Sep 07, 2024

Thơ dịch

Tùng Cương dịch Yevgeny Onegin, A. Puskin Chương IV 🌼
Tùng Cương * đăng lúc 03:37:49 AM, Jul 17, 2024 * Số lần xem: 172
Hình ảnh
#1
#2
#3
#4
#5
#6
#7
#8
#9
#10

 

*              

 

Tùng Cương dịch
                      
Yevgeny Onegin, A. Puskin


 Evghênhi Ônhêghin, A. Puskin  Chương  I  🍁
               
 
Yevgeny Onegin - Aleksandr Pushkin - Chương II  💛 

Yevgeny Onegin - Aleksandr Pushkin - Chương III  🌹

 
❤ 🌹 ❤

 

Chương IV  🌼

 

ГЛАВА ЧЕТВЁРТАЯ

La morale est dans la nature des choses.

Necker[* 1]

 

I. II. III. IV. V. VI.[~ 1]

 

VII.

Чем меньше женщину мы любим,
Тем легче нравимся мы ей,
И тем ее вернее губим
Средь обольстительных сетей.
Разврат, бывало, хладнокровный
Наукой славился любовной,
Сам о себе везде трубя
И наслаждаясь не любя.
Но эта важная забава
Достойна старых обезьян
Хваленых дедовских времян:
Ловласов обветшала слава
Со славой красных каблуков
И величавых париков.

 

Đạo đức là thuộc tính của muôn vật.

Necker

 

VII.

Ta phụ tình, tình lụy ta, bám chặt,

Ta lụy tình, tình phụ ta, bỏ mặc,

Tình dễ sa mồi mật ngọt chết người 

Khi lưới tình giăng  mắc khắp mọi nơi.

Mang máu lạnh  là trò chơi trụy lạc

Tình ái vốn có danh là khoa học,

Đi đến đâu cũng tô đẹp bản thân nhiều 

Được ăn chơi, mà không mất công yêu.

Nhưng cách hưởng ái ân quan trọng đó 

Chỉ xứng với lũ khỉ già dúm dó 

Ở cái thời ông cha vẫn ngợi khen:

Ánh vinh quang các chàng Lôvlas nay giảm thêm 

Phai nhạt hẳn cùng tiếng tăm giầy đế đỏ 

Và trang sức oai phong là bộ tóc giả.

 

1.Chúng tôi gặp nhiều biến thể của câu tiếng Việt gần nghĩa với ý thơ của Puskin, mà không biết ai là tác giả. Xin phép tác giả thật, được chép lại: 

-Theo tình - tình chạy, chạy tình - tình theo.

-Theo tình - tình trốn, trốn tình - tình theo.

-Luỵ tình - tình phụ, phụ tình - tình theo.

-Trốn tình - tình theo, theo tình - tình trốn.

 

VIII.

Кому не скучно лицемерить,
Различно повторять одно,
Стараться важно в том уверить,
В чем все уверены давно,
Всё те же слышать возраженья,
Уничтожать предрассужденья,
Которых не было и нет
У девочки в тринадцать лет!
Кого не утомят угрозы,
Моленья, клятвы, мнимый страх,
Записки на шести листах,
Обманы, сплетни, кольца, слезы,
Надзоры теток, матерей,
И дружба тяжкая мужей!


VIII.

Ai chẳng ngán phải trong vai giả mãi,

Bằng nhiều cách, có một điều luôn nhắc lại,

Cố nói cho ai cũng tin mãi một chiều,

Mọi người cùng biết và tin về tình yêu 

Nhưng trong bụng đều muốn nghe phản đối nữa

Phải xóa hết biết bao thiên kiến cũ,

Là những điều làm gì có từ xưa 

Ở một cô gái mới tuổi mười ba!

Ai chả mệt nghe bài ca đe dọa 

Nào thề thốt, cầu xin, tự nghĩ ra nỗi sợ,

Cả một danh sách dài kéo được sáu trang,

Nào dối lừa, thêu dệt, tặng nhẫn, lệ tràn,

Cả mẹ lẫn cô phải gần con mà theo dõi,

Các ông bố phải giữ tình cha con gần gũi!

 

IX.

Так точно думал мой Евгений.
Он в первой юности своей
Был жертвой бурных заблуждений
И необузданных страстей.
Привычкой жизни избалован,
Одним на время очарован,
Разочарованный другим,
Желаньем медленно томим,
Томим и ветреным успехом,
Внимая в шуме и в тиши
Роптанье вечное души,
Зевоту подавляя смехом:
Вот как убил он восемь лет,
Утратя жизни лучший цвет.


IX.

Evghênhi của tôi từng nghĩ suy giống hệt 

Những năm tháng đầu thời mới lớn thiệt 

Chàng cũng là nạn nhân bao lầm lỗi bão dông 

Những say mê vô lo nghĩ, vô tâm.

Được chiều chuộng quen chìm trong nhung lụa,

Cũng có lúc thấy cuộc đời tuyệt quá

Lại có khi vỡ mộng bởi chuyện nọ, chuyện kia,

Mệt triền miên giữ mãi  bao ước mơ,

Quá mệt mỏi với thành công chớp nhoáng,

Cố hiểu rõ trong ồn ào và bình lặng 

Khi tâm hồn bị trách mắng suốt đời 

Cố nén cơn chán ngán bằng tiếng cười:

Là câu chuyện tám năm dài chàng để chết,

Chịu đánh mất đoạn đời tươi đẹp nhất.

 

X.

В красавиц он уж не влюблялся,
А волочился как-нибудь;
Откажут — мигом утешался;
Изменят — рад был отдохнуть.
Он их искал без упоенья,
А оставлял без сожаленья,
Чуть помня их любовь и злость.
Так точно равнодушный гость
На вист вечерний приезжает,
Садится; кончилась игра:
Он уезжает со двора,
Спокойно дома засыпает
И сам не знает поутру,
Куда поедет ввечеру.

 

X.

Chàng không đuổi theo bóng hổng, người đẹp,

Mà tán tỉnh cho qua ngày nằm bẹp;

Bị chối từ - chàng tự an ủi nguôi ngoai;

Bị bỏ rơi - càng vui được nghỉ ngơi.

Chàng tìm kiếm bạn tình không tha thiết,

Bỏ rơi họ, cũng không hề nuối tiếc,

Nhớ thoảng qua tình và hận đám người xưa.

Giống hệt như ông khách quá thờ ơ 

Cứ tối đến sòng tìm một nơi tá túc

Chơi vài ván wist; khi trò chơi kết thúc:

Bình thản như không, phóng xe tuốt về nhà mình 

Trèo lên giường đánh một giấc ngon lành,

Và chính họ không biết rằng mai thức dậy,

Khi chiều tối, sẽ biết đi đâu đấy.



XI.

Но, получив посланье Тани,
Онегин живо тронут был:
Язык девических мечтаний
В нем думы роем возмутил;
И вспомнил он Татьяны милой
И бледный цвет и вид унылый;
И в сладостный, безгрешный сон
Душою погрузился он,
Быть может, чувствий пыл старинный
Им на минуту овладел;
Но обмануть он не хотел
Доверчивость души невинной.
Теперь мы в сад перелетим,
Где встретилась Татьяна с ним.

 

XI.

Nhưng thật lạ, khi nhận thư Tachiana vừa gửi,

Ônhêghin thấy lòng xốn xang, bổi hổi:

Thư của cô gái sôi nổi, lắm ước mong,

Chàng đọc thư, suy nghĩ rối như vỡ tổ ong;

Chàng nhớ lại nét tái xanh, luôn buồn tẻ 

Ánh lên bộ dạng của Tachiana sao đáng nể;

Tâm hồn chàng chìm nhẹ vào giấc nồng 

Cơn mộng mơ ngọt ngào quá sáng trong 

Rất có thể cơn xúc động bao ngày trước 

Lại làm chủ hồn chàng trong thoáng chốc;

Nhưng giờ đây chàng không muốn dối lừa ngay 

Lòng tin trong cô gái có hồn thiên thần này 

Giờ ta hãy bay nhanh sang vườn hoa nọ,

Nơi Tachiana cùng chàng có dịp may gặp gỡ.


