Dịch Thơ của Thi Hào Nguyễn Du
Hạ Thái Trần Quốc Phiệt
夾 城 馬 伏 波 廟 GIAP THÀNH MÃ PHỤC BA MIẾU
阮 攸 Nguyễn Du (1765–1820)
六 十 老 人 筋 力 衰 Lục thập lão nhân cận lực suy
據 鞍 被 甲 疾 如 飛 Cứ an bị giáp tật như phi
殿 庭 只 慱 君 王 笑 Điền đình chỉ bác quân vương tiếu
鄉 里 寧 知 兄 弟 悲 Hương lý ninh tri huynh đệ bi
銅 柱 僅 能 欺 越 女 Đồng trụ cận năng khi Việt nữ
珠 車 畢 竟 累 家 兒 Châu xa tất cánh lụy gia nhi
姓 名 合 上 雲 臺 畫 Tính danh hợp thướng Vân Đài họa
猶 向 南 中 索 歲 時 Do hướng Nam trung sách tuế thì?
Nguyễn Du
Dịch nghĩa:
Người già tuổi sáu mươi thì gân sức suy.
Ông còn mặc giáp nhảy lên ngựa nhanh như bay.
Chỉ chuốc một nụ cười của nhà vua nơi cung điện.
Đâu biết anh em nơi quê hương thương xót cho ông!
Cột đồng chỉ dối được đàn bà con gái Việt.
Chứ như xe ngọc châu chở về, thị lại để lụy cho con cháu ông.
Tên tuổi ông (đáng lẽ) được ghi nơi bức họa Vân Đài.
Sao lại đòi nước Nam hằng năm phải cúng tế?
Thoát dịch:
MIẾU MÃ PHỤC BA (1)
Tuổi sáu mươi suy lực thấy ngay
Leo lên lưng ngựa phóng như bay
Ước nơi bệ ngọc vua cười tặng
Mà tại hương quan em phải rầy
Đồng trụ chỉ lừa thôn nữ đó
Ngọc xa sao ổn vợ con đây
Vân Đài Danh Họa không tranh vẽ
Đòi cúng thờ chi tại đất này?
Hạ Thái Trần Quốc Phiệt
(1) Mã Viện đã già yếu, muốn sang đánh Hai Bà Trưng Nhảy lên ngựa ra vẻ mạnh khỏe- Vua cười khen phong là Phục Ba tướng quân.
Khi đi em họ là Thiều Du nói: "Người ta sinh ra cốt ăn mặc vừa đủ thôi, nếu cầu
thêm thừa thãi thì chỉ khổ thân"
Mã Viện chết không được vẽ chân dung cùng 28 vị công thần TQ ở gác Vân Đài mà lại bắt xây miếu thờ ở Việt Nam nên Nguyễn Du chê trách.
Khi sang đóng quân ở hồ Dâm Đàm (Hồ Tây) thấy diều lượn trên mặt hồ đầy khí lam chướng... Mã Viện hối hận nói: "Nay nghĩ lại lời Thiều Du nói đúng nhưng không làm sao được nữa "nên
Nguyễn Du có bài thơ mỉa như sau: (bài kế dưới)...
題 大 灘 馬 伏 波 廟 ĐỀ ĐẠI THAN MÃ PHỤC BA MIẾU
阮 攸 Nguyễn Du (1765–1820)
鑿 通 嶺 道 定 炎 墟 Tạc thông lĩnh đạo định Viêm khư
蓋 世 功 名 在 史 書 Cái thế công danh tại sử thư
向 老 大 年 矜 钁 鑠 Hướng lão đại niên căng quắc thước
除 衣 食 外 盡 贏 餘 Trừ y thực ngoại tẫn doanh dư
大 灘 風 浪 留 前 烈 Đại Than phong lãng lưu tiền liệt
古 廟 松 杉 隔 故 閭 Cổ miếu tùng sam cách cố lư
日 暮 城 西 荊 棘 下 Nhật mộ thành tây kinh cức hạ
霪 潭 遺 梅 更 何 如 Dâm Đàm di hối cánh hà như.
Nguyễn Du
Dịch nghĩa
MỈA MIẾU MÃ PHỤC BA Ở ĐẠI THAN
Đục xuyên qua đường Ngũ lĩnh, bình định cõi Nam
Công danh trùm đời ghi trên sử sách
Già lớn tuổi rồi còn khoe quắc thước
Ngoài cơm áo ra, mọi thứ là thừa
Sóng gió Đại Than còn để dấu công oanh liệt thời trước
Cây tùng, cây sam ở ngôi miếu cổ xa cách quê nhà
Chiều tà dưới đám gai góc phía tây thành
Nỗi hận ở Dâm Đàm, sau cùng ra làm sao?
Thoát dịch:
MỈA MIẾU MÃ PHỤC BA Ở ĐẠI THAN
Khai đường Ngũ Lĩnh đánh về Nam
Tên tuổi công danh sử sách bàn
Già lão tuổi cao vừa sống đủ
Cơm ăn áo ấm đã dư tràn
Đại Than sóng gió lưu ngày trước
Cổ Miếu tùng sam biệt cố trang
Dưới đám gai tàn chiều lặng lẽ
Tây Hồ hối hận mãi không an!
Hạ Thái Trần Quốc Phiệt
|