng lý tưởng quá,

Và mỗi khi đợi ở cửa ra vào,

Chuẩn bị cho nàng nghe đoạn thơ tẻ làm sao.

Khi gặp Tachiana ở nhà bà cô cám cảnh,

Người mà có lần Viademxky đến ngồi ghé cạnh

Và kịp thời vương vấn bóng hình nàng.

Khi nhận ra nàng đang ngồi cạnh mình,

Đưa tay vội sửa trên đầu làn tóc giả,

Ông già hỏi han về nàng đủ thứ cả.


L.

Но там, где Мельпомены бурной 
Протяжный раздается вой, 
Где машет мантию мишурной 
Она пред хладною толпой, 
Где Талия тихонько дремлет 
И плескам дружеским не внемлет, 
Где Терпсихоре лишь одной 
Дивится зритель молодой 
(Что было также в прежни леты, 
Во время ваше и мое), 
Не обратились на нее 
Ни дам ревнивые лорнеты, 
Ни трубки модных знатоков 
Из лож и кресельных рядов. 

 

L

Nhưng ở chỗ, người xem gào quá khích 

Với Melpomena, nữ thần bi kịch,

Nơi nàng dùng áo khoác che mắt người ngoài 

Một mình bên đám đông lạnh lùng hoài,

Nơi thần nữ hài kịch Talia ngủ gà ngủ gật

Và không hiểu được tràng vỗ tay thân mật.

Nơi khi xem trên sân khấu có Terpsykhora 

 Chỉ một người xem trẻ tuổi tỏ ý mê say.

(Chuyện đã xảy ra hệt như ngày trước,

Ở thời của tôi và bạn từng thấy được),

Không một ai buồn để ý đến nàng,

Cả quý bà hay ghen giương kính có tay mang,

Lẫn các quý ông giỏi giang, quen ngậm tẩu đã,

Từ khu ghế lô gia và hàng ghế bọc dạ.



LI.

Ее привозят и в Собранье. 
Там теснота, волненье, жар, 
Музыки грохот, свеч блистанье, 
Мельканье, вихорь быстрых пар, 
Красавиц легкие уборы, 
Людьми пестреющие хоры, 
Невест обширный полукруг, 
Всё чувства поражает вдруг. 
Здесь кажут франты записные 
Свое нахальство, свой жилет 
И невнимательный лорнет. 
Сюда гусары отпускные 
Спешат явиться, прогреметь, 
Блеснуть, пленить и улететь. 

 

LI

Nàng được dẫn vào nhà Câu lạc bộ,

Nơi đông đúc, xô bồ, oi đến sợ 

Nhạc gầm lên, nến rực rỡ chan hoà,

Các đôi lao đi như gió lốc thổi qua,

Những mũ nhẹ các quý cô xinh đẹp,

Dàn hợp xướng người tham gia đông nghẹt,

Cả nửa vòng tròn các cô gái trẻ chưa chồng,

Làm xôn xao mọi cảm xúc trong lòng.

Ở đây có các chàng toàn lo ăn diện,

Khoe khoang hết áo gi-lê rồi trò trắng trợn,

Giương kính nhìn, mà ánh mắt thờ ơ.

Các sỹ quan khinh kỵ đang lúc nghỉ tự do

Vội vã đến, gây ồn ào, to tiếng nhất,

Tỏa lấp lánh, hút hồn các cô, rồi bay mất.

 

1.Собрание- từ 1810, là tên toà nhà Русское благородное собрание, còn mang tên khác: Câu lạc bộ giới quý tộc, đặt tại phố Большая Дмитровка, là nơi tổ chức các cuộc bầu cử của giới quý tộc, thường tổ chức vũ hội, diễn kịch.

LII.

У ночи много звезд прелестных, 
Красавиц много на Москве. 
Но ярче всех подруг небесных 
Луна в воздушной синеве. 
Но та, которую не смею 
Тревожить лирою моею, 
Как величавая луна, 
Средь жен и дев блестит одна. 
С какою гордостью небесной 
Земли касается она! 
Как негой грудь ее полна! 
Как томен взор ее чудесный!.. 
Но полно, полно; перестань: 
Ты заплатил безумству дань. 

 

LII

Trời đêm tối có ngàn vì sao lôi cuốn nhất,

Thành phố Matxcơva có nhiều người đẹp thật.

Nhưng sáng trưng hơn mọi tinh tú trên trời 

Là mặt trăng trong khoảng không sáng ngời.

Nhưng nàng là người mà tôi không dám

Nhờ nàng thơ quấy rầy thêm lo lắng,

Như mặt trăng nàng trông dáng uy nghiêm 

Giữa những bà vợ và bạn gái, nàng đứng riêng.

