Quỷ Môn Quan Lạng Sơn
Qua Thi Ca Việt Nam
TS PHẠM TRỌNG CHÁNH
Ải Quỷ Môn nằm quảng giữa Quang Lang đến Hổ Lao, tỉnh Lạng Sơn còn gọi là Ải Chi Lăng trấn giữ địa đầu biên giới nước ta. Nơi đây từ Trung Quốc đã truyền tụng “ Mười người đi chỉ một người về”. Nơi đây diễn ra những trận đánh phục kích quân xâm lược trong mọi thời. Tướng Liễu Thăng bị chém đầu nơi này. Các quan trến thủ, các sứ thần Việt Nam đi sứ ngang qua đây, nhìn các đống xương trắng cuộc chiến tranh đi qua làm thơ. Trong bài này tôi xin góp nhặt các bài thơ phú quan trấn thủ và các sứ thần Việt Nam khi qua đây.
Phạm Sư Mạnh, người làng Hiệp Thạnh, huyện Hiệp Sơn phủ Kinh Môn, học trò Chu Văn An, đỗ Thái Học Sinh đời vua Trần Minh Tông, khi làm Kinh lược trấn Lạng Giang đã viết bài Chi Lăng Động. Đi nghìn dặm tuần tra biên giới, trống trận vang ầm. Thành phiên trại, trại Mán bé bằng con sâu. Phía nam phía bắc giòng suối, cờ hồng lay động. Đằng trước, đằng sau đội quân trâu rừng rống vang. Hang Lâu Lai sâu hơn đáy giếng. Ải Chi Lăng hiểm trở bằng lên trời. Trước gió ghì cương ngựa, lên cao ngoảnh đầu nhìn. Cửa khuyết cao chót vót ở tầng mây phía tây.
ĐỘNG CHI LĂNG
Nghìn dậm tuần biên trống trận vang.
Bé như sâu nhỏ trại Phiên, Man.
Bắc nam suối biếc cờ lay động,
Sau trước quân kỳ trâu rống vang.
Lâu Lại hang sâu hơn đáy giếng,
Chi Lăng ải hiểm dựng trời xanh,
Ghì cương trước ngựa quay đầu ngắm,
Cung khuyết phương Tây mây mấy tầng,
Nguyên tác phiên âm Hán Việt :
CHI LĂNG ĐỘNG
Thiên lý tuần biên ẩn cổ bề,
Phiên thành man trại nhất ê khê.
Giản nam giản bắc hồng kỳ chuyển,
Quân hậu quân tuyền thanh chủy đề.
Lâu Lại cốc thâm ư tỉnh để,
Chi Lăng quan hiểm dữ thiên tề.
Lâu phong bạt cao hồi thủ,
Cấm khuyết thiều nghiêu vân khí tê.
Bài Trên đường đi Quang Lang, Phạm Sư Mạnh viết : Mặt trời soi yên ngựa người đi tuần thú gìn giữ an ninh, mặt trăng ánh lên roi ngựa. Cờ xí đang tung bay trước gió Tây. Động Quang Lang trăm nghìn vạn lần lam chướng. Suối Lâu Lại chín mươi ba khúc quanh co. Binh thế, quân hình theo sách lược nhà vua. Những thôn Mường, thôn Mán bảo vệ nơi biên giới xa xăm. Thử đem bàn tay sắp đặt của triều đình, mà thảo ra thiên thứ nhất sách bình lược làm yên ổn biên cương.
QUANG LANG ĐẠO TRUNG
Yên ngựa nắng soi, roi sáng trăng.
Gió tây cờ xí phất phơ tung.
Quang Lang trăm vạn lần lam chướng,
Lâu Lại chín ba khúc uốn quanh.
Bình thế quân hình theo thánh lược.
Thôn Mường, xóm Mán hộ biên cương.
Triều đình sắp đặt, thi hành lệnh,
Sách lược bình nhung thảo một chương.
Nguyên tác phiên âm Hán Việt :
QUANG LANG ĐẠO TRUNG
Nhật chiếu chinh yên nguyệt ánh tiên,
Tây phong kỳ xí chinh phiên phiên.
Bách thiên vạn chướng Quang Lang động.
Cửu thập tam bàn Lâu Lại tuyền.
Binh thế quân hình tuân thánh lược,
Man hương Phiên lạc hộ cùng biên.