XII.

Минуты две они молчали,
Но к ней Онегин подошел
И молвил: «вы ко мне писали,
Не отпирайтесь. Я прочел
Души доверчивой признанья,
Любви невинной излиянья;
Мне ваша искренность мила;
Она в волненье привела
Давно умолкнувшие чувства;
Но вас хвалить я не хочу;
Я за нее вам отплачу
Признаньем также без искусства;
Примите исповедь мою:
Себя на суд вам отдаю.

 

XII.

Họ im lặng khoảng chừng hai ba phút,

Nhưng Ônhêghin đến nơi nàng đứng trước 

Và nói rằng: “Cô đã viết cho tôi,

Đừng chối từ. Tôi đọc hết thư rồi,

Lời nói thật của tâm hồn đầy tin tưởng,

Bao tâm sự của tình yêu trong sáng;

Tôi rất ưa sự chân thật của cô;

Sự chân thành đã khiến tôi âu lo,

Những tình cảm từ lâu trong tôi đang câm lặng.

Nhưng tôi chẳng định ngỏ lời khen tặng;

Trước chân tình của cô, tôi xin đáp lại bằng

Câu trả lời không cần nghệ thuật làm hàng;

Cô hãy nhận ở tôi lời thú tội:

Xin trao số phận tôi để cô phán xét hộ.


XIII.

Когда бы жизнь домашним кругом
Я ограничить захотел;
Когда б мне быть отцом, супругом
Приятный жребий повелел;
Когда б семейственной картиной
Пленился я хоть миг единый, —
То верно б, кроме вас одной,
Невесты не искал иной.
Скажу без блесток мадригальных:
Нашед мой прежний идеал,
Я верно б вас одну избрал
В подруги дней моих печальных,
Всего прекрасного в залог,
И был бы счастлив… сколько мог!


 

XIII.

Giá gói gọn đời tôi trong gia đình nhỏ,

Tôi yên phận sống thuận hoà chồng vợ ;

Giá vận may sắp đặt cho tôi ngay,

Nhận làm chồng, làm bố cho tròn vai;

Giá cảnh sống gia đình làm tôi mê thích 

Khiến tôi chấp nhận dù thoáng giây duy nhất,-

Thì chắc rằng cô có một mà thôi,

Không ai hơn cô được, làm vợ tôi 

Tôi xin nói, không tụng ca cố ý:

Giá tìm thấy ý trung nhân của tôi ngày trước,

Thì chắc tôi đã chọn được mình cô 

Làm bạn đời năm tháng  sống âm u,

Tôi đặt cược niềm tin những gì đẹp nhất,

Thì hạnh phúc cho tôi là lớn thật!


XIV.

Но я не создан для блаженства;
Ему чужда душа моя;
Напрасны ваши совершенства:
Их вовсе недостоин я.
Поверьте (совесть в том порукой),
Супружество нам будет мукой.
Я, сколько ни любил бы вас,
Привыкнув, разлюблю тотчас;
Начнете плакать: ваши слезы
Не тронут сердца моего,
А будут лишь бесить его.
Судите ж вы, какие розы
Нам заготовит Гименей
И, может быть, на много дней.


XIV.

Nhưng tôi được sinh ra Trời không cho hưởng lạc;

Phận tôi thấy niềm vui càng xa lạ;

Cô tuyệt vời bao nhiêu, cũng hóa vô ích thôi:

Vì nói chung, tôi không xứng với cô rồi.

Cô nên hiểu: (ở đây lương tâm đòi bảo lãnh),

Ta thành vợ chồng sẽ là bất hạnh,

Dù tôi yêu thương cô thật hết lòng,

Nhưng quen thành nhàm, lập tức chán tận cùng;

Cô sẽ khóc, sẽ ngập tràn nước mắt 

Cũng không chuyển nổi con tim tôi đắng ngắt,

Lệ có rơi chỉ khiến  tôi phát khùng điên.

Cô nghĩ xem: thần bảo vệ hôn nhân Ghimenây

Sẽ giành sẵn cho ta hoa hồng nào hợp nhất 

Và có thể, đầy đọa hai ta nhiều năm mất.

 

 

XV.

Что может быть на свете хуже
Семьи, где бедная жена
Грустит о недостойном муже
И днем и вечером одна;
Где скучный муж, ей цену зная
(Судьбу, однако ж, проклиная),
Всегда нахмурен, молчалив,
Сердит и холодно-ревнив!
Таков я. И того ль искали
Вы чистой, пламенной душой,
Когда с такою простотой,
С таким умом ко мне писали?
Ужели жребий вам такой
Назначен строгою судьбой?

 

XV.

Trong cuộc sống, hỏi có gì tồi tệ 

Hơn bất hạnh gia đình mà người vợ 

Khóc buồn phiền bởi chồng chẳng ra chồng 

Ngày rồi đêm vợ vò võ một mình;

Biết giá vợ, mà chồng hàng ngày oán hận 

(Vẫn tức tối than phiền, nguyền số phận),

Mặt cau cau có có, miệng lặng câm,

Luôn ghen tuông, hờn giận, lạnh tanh!

Tôi là vậy. Là người cô tìm được 

Bằng sáng rực tâm hồn, lửa trong tim hừng hực 

Khi mà cô với tấm lòng thật giản đơn,

Viết cho tôi, tỏ hơn người ở trí thông minh? 

Không có lẽ cuộc đời cô  chịu cực

Mang số kiếp đắm chìm trong khổ nhục?

XVI.

Мечтам и годам нет возврата;
Не обновлю души моей…
Я вас люблю любовью брата
И, может быть, еще нежней.
Послушайте ж меня без гнева:
Сменит не раз младая дева
Мечтами легкие мечты;
Так деревцо свои листы
Меняет с каждою весною.
Так, видно, небом суждено.
Полюбите вы снова: но…
Учитесь властвовать собою;
Не всякий вас, как я, поймет;
К беде неопытность ведет».

 

XVI.

Ước mơ, tháng năm một đi không trở lại;

Tôi không thể làm mới mình được mãi…

Tôi yêu cô giống anh chiều chuộng em gái thôi 

Và có khi, còn dễ chịu hơn rồi.

Nghe tôi nói: đừng tủi hờn giận dỗi 

Các cô trẻ thường luôn luôn thay đổi,

Nay ước mơ này mai có mộng mới khác luôn;

Giống hệt như cây cỏ thay lá non 

Cứ mỗi độ hàng năm mùa xuân đến.

Thì đã rõ, đấy là do trời cao muốn.

Rồi sau này sẽ có lúc cô yêu: nhưng …

Cô cũng nên học cách làm chủ bản thân;

Không phải mọi người hiểu cô, như tôi cả;

Non kinh nghiệm đưa cô vào tai họa”.

 


XVII.

Так проповедовал Евгений.
Сквозь слез не видя ничего,
Едва дыша, без возражений,
Татьяна слушала его.
Он подал руку ей. Печально
(Как говорится, машинально)
Татьяна, молча, оперлась,
Головкой томною склонясь;
Пошли домой вкруг огорода;
Явились вместе, и никто
Не вздумал им пенять на то:
Имеет сельская свобода
Свои счастливые права,
Как и надменная Москва.

 

XVII.

Evghênhi dốc hết lòng mình ra diễn tả.