Sáng rực với niềm tự tin, kiêu hãnh 

Chạm được tới mặt đất này thần thánh!

Nhưng trong tim chất đầy sức sống yêu đời!

Như ánh nhìn của nàng mệt mỏi, tuyệt vời!..

Nhưng đã đủ, đủ rồi, xin thôi nhé:

Bạn trả lễ cho sự điên khùng nhiều thế.

 


5-6. Theo P.A. Viademxky, đây có thể là Alekxandrina Korxakôva, con gái của Maria Ivanôvna , sau này thành nữ bá tước Viademxkaia. Puskin có thời từng say mê A. Korxakôva.

 

LIII.

Шум, хохот, беготня, поклоны, 
Галоп, мазурка, вальс… Меж тем, 
Между двух теток, у колоны, 
Не замечаема никем, 
Татьяна смотрит и не видит, 
Волненье света ненавидит; 
Ей душно здесь… она мечтой 
Стремится к жизни полевой, 
В деревню, к бедным поселянам, 
В уединенный уголок, 
Где льется светлый ручеек, 
К своим цветам, к своим романам 
И в сумрак липовых аллей, 
Туда, где он являлся ей. 

 

LIII

Tiếng cười nói lao xao, người đi, người chào hỏi,

Nhạc đánh điệu gallốp, madurca, valxơ inh ỏi…

Nàng ngồi bên hai bà bác, sát cột cao,

Không một ai để ý tới nàng chút nào,

Tachiana cứ nhìn mà sao không thấy gì hết,

Nàng căm giận thế giới này xô bồ đáng ghét;

Ở đây sao bức bối, Tachiana ước mong

Muốn quay về cuộc sống với ruộng nương,

Về làng cũ, bên người cùng quê hương nghèo khó,

Về một góc trời yên lành, thanh vắng đó,

Nơi còn nghe tiếng suối chảy trong veo,

Về với đồng hoa, với sách truyện nàng yêu,

Về với những con đường trồng cây gia mờ tối,

Về chính chỗ hai người gặp nhau khi chàng tới.


LIV.

Так мысль ее далече бродит: 
Забыт и свет и шумный бал, 
А глаз меж тем с нее не сводит 
Какой-то важный генерал. 
Друг другу тетушки мигнули 
И локтем Таню враз толкнули, 
И каждая шепнула ей: 
— Взгляни налево поскорей. — 
«Налево? где? что там такое?» 
— Ну, что бы ни было, гляди… 
В той кучке, видишь? впереди, 
Там, где еще в мундирах двое… 
Вот отошел… вот боком стал… 
«Кто? толстый этот генерал?» 

 

LIV

Và cứ thế, nàng vẩn vơ suy nghĩ :

Quên hết cả thế gian và nhạc chơi ầm ỹ,

Đang chăm chăm nhìn nàng có một người 

Viên tướng uy nghi giữ mắt không rời.

Các bà nháy mắt ra hiệu thay lời rồi đấy 

Và dùng khuỷu tay đẩy nhẹ cho Tachiana thấy,

Và mỗi bà lại nói nhỏ để nàng nghe:

-Cháu hãy nhìn sang phía trái nhanh đi,-

“Sang trái hả? Chỗ nào? Có gì thế?”

-Thì cháu cứ nhìn xem, trông kỹ nhé …

Trong đám đông, cháu thấy phía trước không,

Ở chỗ hai vị trong trang phục sĩ quan…

Một đi khỏi… kìa đang quay người lại ấy…

“Người nào nhỉ? Có phải là ông béo đẫy ?”

 


LV.

Но здесь с победою поздравим 
Татьяну милую мою, 
И в сторону свой путь направим, 
Чтоб не забыть, о ком пою… 
Да, кстати, здесь о том два слова: 
Пою приятеля младого 
И множество его причуд. 
Благослови мой долгий труд, 
О ты, эпическая муза! 
И верный посох мне вручив, 
Не дай блуждать мне вкось и вкривь.

Довольно. С плеч долой обуза! 
Я классицизму отдал честь: 
Хоть поздно, а вступленье есть. 

 

LV

Nhưng đến lúc, ta chúc mừng chiến thắng 

Với Tachiana của tôi đáng yêu lắm,

Và giờ ta lùi lại, tránh sang bên,

Để người mà ta ca ngợi không bị lãng quên…

Và nhân thể, xin có đôi câu trước đã:

Tôi ca tụng anh bạn trẻ trung nhiều quá

Và rất nhiều điều khác lạ của chàng.