Thí tương lang miếu kinh luân thủ,
Thảo tả bình nhung đệ nhất thiên,
Đoàn Nguyễn Tuấn viết bài : Bài ca về xứ Lạng Sơn ác nghiệt. Ôi Than ôi ! Xứ Lạng Sơn ác nghiệt. Ác nghiệt hơn sa xuống vực sâu. Vượt sông Hồng phía Bắc hơn một trăm dậm. Đường đi xa mãi khói nhà dân thưa thớt. Cỏ cây rậm rạp chẵng thấy mặt trời. Sau chiến tranh xương sót lạí chồng chất bên đường. Qua một khe rồi lại một khe nữa. Thân vượt sóng dữ qua khỏi núi khe điệp trùng. Lên một hòn núi lại một hòn núi nữa. Chân đạp mây trắng trèo lên trời xanh. Nơi đây giao long làm hang. Hổ rắn làm ổ. Mường Mán đi lại với nhau. Ma quỷ cùng nhau lui tới. Khí núi bốc lên trời tối như đêm. Lá thu rụng xuống, nước như nấu sủi. Ăn uống ngộ độc gan ruột loạn,. Ra vào cảm nóng cười nói điên cuồng. Lại có một loài sâu trùng tên vắt. Nấp trong lá bắn người sinh mụn độc. Lại có ma muôn hình kỳ quặc, vào nhà gây tai ương. Anh chẳng thấy : nơi lam chướng ở Trung Quốc gọi là quận Ngũ Lĩnh. Tửu thần muốn chết thể hiện trong thơ. Lý Bạch say rượu nhảy xuống nước ôm trăng mà chết. Lý Bạch viểt bài Thục đạo nan, ca tụng “đường qua Ba Thục Tứ Xuyên khó hơn đường lên trời xanh”, nhưng Lý Bạch chưa đến nơi này Quỷ Môn quan, Ba Thục còn đi được chứ Quỷ Môn Quan thì nhiều người đi ít kẻ về được. Lại chẳng thấy cử Quỷ Môn là cái ải hiểm ác của An Nam. Vẫn truyền rằng: “mười người đi chỉ có một kẻ về”. Về đi thôi ! Về đi thôi! với một cỗ xe trên kinh thành cũ. Với hai tay áo nơi vườn quê. Rau vườn đây, cá sông đó ta ăn.. Nhà tranh chõng trúc ta nằm. Để thể xác ta vui hưởng tuổi trời cho ta.
ĐƯỜNG XỨ LẠNG SƠN HIỂM TRỞ
Than ôi ! Đường Lạng Sơn,
Ác hiểm hơn vực sâu.
Nhĩ Hà vượt Bắc hơn trăm dặm,
Đường xa khói vắng nhà dân thưa.
Cây cối âm u chẳng thấy nắng.
Xương trắng còn phơi cuộc chiến qua.
Qua khe rồi lại qua khe núi,
Thân vượt sóng dữ điệp trùng khe.
Vượt lên một núi lại một núi,
Chân đạp trời cao mây trắng qua.
Giao long làm ổ ẩn núp,
Hổ rắn làm hang nhà ,
Mán Dao thường qua lại,
Lui tới cùng quỷ ma.
Khí núi trời như tối,
Lá thu nước sủi âm ba.
Ăn uống ngộ độc ruột gan loạn
Ra vào nóng nhiệt miệng cuồng ca.
Lại có một loài sâu : con vắt,
Nấp lá bắn người lở loét ra.
Lại có muôn loài quỷ kỳ lạ,
Ban ngày gây tai ương vào nhà.
Anh chẳng thấy :
Quận Trung Hoa gọi Ngũ Lĩnh,
« Tửu thần muốn chết » truyền thơ ca,
An Nam hang dữ có cửa Quỷ.
« Mười đi một về » có câu ca.
Kinh cũ chừ đi đơn xa,
Vườn xưa chừ tay áo với,
Hái rau vườn, cá sông nhà.
Nhà tranh nằm chỏng trúc,
Vui hưởng tuổi già trời cho ta.
Nguyên tác phiên âm Hán Việt :
LẠNG SƠN ÁC HÀNH
Hi hu ta hồ Lạng Sơn chi ác.
Ác ư trụy thâm uyên.
Nhĩ Hà bắc độ bách chư lý,
Khứ lộ tiệm viễn hi nhân yên,
Thảo thụ thâm uất bất kiến nhật,
Binh hỏa dư hài chẩm đạo biên.