Lệ giàn giụa, Tachiana không thấy gì rõ cả,

Thở đứt hơi, không dám phản đối nửa lời,

Nàng cứ nghe để chàng nói hết mà thôi,

Tay chàng đỡ nàng. Nhìn buồn trông thấy 

(Ta hay nói, người hệt như cái máy)

Tachiana im lặng dựa vào chàng,

Nàng nghiêng đầu, vẻ mệt mỏi mơ màng;

Hai người bước về nhà, đi quanh khu vườn nhỏ;

Cả hai tựa bên nhau, và không ai có thể 

Nghĩ đến điều trách cứ bởi lý do:

Tự do riêng cũng có nơi làng quê

Cho trai gái quyền đi lo hạnh phúc,

Giống thành phố Matxcơva kiêu kì mọi lúc.


XVIII.

Вы согласитесь, мой читатель,
Что очень мило поступил
С печальной Таней наш приятель;
Не в первый раз он тут явил
Души прямое благородство,
Хотя людей недоброхотство
В нем не щадило ничего:
Враги его, друзья его
(Что, может быть, одно и то же)
Его честили так и сяк.
Врагов имеет в мире всяк,
Но от друзей спаси нас, боже!
Уж эти мне друзья, друзья!
Об них недаром вспомнил я.

 

XVIII.

Bạn đọc của tôi ơi, chắc là rồi đồng ý,

Rằng anh bạn của ta đã xử lý

Rất đáng yêu với Tanhia đúng lúc buồn phiền;

Ở miền quê, đây không phải lần đầu tiên,

Chàng thẳng thắn tỏ ra mình cao thượng,

Tuy rằng có rất nhiều người độc miệng 

Không tiếc thương bất cứ mục gì nơi chàng:

Nào kẻ thù, nào bè bạn đường hoàng 

(Rằng có lẽ, bạn hay thù thì có gì khác biệt )

Nhiều người trách móc chàng không biết mệt.

Trên đời này chẳng ai hết kẻ thù,

Nhưng  Chúa ơi, hãy cứu ta khỏi đám bạn bè!

Thật quá đáng, họ cùng phe đấy chứ!
Nhắc tới họ, đâu là ngẫu nhiên, vô cớ.

XIX.

А что? Да так. Я усыпляю
Пустые, черные мечты;
Я только в скобках замечаю,
Что нет презренной клеветы,
На чердаке вралем рожденной
И светской чернью ободренной,
Что нет нелепицы такой,
Ни эпиграммы площадной,
Которой бы ваш друг с улыбкой,
В кругу порядочных людей,
Без всякой злобы и затей,
Не повторил сто крат ошибкой;
А впрочем, он за вас горой:
Он вас так любит… как родной!

 

XIX.

Thế sao nhỉ? Thì ra. Tôi ru ngủ 

Bao ý nghĩ tối đen, trống không cả;

Tôi chỉ cho vào ngoặc nhận xét thêm,

Không có lời vu khống nào đáng khinh hơn 

Được nói ra trên gác xép của tên nói láo,

Được giới thượng lưu bôi tro, trát chấu, 

Rằng không hề có chuyện xấu xí nào,

Không có bài thơ trào phúng nhạt phèo,

Bạn ta lại nói ra, mà đều cười mỉm,

Ngay trong giới bạn bè toàn người nghiêm chỉnh,

Mà không hề có giận dỗi hay ác ý đằng sau,

Trắng trợn làm sai tới trăm lần nào ít đâu ;

Mà tóm lại, bạn bảo vệ ta như trái núi:

Yêu ta thế, như người nhà sao gần gũi!


XX.

Гм! гм! Читатель благородный,
Здорова ль ваша вся родня?
Позвольте: может быть, угодно
Теперь узнать вам от меня,
Что значит именно 
родные.
Родные люди вот какие:
Мы их обязаны ласкать,
Любить, душевно уважать
И, по обычаю народа,
О Рождестве их навещать,
Или по почте поздравлять,
Чтоб остальное время года
Не думали о нас они…
И так, дай бог им долги дни!

 

XX.

Hừm! Thưa bạn đọc, những người đầy cao thượng,

Người thân, họ hàng nhà ta đều khỏe mạnh?

Cho phép tôi chỉ là tiện lời thôi,

Ngay bây giờ bạn muốn biết ý kiến tôi,

Người thân thuộc có nghĩa gì trên đời này nhỉ.

Họ hàng ruột thịt là người để:

Ta phải lo vỗ về, thăm đúng lễ họ rồi 

Phải yêu thương, kính trọng phần hồn tuyệt vời 

Cứ theo phong tục trong dân gian thường hay nói,

Cứ lễ Phục sinh ta phải đi thăm hỏi,

Hay thiếp mừng gửi bưu điện tới ngay,

Để thời gian còn lại trong năm nay

Người ruột thịt không bận tâm mong mỏi…

Vậy Trời hãy cho họ an nhiên muôn tuổi!

 

XXI.

Зато любовь красавиц нежных
Надежней дружбы и родства:
Над нею и средь бурь мятежных
Вы сохраняете права.
Конечно так. Но вихорь моды,
Но своенравие природы,
Но мненья светского поток…
А милый пол, как пух, легок.
К тому ж и мнения супруга
Для добродетельной жены
Всегда почтенны быть должны;
Так ваша верная подруга
Бывает вмиг увлечена:
Любовью шутит сатана.

 

XXI.

Nhưng bù lại, nữ bạn tình luôn hiền dịu 

Đáng tin cậy hơn bạn bè, ruột thịt:

Dù bão giông hay trục trặc tình yêu,

Bạn giữ nguyên quyền bính được ít nhiều.

Đương nhiên vậy. Nhưng bão thời trang kéo lại,

Nhưng trời đất luôn tác oai tác quái,

Nhưng miệng người đời như đại hổng thủy cuốn bay…

Vậy mà người ta yêu dễ bị gió lung lay

Thêm vào nữa, ngay chồng nêu ý kiến,

Thì người vợ luôn có lòng hướng thiện

Vẫn đề cao uy chồng nói đến mức cần;

Sao vợ ta chung thủy, có chồng gần

Chỉ nháy mắt đã chuồn cùng người khác:

Quỷ Sa tăng thích đem tình yêu ra đùa ác.

XXII.

Кого ж любить? Кому же верить?
Кто не изменит нам один?
Кто все дела, все речи мерит
Услужливо на наш аршин?
Кто клеветы про нас не сеет?
Кто нас заботливо лелеет?
Кому порок наш не беда?
Кто не наскучит никогда?
Призрака суетный искатель,
Трудов напрасно не губя,
Любите самого себя,
Достопочтенный мой читатель!
Предмет достойный: ничего
Любезней верно нет его.

 

XXII.

Yêu ai nhỉ? Biết tin ai cho chắc?

Ai duy nhất trong đời ta không phản trắc?

Ai đong đo mọi lời nói, việc làm 

Nhất nhất đều theo thước đo chuẩn của chàng?

Với ta đó, ai không màng đặt điều vô lối

Ai chăm sóc, vỗ về ta sớm tối ?

Thấy lỗi lầm của ta mà vẫn bỏ qua?

Ai không làm ta lâm tâm trạng buồn lo?

Kẻ phí sức cố tìm ra ảo ảnh,

Bao công sức chẳng đang tay loại thẳng 

Bạn hãy yêu bản thân mình trước, gắng nghe tôi 

Ơi bạn yêu đáng kính của tôi ơi !

Ta là đối tượng được yêu xứng đáng thật

Đúng là bản thân ta luôn cao giá nhất.


XXIII.