Hãy nguyện cầu công sức từ lâu tôi đã làm,

Và bạn hỡi, những người yêu nghệ thuật!

Hãy cho gậy thần mà tôi tin cậy nhất,

Đừng dẫn tôi đi chệch lối, lạc đường thôi.

Đủ rồi mà. Thế là thoát gánh nặng rồi!

Tôi đã tỏ trọng thị dòng văn cổ điển:

Tuy có muộn, vẫn đủ phần nhập đề xuất hiện.

 

CHÚ THÍCH CHƯƠNG BẢY

 

Ơi  Matxcơva, đứa con yêu của nước Nga,

Tìm đâu ra nơi nào đẹp bằng Matxcơva ?

Đmitriep

 

Làm sao có thể không yêu Matxcơva thân thương ?

Baratưnsky 

 

Bị truy đuổi về Matxcơva! Mới thấy thế giới là thế nào!

Vậy ở đâu tốt hơn?

Nơi ta không có mặt.

Gribôeđôp 

 

Lời đề từ gồm ba phần, đối lập nhau về nhiều mặt.

Phần 1: (Ơi Matxcơva,…) văn anh hùng ca, giọng ca ngợi; miêu tả vai trò lịch sử-tượng trưng của Matxcơva với nước Nga; là mẫu mực thơ ca chính thống;

Phần 2: (Làm sao có thể…) châm biếm nhẹ nhàng; miêu tả sinh hoạt đời thường ở Matxcơva, nơi trung tâm văn hoá Nga thế kỷ XIX;

Phần 3: ( Bị truy đuổi…) văn trào phúng chua cay; tả Matxcơva như nơi tập trung mọi thói hư, tật xấu của xã hội Nga đương thời, mẫu văn bị kiểm duyệt cấm đoán, không cho công bố đầy đủ.

 

XIX.12.tượng Napôlêông, cỡ nhỏ.

 

XLIII 

7.Ở Matxcơva chuông gọi đi lễ sáng vào 4h, ở Peterburg thì đánh trống.

 

XLV

11.Mốt nuôi chó mini có ở nửa sau tk. XVIII, hay gặp giống Spis. Sang đầu tk.XIX, mốt này giảm dần.

 

4-14.Đội quân của Napoleon tiến vào Matxcơva, nhưng thành phố thực hiện”vườn không, nhà trống”, đã đốt cháy thành phố, Napoleon và bộ chỉ huy buộc phải vào lâu đài Piôtr.

Lâu đài Piôtr được xây theo lệnh Ekaterina II, là nơi dừng chân và nghỉ ngơi của hoàng gia và đoàn tuỳ tùng, trước khi vào Matxcơva, trên đường từ Peterburg tới.

Thời chiến tranh 1812, tổng hành dinh của Napoleon đã đóng quân tại đây. Từ đây, Napoleon đã chứng kiến thành phố Matxcơva bốc cháy để thực hiện chủ trương “vườn không nhà trống “. Quân Pháp rút đi đã mang theo nhiều báu vật trong lâu đài, đã phá hủy lâu đài rất nặng. Dưới thời Nhikôlai I, lâu đài được xây dựng lại, có diện mạo như hiện nay.

 

XXXIII

4.философических таблиц … Để giải thích dòng thơ này, Б В Томашевский đã viết: “ Dựa theo bản thảo, có thể thấy, Puskin muốn nhắc đến cuốn sách của Sharl Đyupen “Năng lực sản xuất và thương mại của Pháp” (1827), trong sách có dẫn số liệu vừa có tính chất thống kê, vừa so sánh nhiều nền kinh tế châu Âu, trong đó có nhắc tới Nga.

 

XXXVIII

Dịch nghĩa: xin chào người chứng kiến vinh quang bị sụp đổ… Puskin đã gọi lâu đài Piôtr là người chứng kiến vinh quang bị sụp đổ. Ф. Булгарин đã dựa vào câu thơ này và quy kết Puskin là không yêu nước tuyệt đối. Булгарин cố ý cho rằng “ vinh quang sụp đổ “ là nói về nước Nga. Булгарин đặt dấu hỏi nghi ngờ Puskin, chủ tâm cạnh khóe một cách ác độc về điều này. Puskin đã phải giải thích lại mà chưa làm yên dư luận. Là con gái ruột của đại nguyên soái М. И. Кутузов, bà Е. М.Хитрово đã lên tiếng bảo vệ Puskin , phản đối kịch liệt Булгарин

 

 

Ý kiến bạn đọc

Vui lòng login để gởi ý kiến. Nếu chưa có account, xin ghi danh.