Quá liễu nhất khê hựu nhất khê,
Thân phiên cấp lãng xuất trùng tuyền.
Đăng liễu nhất sơn hựu nhất sơn,
Túc đạp bạch vân thướng thanh thiên.
Giao long hề quy vật,
Hổ hủy hề vi khuyên.
Man Liêu hề tương lai vãng,
Quỷ vị hề tương bàn tuyền.
Chướng lĩnh lam phi, thiên tự hối.
Thu thâm, điệp lạc, thủy như tiên.
Ẩm thực súc độc, phúc vị loạn,
Khởi cư trúng nhiệt ngôn ngữ điên.
Hựu hữu nhất chủng xích quắc trùng,
Diệp gian xa nhân sinh ác ban,
Hựu hữu vạn trạng dị thường quỷ,
Bạch nhật nhập ốc khởi tai khiên.
Quân bất kiến :
Trung Quốc quận xưng Ngũ Lĩnh,
Tửu thần vạn tử phủ thi thiên.
Hựu bất̉ kiến :
An Nam ác quật hiệu Quỷ Môn,
Thập xuất nhất hoàn tẳng lưu truyền.
Quy hồ tai ! Quy hồ tai !
Đơn xa hề cựu kinh.
Song tụ hề cố viên,
Ly thái , xuyên ngư hề ngô thực,
Mao ốc trúc giá hề ngô miên,
Ô dĩ dĩ toàn ngô thể nhi xứng ngô thiên.
PHAN HUY ÍCH
MÙA THU PHỤNG MỆNH ĐẾN TRẤN LẠNG SƠN,
ĐỢI TIẾP SỨ GIẢ PHƯƠNG BẮC,
THUẬT HOÀI TRONG LÚC ĐI ĐƯỜNG
Việc bang giao mà còn sử dụng đến kẻ đang có đại tang, là vì vua Quang Trung coi trọng tài năng. Phan Huy Ích đang có tang cha, phải để tang ba năm. Thiên Tăng Tử vấn, Kinh Lễ chép : Tam niên chi tang, kim cách chỉ sự vô tị dã giả, lễ dư ? nghĩa là: Trong vòng ba năm để tang việc giáp binh thì không được né tránh, đó là lễ chăng ? Ở trạm trong núi người đi xa lo nghĩ nhiều. Nếu không có văn chương được đặc biệt xét đến. Thì đâu mang nối buồn vịnh thơ hoàng hoa, thơ đi sứ. Ải Quỷ Môn sau trận mưa, hang ngòi nước réo ầm. Vùng Pha Lũy khói mây dày đặc khèn chiều tiễn đưa. Sớm hoàn thành việc thư từ giao hảo với nước láng giềng. Trông về ngọn núi Tây, rất đổi nhớ nhà.
Chiến tranh chẳng việc kẻ mang tang,
Trạm núi người đi luống nghĩ toan.
Nếu chằng vì văn chương được xét,
Thì đường đi sứ chẳng thi văn.
Cửa Quỷ sau mưa sông suối réo,
Lũy Pha khói toả đặc cung khèn.
Sớm việc thư từ cùng nước cận,
Núi Tây trông ngóng nỗ̃i nhả thương.
Nguyên tác phiên âm Hán Việt :
THU TRUNG PHỤNG NGHỆ LẠNG SƠN TRẤN
HẬU TIẾP BẮC SỨ, HÀNH GIAN THUẬT HOÀI
Sự phi kim cách khởi thôi ma,
Sơn dịch chinh nhân quải niệm đa.
Bất hữu văn hàn vu đặc giám,
Khởi tương ai thích phủ hoàng hoa.
Quỷ Môn vũ hậu minh bôn hác,
Pha Lũy yên thêm tống mộ già.
Từ bút tảo hoàn lân quốc hảo,
Tây nham hoài vọng tối tư gia.