Что было следствием свиданья?
Увы, не трудно угадать!
Любви безумные страданья
Не перестали волновать
Младой души, печали жадной;
Нет, пуще страстью безотрадной
Татьяна бедная горит;
Ее постели сон бежит;
Здоровье, жизни цвет и сладость,
Улыбка, девственный покой,
Пропало все, что звук пустой,
И меркнет милой Тани младость:
Так одевает бури тень
Едва рождающийся день.

 

XXIII.

Họ vừa gặp, còn gì lưu lại đấy?

Muốn đoán hả, Trời ơi, đâu khó vậy!

Đời khổ đau điên dại đều tại vì tình

Luôn khiến nàng lo lắng không ngừng 

Tâm hồn trẻ, nỗi buồn đeo bám chặt;

Không, Tachiana không vui, lòng càng cháy rực 

Yêu đơn phương tuyệt vọng, sục sôi hơn;

Nằm  trên giường, mắt vẫn mở chong chong

Đời muôn sắc, vị ngọt ngào cùng sức khỏe,

Môi cười nụ, sự bình yên cô gái trẻ 

Tan biến rồi, không để lại dấu vết cỏn con,

Sức trẻ Tachiana đáng yêu, tàn úa, héo hon:

Giông bão tới phủ đen ngòm trùm kín

Lên ngày mới vừa mon men chớm đến.

 


XXIV.

Увы, Татьяна увядает,
Бледнеет, гаснет и молчит!
Ничто ее не занимает,
Ее души не шевелит.
Качая важно головою,
Соседи шепчут меж собою:
Пора, пора бы замуж ей!..
Но полно. Надо мне скорей
Развеселить воображенье
Картиной счастливой любви.
Невольно, милые мои,
Меня стесняет сожаленье;
Простите мне: я так люблю
Татьяну милую мою!

 

XXIV.

Ôi trời hỡi, Tachiana càng héo quắt,

Da xanh mướt, lửa lụi dần, câm lặng ngắt!

Không có gì còn lôi cuốn được nàng,

Tâm hồn nàng không rung động rõ ràng.

Lắc đầu với bộ dạng đầy quan trọng,

Hàng xóm nói với nhau nhỏ giọng:

Đã đến ngày phải tống đi gả chồng thôi!…

Nhưng đủ rồi. Tôi có việc làm cho coi

Giúp các bạn vui hơn, sục sôi đầu tưởng tượng,

Phải miêu tả mối tình tràn niềm vui đang đượm

Rất tự nhiên, ơi các bạn đáng yêu,

Tôi thấy như có gì nuối tiếc nhiều 

Hãy tha lỗi, vì tôi càng thấy lạ

Nàng Tachiana thân thương làm tôi yêu quá!


XXV.

Час от часу плененный боле
Красами Ольги молодой,
Владимир сладостной неволе
Предался полною душой.
Он вечно с ней. В ее покое
Они сидят в потемках двое;
Они в саду, рука с рукой,
Гуляют утренней порой;
И что ж? Любовью упоенный,
В смятенье нежного стыда,
Он только смеет иногда,
Улыбкой Ольги ободренный,
Развитым локоном играть
Иль край одежды целовать.

 

XXV.

Vladimir mỗi ngày thêm lôi cuốn

Bởi Ônga đẹp, trẻ trung, hấp dẫn,

Chàng tập trung dồn hết tâm hồn vào

Mất tự do sao vẫn thấy ngọt ngào.

Khi ở lại trong phòng, chỉ còn đôi trai gái,

Họ tìm chỗ tối ngồi tâm sự mãi;

Khi ra vườn, họ bước tay trong tay,

Cùng dạo chơi lúc trời sớm ban mai;

Và sao nhỉ? Được tình yêu cổ vũ

Nhưng vẫn giữ e dè, ngại ngùng rõ,

Đôi khi chàng tỏ ra có mạnh dạn hơn,

Ônga cười cười cho phép, động viên luôn,

Chàng mới dám nghịch làn tóc quăn để thả 

Hay hôn nhẹ mép áo thôi là đã quá.




XXVI.

Он иногда читает Оле
Нравоучительный роман,
В котором автор знает боле
Природу, чем Шатобриан,
А между тем две, три страницы
(Пустые бредни, небылицы,
Опасные для сердца дев)
Он пропускает, покраснев.
Уединясь от всех далеко,
Они над шахматной доской,
На стол облокотясь, порой
Сидят, задумавшись глубоко,
И Ленской пешкою ладью
Берет в рассеяньи свою.

 

XXVI.

Chàng đọc truyện cho Ônga nghe đôi lúc

Cuốn tiểu thuyết hơi thiên về đạo đức,

Qua truyện này, tác giả chứng tỏ rằng 

Ông hiểu sâu bản chất người và vật hơn Satôbrian,

Ngay trong truyện có hai ba trang chàng chú ý

(In toàn truyện hoang đường và nhảm nhí 

Là thứ không nên đọc cho các nàng)

Chàng bỏ qua vì thấy mình mặt đỏ khác thường.

Có những lúc, chỉ còn đôi trai gái 

Hai bạn trẻ chơi cờ vua vài ván

Tay chống bàn, thấy cũng nhiều khi

Ngồi mà đầu óc trầm mặc, nghĩ suy,

Chàng đi tốt bắt quân ta là tượng 

Chơi không tập trung, nghĩ suy đang bay lượn.

 


XXVII.

Поедет ли домой; и дома
Он занят Ольгою своей.
Летучие листки альбома
Прилежно украшает ей:
То в них рисует сельски виды,
Надгробный камень, храм Киприды,
Или на лире голубка
Пером и красками слегка;
То на листках воспоминанья
Пониже подписи других
Он оставляет нежный стих,
Безмолвный памятник мечтанья,
Мгновенной думы долгий след,
Все тот же после многих лет.

 

XXVII 

Dù đang bận đi đâu và ở nhà chăng nữa,

Trong đầu óc chàng chỉ có Ônga trong tâm tưởng.

Những trang rời nằm trong cuốn album

Chàng ra tay trang trí hộ nàng thêm:

Lúc vẽ cảnh đồng quê cho rực rỡ,

Nào những điện thờ Kiprida, nào bia mộ,

Hay có khi vẽ chim câu đậu trên đàn thơ 

Bằng bút trơn, chỉ phơn phớt màu tô;

Lúc có trang ghi ra toàn hồi ức 

Ngay phía dưới chữ ký tên người khác,

Chàng chép vài vần thơ khá dễ nghe,

Kỷ niệm không lời về những ước mơ xưa,

Những dấu vết lâu dài của nghĩ suy thi thoảng 

Vẫn nguyên vẹn trải qua nhiều năm tháng.

XXVIII.

Конечно, вы не раз видали
Уездной барышни альбом,
Что все подружки измарали
С конца, с начала и кругом.
Сюда, назло правописанью,
Стихи без меры, по преданью
В знак дружбы верной внесены,
Уменьшены, продолжены.
XНа первом листике встречаешь
Qu’écrirez-vous sur ces tablettes;
И подпись: 
t. à v. Annette;[* 2]
А на последнем прочитаешь:
«Кто любит более тебя,
Пусть пишет далее меня».

 

XXVIII.

Điều chắc chắn, quý vị nhiều lần thấy nhỉ

Cuốn album của cô nàng tỉnh lẻ,

Mà các cô bạn gái viết, vẽ lăng nhăng 

Từ trang đầu tới trang cuối album.

Chép cho đủ, dù tùm lum lỗi sai chính tả

Truyện thì kể, thơ không vần, toàn linh tinh cả 

Đều ghi vào như dấu hiệu tình bạn thủy chung 

Bài ngắn hơn, bài kéo dài lung tung.

Ngay trang nhất, ta càng hay gặp thấy 

Bạn sẽ viết gì kín bao trang giấy;

Rồi ký thêm: Annheta của bạn biết mấy thân thương;

Tờ cuối cùng ta lại đọc ra thêm:

”Nếu ai đó yêu thương bạn nhiều hơn hết,

Để người ấy viết dài hơn tôi đã viết”.

 

(10-11. Qu’écrirez-vous sur ces tablettes;
И подпись: t. à v. Annette;)


XXIX.

Тут непременно вы найдете
Два сердца, факел и цветки;
Тут верно клятвы вы прочтете
В любви до гробовой доски;
Какой-нибудь пиит армейской
Тут подмахнул стишок злодейской.
В такой альбом, мои друзья,
Признаться, рад писать и я,
Уверен будучи душою,
Что всякий мой усердный вздор
Заслужит благосклонный взор,
И что потом с улыбкой злою
Не станут важно разбирать,
Остро иль нет я мог соврать.

 

XXIX 

Mở album chắc bạn luôn nhìn thấy 

Hình hai trái tim, bông hoa và đuốc cháy;

Và có khi bạn đọc đúng lời thề

Thề yêu nhau đến tận lúc xuống mồ;

Một thi sĩ quân nhân từng có viết

Đã chèn xỏ bài thơ ác ý nhất 

Loại album này, xin thưa tất bạn bè,

Thú thật rằng, cho viết, chẳng dám chê

Tôi tin chắc: tấm lòng tôi chân thật 

Chuyện lặt vặt tôi kể đều ghi từ gan ruột

Đáng được nhìn nhận thiện chí hơn,

Và mai sau, chủ có độc ác cười chăng 

Sẽ không vểnh mặt vênh vênh phán xét,

Tôi đã kể lăng nhăng hay sâu sắc.


XXX.

Но вы, разрозненные томы
Из библиотеки чертей,
Великолепные альбомы,
Мученье модных рифмачей,
Вы, украшенные проворно
Толстого кистью чудотворной
Иль Баратынского пером,
Пускай сожжет вас божий гром!
Когда блистательная дама
Мне свой in-quarto подает,
И дрожь и злость меня берет,
И шевелится эпиграмма
Во глубине моей души,
А мадригалы им пиши!

 

XXX.

Nhưng thưa các bạn, những sách in rời rạc

Từ các loại thư viện ma quỷ khác,

Là những trang album quá tuyệt vời,

Tác giả hành mình bằng những vần khác người 

Các album được trang điểm đầy khéo léo 

Nhờ cây bút vẽ của Tôlxtôi kỳ diệu 

Hay dưới ngòi bút của Baratưnsky

Hãy để trời nổi sấm thiêu đốt bạn đi!

Khi có quý cô người trông lộng lẫy

Đưa tôi một bản in-quarto nào đấy,

Tôi bực mình, người thấy run lên,

Và bài thơ trào phúng lay động sâu hơn 

Trong sâu thẳm hồn tôi nơi tận đáy,

Bạn hãy viết tụng ca cho các thi phẩm ấy!

XXXI.
Не мадригалы Ленской пишет
В альбоме Ольги молодой;
Его перо любовью дышет,
Не хладно блещет остротой;
Что ни заметит, ни услышит
Об Ольге, он про то и пишет:
И полны истины живой
Текут элегии рекой.
Так ты, Языков вдохновенный,
В порывах сердца своего,
Поёшь, бог ведает, кого,
И свод элегий драгоценный
Представит некогда тебе
Всю повесть о твоей судьбе.

XXXI.
Lensky chẳng viết thơ ca ngợi
Vào album của Ônga trẻ tuổi;
Ngòi bút chàng đầy hơi thở tình yêu,
Đang nhiệt tình khoe sắc sảo làm sao;
Về mọi thứ chàng nghe và nhìn thấy
Về Ônga, nên chàng viết như vậy:
Thơ tràn đầy một sự thật sục sôi
Đầy ắp mùi bi ca như sông nước chảy xuôi.
Như thi sỹ Yadưkốp đang say hứng khởi,
Trong cơn xúc động con tim mình sôi nổi,
Bạn ngợi ca, có Trời hiểu, về ai nào
Và cả chùm thơ bi thương quý biết bao
Sẽ thể hiện rõ ràng cho bạn thấy
Cả câu chuyện phận đời của bạn đấy.

XXXII.
Но тише! Слышишь? Критик строгой
Повелевает сбросить нам
Элегии венок убогой,
И нашей братье рифмачам
Кричит: «да перестаньте плакать,
И все одно и то же квакать,
Жалеть о прежнем, о былом:
Довольно, пойте о другом!»
— Ты прав, и верно нам укажешь
Трубу, личину и кинжал,
И мыслей мертвый капитал
Отвсюду воскресить прикажешь:
Не так ли, друг? — Ничуть. Куда!
«Пишите оды, господа,

XXXII.
Nhưng im đã! Nghe không? Nhà phê bình nghiêm khắc
Đang ra lệnh cho ta phải bỏ ngay lập tức
Vòng hoa thơ bi ca quá nghèo nàn,
Và tất anh em ta theo phái mải tìm vần
Đang lên tiếng: “Xin các vị đừng nên than khóc,
Cùng một chuyện, vẫn nỉ non sướt mướt
Toàn tiếc thương chuyện quá khứ ngày xưa:
Thôi đủ rồi, hãy hát chuyện khác đi!”
Bạn nói đúng, bạn chỉ ra chính xác
Nào mặt nạ, kèn đồng và dao găm sắc
Một đống suy nghĩ đã chết cứng còn nằm kia,
Đi đến đâu, cũng ra lệnh phải hồi sinh kìa:
Phải không đấy, bạn ơi? -Không hề, Đâu có!
Thưa quý vị, hãy viết toàn thơ ca tụng nhớ,

XXXIII.
Как их писали в мощны годы,
Как было встарь заведено…»
— Одни торжественные оды!
И, полно, друг; не все ль равно?
Припомни, что сказал сатирик!
Чужого толка хитрый лирик
Ужели для тебя сносней
Унылых наших рифмачей? —
«Но все в элегии ничтожно;
Пустая цель ее жалка;
Меж тем цель оды высока
И благородна…» Тут бы можно
Поспорить нам, но я молчу;
Два века ссорить не хочу.

XXXIII.
Như thơ tụng ca được viết thời gian khó,
Như hồi cũ, ngày xưa từng đã có …”
-Chỉ có thơ tụng ca mới trang trọng mà thôi!
Và đủ rồi, bạn ơi; thế chẳng phải rồi ?
Hãy nhớ lại, nhà thơ trào phúng khuyên gì trước !
Nhà thơ trữ tình láu cá thuộc dòng nghĩ khác
Có lẽ nào, với anh lại dễ chịu hơn
Kẻ suốt ngày kiếm tìm từ hợp vần phát buồn?-
Nhưng mọi thứ trong bi ca không là gì cả;
Mục đích rỗng không hề đáng thương quá;
Trong khi thơ tụng ca có mục đích đẹp riêng
Và thanh cao… Đây là lúc tiện cho ta luôn
Có thể cứ tranh luận, nhưng tôi xin im kỹ;
Tôi không muốn cãi tranh nhau liền hai thế kỷ.

XXXIV.

Поклонник славы и свободы,
В волненьи бурных дум своих
Владимир и писал бы оды,
Да Ольга не читала их.
Случалось ли поэтам слезным
Читать в глаза своим любезным
Свои творенья? Говорят,
Что в мире выше нет наград.
И впрямь, блажен любовник скромный,
Читающий мечты свои
Предмету песен и любви,
Красавице приятно-томной!
Блажен… хоть, может быть, она
Совсем иным развлечена.


XXXIV.