Nguyễn Nể (1761-1805) khi đi sứ qua đây năm 1793 để báo tang vua Quang Trung và cầu phong vua Cảnh Thịnh đã viết; Thơ đề Quỷ Môn Quan ; Từ xưa nơi hiểm yếu nàu vẫn gọi là Quỷ Môn quan. Núi non như giáo dựng la liệt trấn giữ miền biên cương. Tiếng suối nức nở làm lạnh nắm xương họ Trần. Vào cuối đời Trần Hồ Quý Ly cướp ngôi vua. Trần Thiêm Bình sang nhà Minh xin quân cứu viện. Quân Hồ phục binh chặn ở đây. Quân Minh không có đường về bèn xin nộp Trần Thiêm Bình rồi rút quân. Màn cây ăm u còn đọng lại hồn ma nhà Mạc. Vào giai đoạn cuối, nhà Mạc phải rút khỏi Thăng Long lui về Cao Bằng, Lạng Sơn đặt căn cứ ở đó. Sau quân Trịnh đánh úp, tông thất nhà Mạc bị giết gần hết. Suốt cả buổi sáng mây mù trùm lên ngôi miếu cổ. Trọn ngày hơi núi phủ kín thôn hoang. Trong cả chuyến đi về ta dựa vào tấm lòng trung tín. Muôn núi nghìn khe nào đáng kể gì.
ĐỀ QUỶ MÔN QUAN
Hiểm yếu từ xưa gọi Quỷ Môn,
Núi non như giáo trấn biên cương.
Xương Trần nức nở trong khe lạnh,
Hồn Mạc âm u giữa núi rừng.
Suốt sáng mây mù trùm miếu cổ,
Trọn ngày hơi núi kín thôn hoang.
Đi về ta dựa lòng trung tín,
Muôn núi nghìn khe dạ chẳng sờn.
Nguyên tác phiên âm Hán Việt :
ĐỀ QUỶ MÔN QUAN
Hiểm yếu tòng lai thuyết Quỷ Môn,
Quần phong liệt kích trấn giao nguyên.
Tuyền thanh ô yết hàn Trần Cốt,
Thụ sắc âm sâm trệ Mạc hồn.
Vân vụ chung triêu hàm cổ miếu.
Yên lam tận nhật toả hoang thôn.
Vãng hoàn tự ngã bằng trung tín,
Vạn hác thiên khê khởi túc luân.
Nguyễn Du tiếp sứ bộ Tề Bồ Sâm năm 1804 và đi sứ năm 1813 đều có đi qua Ải Quỷ Môn, ông viết bài Trên đường qua Quỷ Môn : Đường đá ở Quỷ Môn từ chân mây ra. Lữ khách về Nam trông thấy mà kinh hoàng. Gió đông thổi qua hàng cây vào đám ngựa đi tiễn. Trăng tà lặn sau dãy núi, ban đêm nghe tiếng vượn hú. Ta đang độ tuổi trung niên mà sớm về già, rất ngại chuyện thù tiếp. Câu thơ này cho biết bài thơ làm khi tiếp sứ năm 1804. Dọc đường trời lạnh, nhờ hơi rượu mà ấm lòng. Trong xóm núi kia nhà ai mà ham ngủ thế ? Mặt trời lên cao rồi mà cửa tre còn đóng kín.
TRÊN ĐƯỜNG QUA QUỶ MÔN
Đường đá chân mây thấy Quỷ Môn,
Về nam lữ khách luống kinh hồn.
Cây rừng ngựa tiễn gió đông lộng,
Núi núi trăng tà vượn hú vang.
Trung niên già ngại khi thù tiếp,
Đường lạnh nhờ hơi rượu ấm lòng.
Xóm núi nhà ai ham ngủ thế,
Trời cao mà cửa vẫn cài then.
Nguyên tác phiên âm Hán Việt :
QUỶ MÔN ĐẠO TRUNG
Quỷ Môn thạch kính xuất vân côn (căn)
Chinh khách nam quy dục đoạn hồn.
Thụ thụ đông phong xuy tống mã,
Sơn sơn lạc nguyệt dạ đề viên.
Trung tuần lão thái phùng nhân lãn,
Nhất lộ hàn uy trượng tửu ôn.
Sơn ổ hà gia đại tham thụy ?
Nhật cao do tự yểm sài môn.