Luôn thần tượng vinh quang và tự do trên hết,

Trong đầu óc chàng sóng dâng trào bao suy xét

Vladimir có thể viết thơ tụng ca,

Nhưng thơ này không thu hút chú ý của Ônga.

Có phải các nhà thơ mau nước mắt

Thường chỉ đọc thơ viết cho người mình yêu nhất,

Họ nói rằng khi sống ở trên đời 

Đây là phần thưởng không thể lớn hơn rồi 

Và nói thẳng, gặp may là người khiêm nhường thật 

Có dịp nói ra ước mơ của mình trước nhất 

Cho bóng hổng để tặng thơ với yêu thương 

Cho chính nàng đang mệt mỏi, dịu dàng !

Ôi hạnh phúc, dù nhiều khi người đẹp

Lại vui sướng hoàn toàn vì điều kia, mới tuyệt.

 

XXXV.

Но я плоды моих мечтаний
И гармонических затей
Читаю только старой няне,
Подруге юности моей,
Да после скучного обеда
Ко мне забредшего соседа,
Поймав нежданно за полу,
Душу трагедией в углу,
Или (но это кроме шуток),
Тоской и рифмами томим,
Бродя над озером моим,
Пугаю стадо диких уток:
Вняв пенью сладкозвучных строф,
Они слетают с берегов.

 

XXXV.

Nhưng mơ ước của tôi sinh ra quả ngọt,

Những suy nghĩ trong đầu tôi hoà hợp,

Tôi đọc cho u già buộc phải nghe,

U là bạn tuổi thơ tôi đã từ xưa,

Thường sau bữa ăn ta ngồi buồn chán,

Ở gần đến tìm ta bất ngờ là người bạn

Thật tình cờ ta túm được vạt áo ông,

Lôi vào ngồi dốc tâm sự đến cùng, 

Hay (nhưng ngoại trừ việc đùa cợt )

Đang mệt mỏi vì buồn và tìm vần cho hợp 

Đang lang thang bên hồ nước đẹp ở gần,

Ta làm đàn vịt trời hoảng sợ hết hồn:

Khi hiểu được thơ xuống trầm lên bổng,

Đàn vịt rủ nhau vỗ cánh bay đi thẳng.

 


XXXVI.  XXXVII

А что ж Онегин? Кстати, братья!
Терпенья вашего прошу:
Его вседневные занятья
Я вам подробно опишу.
Онегин жил анахоретом;
В седьмом часу вставал он летом
И отправлялся налегке
К бегущей под горой реке;
Певцу Гюльнары подражая,
Сей Геллеспонт переплывал,
Потом свой кофе выпивал,
Плохой журнал перебирая,
И одевался…

 

XXXVI. XXXVII

Thế Ônhêghin thì sao ? Thưa chiến hữu!

Xin nói: hãy kiên gan thêm tý nữa:

Những việc chàng làm vẫn diễn hàng ngày 

Tôi xỉn hầu chuyện kể lại đủ đầy.

Ônhêghin hệt ẩn sỹ một mình trong rừng vắng;

Chàng thức giấc, mùa hè, bảy giờ sáng

Và tiếp sau, xuất phát, bước từ từ 

Tới dòng sông nơi chân núi xa mờ;

Chàng bắt chước Bairơn, người ngợi ca Gyulnara đấy 

Từng bơi vượt vịnh Gellespont ngày trước ấy 

Rồi uống xong cà phê để dở dang,

Tay lần tìm một tạp chí viết lan man,

Rồi vội mặc cho nhanh quần áo mới…

XXXVIII.  XXXIX

Прогулки, чтенье, сон глубокий,
Лесная тень, журчанье струй,
Порой белянки черноокой
Младой и свежий поцелуй,
Узде послушный конь ретивый,
Обед довольно прихотливый,
Бутылка светлого вина,
Уединенье, тишина:
Вот жизнь Онегина святая;
И нечувствительно он ей
Предался, красных летних дней
В беспечной неге не считая,
Забыв и город, и друзей,
И скуку праздничных затей.

 

XXXVIII.XXXIX.

Hết đi dạo, giấc ngủ sâu, say đọc sách, 

Bóng cây mát, nghe nước đang róc rách,

Đôi khi là nụ hôn tươi mát, trẻ trung 

Của cô em da trắng bóc, mắt nhung

Ngựa cần mẫn nghe lời, luôn theo lệnh,

Bữa ăn buổi trưa thường là khó tính,

Chai rượu vang trông sóng sánh trên bàn,

Cảnh đời đơn độc mà thật thanh bình;

Là cuộc sống của Ônhêghin đầy quý phái:

Chàng hết sức duy trì nền nếp mãi 

Chưa kể bao ngày hè đẹp đẽ đã qua

Trong niềm vui, hoan lạc khỏi đắn đo,

Chàng quên hết phố phường và bạn hữu 

Bao ý tưởng tươi vui thành buồn rầu rĩ.


XL.

Но наше северное лето,
Карикатура южных зим,
Мелькнет и нет: известно это,
Хоть мы признаться не хотим.
Уж небо осенью дышало,
Уж реже солнышко блистало,
Короче становился день,
Лесов таинственная сень
С печальным шумом обнажалась,
Ложился на поля туман,
Гусей крикливых караван
Тянулся к югу: приближалась
Довольно скучная пора;
Стоял ноябрь уж у двора.

 

XL.

Nhưng mùa hạ nước ta, nơi phương Bắc,

Giống cảnh đông ở miền Nam trong tranh hài nhất

Mới thoảng qua đã hết: điều ấy ai chả hay,

Dù ta không muốn thừa nhận điều này.

Hương thu tỏa đất trời nghe thoang thoảng,

Ngày mỗi hiếm ánh mặt trời chiếu sáng,

Ngày một co ngắn hơn đã thấy rõ ràng,

Cảnh mùa thu huyền bí ở trong rừng 

Lộ dần rõ với thanh âm càng buồn bã,

Sương buông xuống trải khắp đồng, khắp ngả,

Ngỗng từng đàn nháo nhác rủ lên đường 

Bay về phương Nam: lại đã đến gần

Một mùa - những tháng ngày hơi buồn tẻ;

Tháng mười một đang đứng chờ ngoài cửa.

 


XLI.

Встает заря во мгле холодной;
На нивах шум работ умолк;
С своей волчихою голодной
Выходит на дорогу волк;
Его почуя, конь дорожный
Храпит — и путник осторожный
Несется в гору во весь дух;
На утренней заре пастух
Не гонит уж коров из хлева,
И в час полуденный в кружок
Их не зовет его рожок;
В избушке распевая, дева[1]
Прядет, и, зимних друг ночей,
Трещит лучинка перед ней.

 

XLI.

Bình minh bắt đầu trong đêm lành lạnh;

Trên đồng ruộng tiếng người làm tắt lặng;

Sói cái đang đói bụng cồn cào,

Cùng sói chồng ra đường kiếm mồi nháo nhào;

Nghe hơi sói, ngựa trên đường dừng bước,

Thở nặng nhọc và người đi đường đầy cảnh giác

Cho xe lao nhanh lên núi, căng hết sức ra;

Trời ửng hồng dần sáng lúc ban mai,

Người chăn súc vật giữ bò trong chuồng mãi 

Và tới lúc khi giờ trưa đã lại,

Tiếng tù và không gọi chúng quay về.

Ngồi trong nhà, cô gái hát lê thê 

Mải dệt vải trong đêm đông lạnh ngắt

Là bạn với lửa đèn kêu lách tách.

XLII

И вот уже трещат морозы
И серебрятся средь полей…
(Читатель ждет уж рифмы розы;
На, вот возьми ее скорей!)
Опрятней модного паркета
Блистает речка, льдом одета.
Мальчишек радостный народ
Коньками звучно режет лед;
На красных лапках гусь тяжелый,
Задумав плыть по лону вод,
Ступает бережно на лед,
Скользит и падает; веселый
Мелькает, вьется первый снег,
Звездами падая на брег.