Ngô Thời Vị̣ (1774-1821) em út Ngô Thời Nhậm làm Phó sứ đời Gia Long năm 1807, năm 1820 làm Chánh sứ thay Nguyễn Du, chưa đi sứ thì mất vì bệnh dịch. Khi qua Quỷ Môn quan ông viết về Hòn Đá Liễu Thăng. Khác với các nhà thơ khác tả cảnh hiểm trở, rừng thiêng nước độc Quỷ Môn quan. Ngô Thời Vị ca ngợi chiến công vua Lê Lợi đánh bại quân xâm lược của Minh Thành Tổ, một vị vua tàn bạo nhất lịch sử Trung Quốc, giết trung thần Phương Hiếu Nhụ giết luôn mười họ hàng chục ngàn người, họ Phương và tám đời các họ bên mẹ, bà nội, bà cố, bà sơ... quy thêm học trò thành họ thứ mười. Đàn áp các cuộc khởi nghĩa Trần Quý Khoách, nhà sư Phạm Ngọc.. xác người bị chặt đầu, mổ bụng chất chồng như núi, bắt hàng trăm ngàn thợ giỏi nước Nam đi xây Cung điện Bắc Kinh dưới sự chỉ huy của Nguyễn An. Bình Ngô Đại Cáo Nguyễn Trãi viết : “Chẻ trúc Nam Sơn không ghi hết tội ác”.
Tại Quỷ Môn quan có 5, 6 phiến đá bên đường bên trái trong đó có một hòn đá hình như người bị mất đầu. Tương truyền Liễu Thăng chết linh khí tụ lại thành đá. Ngô Thời Vị viết ; Đây là linh khí Liễu Thăng thành đá hay không, điều này không có gì để biện bạch . Đây là chiến công vua Lê Thái Tổ diệt quân Minh. Trên hòn đá tương truyền rằng Liễu Thanh chết thành đá còn hằn vết chém. Rêu phong đỏ mờ nhạt như trên áo giáp khô máu. Khe suối nước chảy như tiếng quân reo hò quân Liễu Thăng bị đại bại. Thế mà nhà Minh cứ đòi mãi tượng người vàng thay Liễu Thăng, ta cười là ngu xuẩn, đòi người vàng là nhắc tới mối nhục đại bại. Theo Ngô Thời Vị không phải việc cống người vàng là đi thay quốc vương nước ta, lệ do triều đình Trung Quốc đặt ra, mà là thay cho Liễu Thăng. Các đời trước và sau nhà Lê không có việc cống người vàng. Dừng xe trước chiều xế xem di tích Hòn đá Liễu Thăng, m̀à nhớ năm nao vua Lê Lợi mở trận đồ để phục binh tại Quỷ Môn Quan.
HÒN ĐÁ LIỄ̃U THĂNG
Không có chẳng còn chi biện bạch,
Chiến công Lê chúa diệt quân Ngô.
Còn hằn trên đá vết đao chém.
Mờ nhạt rêu phong máu giáp khô.
Khe nước chảy reo quân Liễu bại,
Người vàng đòi mãi nhục Minh ngu.
Dừng xe chiều xế xem di tích,
Còn thấy năm nao mở trận đồ.
Nguyên tác phiên âm Hán Việt :
LIỄU THĂNG THẠCH
Đề sự hà tu biện hữu vô,
Hoàng Lê công đức tại bình Hồ.
Thạch ngân ẩn ước sương đao lạc.
Đài sắc y hi huyết giáp ô.
Lưu thủy tuyền như Minh Liễu bại.
Thướng kim ngã tự tiếu Minh ngu,
Đinh luân nhật vãn khan di tích,
Tưởng kiến đương niên bổ trận đồ.
Ải Chi Lăng, Quỷ Môn quan đã đi vào lịch sử như Bạch Đằng, Vân Đồn, Hàm Từ, Chí Linh, Đống Đa, nhưng chẳng có ai nghĩ đến việc hành hương lịch sử đến đó. Khách du lịch Trung Quốc có đi qua đây khi biết chuyện chắc cũng rùng mình vì ngày xưa mười người đi chỉ một kẻ về,
PHẠM TRỌNG CHÁNH
* Tiến sĩ Khoa Học Giáo Dục Viện Đại Học Paris Sorbonne.
Paris 21-12-2019
TÀI LIỆU THAM KHẢO :
THƠ VĂN LÝ TRẦ̀N tập III nxb KHXH Hà Nội 1978.
ĐOÀN NGUYỄN TUẤ́N Hải Ông thi Tập. NxbKHXH Hà Nội 1982
NGÔ VĂN GIA PHÁI một số tác giả tiêu biểu . nxb Hà Sơn Bình.
PHAN HUY ÍCH. DỤ AM NGÂM LỤC. NxbKHXH Hà Nội 1978
NGUYỄN DU Thơ chữ Hán. Nxb Văn Học.