 

XLII

Trời đông lạnh mạnh dần, ngày một rét,

Ánh bạc phủ cánh đồng nhìn trắng toát…

(Chắc bạn chờ từ có vần ét lâu rồi;

Nào bạn ra nhận vần đó ngay thôi!)

Trông sạch sẽ hơn sàn gỗ mốt nhất

Là mặt nước sông long lanh băng phủ hết.

Đám trẻ con mới vui sướng hân hoan

Giày trượt băng cắt băng cứng nghe âm vang;

Chú ngỗng lặc lè trên đôi chân đỏ chót,

Chú cứ nghĩ được bơi giữa dòng nước mát,

Thận trọng chân bước xuống mặt băng,

Trơn trượt chân, ngã lăn; chở tin vui luôn

Tuyết đầu mùa quay tròn, bông tuyết bay thấp thoáng,

Như sao rụng, chọn hai bờ rơi xuống.


XLIII.

В глуши что делать в эту пору?
Гулять? Деревня той порой
Невольно докучает взору
Однообразной наготой.
Скакать верхом в степи суровой?
Но конь, притупленной подковой
Неверный зацепляя лед,
Того и жди, что упадет.
Сиди под кровлею пустынной,
Читай: вот Прадт, вот W. Scott.
Не хочешь? — поверяй расход,
Сердись иль пей, и вечер длинный
Кой-как пройдет, и завтра тож,
И славно зиму проведешь.

 

XLIII.

Làm gì nhỉ khi ở nơi hoang vắng ?

Đi dạo hả? Ở làng quê hẻo lánh,

Rất tự nhiên, cảnh vật thấy phát buồn,

Đâu cũng toàn cây cối xơ xác, trụi trần.

Đua ngựa hử giữa cánh đồng khốc liệt?

Nhưng móng ngựa đóng từ lâu giờ mòn vẹt

Chân kém rồi, sẽ vấp kẹt vào băng,

Chỉ vậy thôi, ngựa đổ ngã ra luôn.

Vậy ngồi chết trong nhà nơi heo hắt,

Tìm sách đọc: kìa Pradt, kìa W. Scott.

Không muốn à? - thì kiểm đếm sổ thu chi,

Dù bực hay uống rượu, buổi tối vẫn lê thê 

Sẽ đại khái trôi qua và mai kia lại thế,

Ta cứ sống qua mùa đông huy hoảng nhé.


XLIV.

Прямым Онегин Чильд Гарольдом
Вдался в задумчивую лень:
Со сна садится в ванну со льдом,
И после, дома целый день,
Один, в расчеты погруженный,
Тупым кием вооруженный,
Он на бильярде в два шара
Играет с самого утра.
Настанет вечер деревенский:
Бильярд оставлен, кий забыт,
Перед камином стол накрыт,
Евгений ждет: вот едет Ленской
На тройке чалых лошадей;
Давай обедать поскорей!

 

XLIV

Ônhêghin thật hoá thành Trild Garald 

Chìm đắm mãi vào trầm tư lười nhác:

Ngủ dậy xong, vào bồn tắm nước lạnh rồi

Và tiếp sau, ở nhà trọn một ngày trời 

Ngồi một chỗ, vùi đầu xem phần thu nhập,

Tay cầm gậy bi-a đầu mòn tù thật

Chơi bi-a loại chọc bóng đôi ngay, 

Mới sớm ra, chàng đã chơi bi-a.

Chiều làng quê chuyển dần sang tối hẳn:

Bỏ bi-a, cũng quên luôn gậy bi-a đầu phẳng,

Ngay trước lò, người nhà dọn sẵn bàn ăn,

Evghênhi đang chờ: Lensky sẽ ghé thăm

Xe tam mã đóng ngựa lông tro xám;

Thôi mời cả nhà vào ăn cho sớm!

XLV.

Вдовы Клико или Моэта
Благословенное вино
В бутылке мерзлой для поэта
На стол тотчас принесено.
Оно сверкает Ипокреной[3];
Оно своей игрой и пеной
(Подобием того-сего)
Меня пленяло: за него
Последний бедный лепт, бывало,
Давал я. Помните ль, друзья?
Его волшебная струя
Рождала глупостей не мало,
А сколько шуток и стихов,
И споров, и веселых снов!

 

XLV.

Mác bà goá Klikô hay Môiet

Rượu vang nổi danh người người mê hết

Đựng trong chai để lạnh thết nhà thơ 

Gia nhân ngay lập tức đem rượu ra.

Rượu sóng sánh, gợi nguồn thi ca hứng khởi;

Trông óng ánh, bọt đầy, tăm đang sủi

(Hoặc thứ gì tương tự kiểu vậy rồi)

Tôi say mê: vì chính rượu này thôi

Nhiều khi vét đến đồng xu sau cùng, bất hạnh,

Bạn có nhớ? Thưa anh em bè bạn,

Rượu thần tiên rót thành sợi lụa dài

Gây biết bao chuyện ngốc nghếch hoài,

Đùa châm chọc thâm sâu, ý thơ đầy tươi trẻ,

Rồi tranh cãi liên miên, bao mơ mòng vui vẻ!


XLVI.

Но изменяет пеной шумной
Оно желудку моему,
И я 
Бордо благоразумный
Уж нынче предпочел ему.
К 
Аи я больше не способен;
Аи любовнице подобен
Блестящей, ветреной, живой,
И своенравной, и пустой…
Но ты, 
Бордо, подобен другу,
Который, в горе и в беде,
Товарищ завсегда, везде,
Готов нам оказать услугу
Иль тихий разделить досуг.
Да здравствует 
Бордо, наш друг!

 

XLVI.

Nhưng chính rượu vang bằng âm thanh, bọt sủi

Ảnh hưởng tới dạ dày tôi đến khổ,

Bourdeaux là đồ uống hợp lý bao nhiêu 

Và ngày nay, tôi chuộng rượu đó hơn nhiều.

Với mác Ai, chẳng bao giờ coi mình hợp mãi;

Rượu Ai giống như người bạn gái 

Vừa cả tin, vừa rực chói, tinh thông,

Cá tính giầu, độc đáo, nhưng rỗng không…

Còn Bourdeaux mới xứng danh là bạn 

  ta gặp khổ đau hay hoạn nạn, 

Luôn bên ta, ở mọi lúc , mọi nơi,

Luôn sẵn sàng chia sẻ, giúp đỡ rồi

Hay lặng lẽ, cùng ta, ngồi rỗi rãi.

Rượu Bourdeaux muôn năm, ơi bạn thân mãi mãi!

       

XLVII.

Огонь потух; едва золою
Подернут уголь золотой;
Едва заметною струею
Виется пар, и теплотой
Камин чуть дышит. Дым из трубок
В трубу уходит. Светлый кубок
Еще шипит среди стола.
Вечерняя находит мгла…
(Люблю я дружеские враки
И дружеский бокал вина
Порою той, что названа
Пора меж волка и собаки,
А почему, не вижу я.)
Теперь беседуют друзья:

 

XLVII.

Lửa đã tắt, chỉ còn tro tàn lụi,

Viên than hồng bị màng mỏng trùm lại;

Như một luồng khí lặng lẽ bay lên

Đưa làn hơi nước cùng hơi ấm lên trên 

Lò sưởi thở nhẹ nhàng. Từ tẩu thoát ra khói thuốc ,

Hút vào ống lên cao. Làn khói sáng bốc,

Kêu khàn khàn chính giữa mặt bàn.

Chiều tan dần vào bóng tối mênh mang…

(Tôi ưa thích chuyện lan man cùng bè bạn

Nhấp một chén rượu vang đầy thân thiện

Ở khoảng thời gian ta chuộng gọi bằng:

Giờ chạng vạng hay lúc gà lên chuồng,

Vì sao gọi thế này, tôi chưa hề hiểu thấu…)

Nay là lúc, hai người ngồi tán gẫu:


XLVIII.
”Ну, что соседки? Что Татьяна?
Что Ольга резвая твоя?»
— Налей еще мне полстакана…
Довольно, милый… Вся семья
Здорова; кланяться велели.
Ах, милый, как похорошели
У Ольги плечи, что за грудь!
Что за душа!.. Когда-нибудь
Заедем к ним; ты их обяжешь;
А то, мой друг, суди ты сам:
Два раза заглянул, а там
Уж к ним и носу не покажешь.
Да вот… какой же я болван!
Ты к ним на той неделе зван. —


XLVIII.
“Thế hàng xóm ra sao? Cô Tachiana ấy?
Nàng Ônga nhanh nhẹn của anh sao rồi đấy?”
-Rót cho tôi thêm nửa cốc là được rồi …
Thôi, thôi đi, bạn yêu hỡi… Mọi người
Đều khỏe cả; Bảo tôi gửi lời chào hộ.
Bạn yêu hỡi, đôi vai em Ônga rõ
Ngày một xinh ra! Sao mà đẹp cặp tuyết lê!
Tâm hồn nàng càng tuyệt!.. Chọn hôm nào đi
Ta sẽ ghé thăm luôn; Anh còn nợ họ đấy;
Bạn yêu của tôi ơi, thôi thì tuỳ bạn vậy
Bạn đến đôi ba lần, rồi sau thấy mất tăm,
Không một lần lai vãng ghé qua thăm.
Đúng như vậy… tôi thật là lăng băng quá!
Tuần sau nữa, anh là khách mời thăm họ nhé.-


XLIX.
”Я?» — Да, Татьяны именины
В субботу. Олинька и мать
Велели звать, и нет причины
Тебе на зов не приезжать. —
«Но куча будет там народу
И всякого такого сброду…»
— И, никого, уверен я!
Кто будет там? своя семья.
Поедем, сделай одолженье!
Ну, что ж? — «Согласен».
Ну, что ж?— Как ты мил! —
При сих словах он осушил
Стакан, соседке приношенье,
Потом разговорился вновь
Про Ольгу: такова любовь!

XLIX.
“Mời tôi hả?” -Vâng, ngày đặt tên Tachiana nhé
Vào thứ bảy. Ônga và bà mẹ
Bảo tôi mời anh, không được viện cớ gì
Đã được mời lại từ chối không đi .-
“Nhưng đến chỗ đông người, tôi thường hay buồn bực,
Đâu nhộn nhạo, tôi không quen chịu đựng…”
-Khách có ai đâu, tôi cầm chắc, cứ tin tôi!
Có những ai? Chỉ có người nhà thôi.
Ta đến nhé, anh làm ơn, làm phúc!
Thế nào nhỉ? -“Tôi nhận lời lập tức”.
Thôi được rồi ? -Anh mới thật đáng yêu!-
Uống mừng cô hàng xóm, chàng dốc cạn cốc theo,
Rồi sau đó, kể huyên thuyên trở lại
Về Ônga: tình yêu luôn là thế mãi mãi!

L.
Он весел был. Чрез две недели
Назначен был счастливый срок.
И тайна брачныя постели
И сладостной любви венок
Его восторгов ожидали.
Гимена хлопоты, печали,
Зевоты хладная чреда
Ему не снились никогда.
Меж тем как мы, враги Гимена,
В домашней жизни зрим один
Ряд утомительных картин,
Роман во вкусе Лафонтена…[4]
Мой бедный Ленский, сердцем он
Для оной жизни был рожден.

L.
Chàng hoan hỉ. Chỉ qua hai tuần nữa
Ngày vui hạnh phúc được nhà chọn lựa
Nào nóng lòng mong bí mật đêm tân hôn,
Nào vòng hoa tình yêu ngọt ngào hơn
Chàng chờ đợi với biết bao hứng khởi.
Những bận bịu, nỗi buồn của thần Ghimênây khêu gợi
Cả chuỗi dài lạnh lẽo, buồn nôn
Chưa bao giờ chàng được gặp trong mơ luôn
Trong lúc chính ta là kẻ thù của Ghimênây thật
Trong cuộc sống gia đình chỉ thấy dặt
Bao cảnh đời mệt nhọc phát ho hen
Mối tình theo khẩu vị của Laphôngten…
Này chàng Lensky không may của tôi hỡi
Chàng được sinh ra để vào trang đời mới

LI.

Он был любим… по крайней мере
Так думал он, и был счастлив.
Стократ блажен, кто предан вере,
Кто, хладный ум угомонив,
Покоится в сердечной неге,
Как пьяный путник на ночлеге,
Или, нежней, как мотылек,
В весенний впившийся цветок;
Но жалок тот, кто всё предвидит,
Чья не кружится голова,
Кто все движенья, все слова
В их переводе ненавидит,
Чье сердце опыт остудил
И забываться запретил!


LI.
Chàng được yêu… cứ cho là ít nhất
Chàng nghĩ vậy, và chàng đang hạnh phúc thật
Ai trung thành đức tin thì may mắn trăm lần,
Ai biết làm đầu óc mát mẻ, lạnh lùng
Nằm yên hưởng trọn niềm vui, cùng hoan lạc
Như buồn ngủ gặp chiếu manh, vui cực
Hay nhẹ nhàng hơn, như một chú bướm may
Gặp xuân về, hoa nở - phấn hoa đầy
Nhưng thật đáng thương ai nhìn xa, thấy trước
Có đầu óc không buồn quay xuôi ngược
Ai quen nhìn mọi vận động, mọi lời
Luôn nằm yên, ghét chúng chuyển động hoài,
Con tim khiến kinh nghiệm thành nguội lạnh
Và cấm đoán trái tim không cho quên lãng!


CHÚ THÍCH
Chương Bốn
Lời đề từ


La morale est dans la nature des choses.
Necker[* 1]

Đạo đức là thuộc tính của muôn vật
Nekker
Phát ngôn của chính trị gia, nhà lãnh đạo quốc gia Pháp Giắc Nekker (1732-1804), trích từ sách của con gái ông là Giermena de Stal “Suy ngẫm về cách mạng Pháp”.
Còn theo nhà văn V.V.Nabokov, thì lời đề từ này phải tìm trong cuốn sách khác, tác giả là E. Berk : “ Những suy ngẫm và chi tiết về cảnh nghèo đói”
IX.
9.вист trò chơi dành cho 4 người, thuộc lớp người có vai vế, có chừng mực, không phải trò đỏ đen, cách chơi bình tĩnh, nhẹ nhàng.
XI.
Với Puskin, сон đồng nghĩa với мечта
XIX.
1-2. Усыплять có nghĩa: опровергать
XXVI.
Природа được hiểu theo hai cách: 1) thiên nhiên, tự nhiên; nhà thơ И. А. Бродский (1940-1996) hiểu là “bức tranh thiên nhiên “; 2) bản chất người và vật, cách hiểu sau được nhiều người tán thành hơn.
XXXII
1.nhà phê bình V. K. Kyukhelbeker, tác giả bài báo “Về phương hướng của nền thi ca nước ta”
XXXIII.5.nhà thơ trào phúng И. И. Дмитриев (1760-1837) , bạn của Karamdin.

 

Ý kiến bạn đọc

Vui lòng login để gởi ý kiến. Nếu chưa có account, xin ghi danh.