Dec 30, 2024

Tiểu luận - Tạp bút

Hiện tượng bí nhiệm.( Tạp luận)
Võ Doãn Nhẫn * đăng lúc 05:05:52 AM, Mar 31, 2009 * Số lần xem: 1647
Hình ảnh
#1


Tôi đã suy tính, đắn đo, cân nhắc thận trọng sau khi quyết định lựa chọn danh từ hiện tượng bí nhiệm. Hiện tượng bí nhiệm là một danh từ lạ nếu không muốn nói mới lạ, danh từ không có trong danh từ thần học hay triết học hoặc trong danh từ tôn giáo.
Nhưng danh từ hiện tượng bí nhiệm không phải là hiện tượng bí mật. Bí mật chỉ một sự kiện được giấu kín, không được hé lộ công khai, không được cởi mở phơi bày, không được một hay nhiều người phác hiện tiết lộ phơi bày sự thật từ bấy đến nay vốn được ẩn giấu. Cái chết bí mật của một nạn nhân còn đang được điều tra xét nghiệm được giữ kín trong vòng bí mật. Cô Nông thị Khay bị giết trong vòng bí mật, một mình mình biết, một mình mình hay, sống để dạ, chết đem theo. Ngày nay, hệ Thái Dương vẫn còn bao trùm bí mật chưa được khám phá không kể những hành tinh nhỏ nhoi là Kim tinh, Mộc tinh, Thủy tinh, Thiên vương tinh, Hải vương tinh, Hỏa tinh, vân vân; những bí mật của người đàn bà( La femme, cette inconnue) là những giấu kín, phải mất thời gian thăm dò, mò mẫm, tìm hiểu đôi khi phiêu lưu mạo hiểm, lâu mau dài ngắn sớm muộn còn tùy mới được khám phá mới được phác hiện. Nhưng một khi những hành tinh trong hệ Thái Dương, khi người phụ nữ đã được khám phá, được phác hiện thì không còn là một, là những bí mật nữa, chúng hóa ra trơ trẽn trần truồng như Thúy Kiều sau khi khám phá những điều bí mật tiết trinh của gã ( quá niên trạc độ tứ tuần) Mã Giám Sinh:
( Tiếc thay một đóa trà mi,
Con ong đã tỏ đường đi lối về.)
Nhưng phải chăng hiện tượng bí nhiệm là một hiện tượng mầu nhiệm? Hiện tượng mầu nhiệm là một tính từ, phénomène mystérieux, còn mầu nhiệm là một danh từ un mystère, chỉ một ( phép lạ), một hiện tượng, một sự kiện hay biến cố vượt ra ngoài sự tưởng tượng ngoài khả năng sức lực con người có thể làm. Là sự mầu nhiệm đối với những người có đức tin Công Giáo khi Thượng đế sau bảy ngày đã tạo dựng nên vũ trụ, sau đó sáng tạo loài người, sau cùng sáng tạo hai người một nam một nữ A Ðam E và. Với khả năng sáng tạo và với sự thương xót đối với con người vốn yếu đuối bởi mắc bệnh nan y hiểm nghèo, Thượng đế đã ( ban phép lành ) cứu thoát khỏi bệnh phung cùi, bệnh ung thư, chứng tật khiếm thị. Theo ngôn từ tôn giáo, sự mầu nhiệm là phép lạ phi thường,vật thụ tạo con người không có khả năng làm được.

Tôi sinh năm 1936, tuổi thật Bính Tý. Năm 1945 tôi lên chin vào thời kháng Nhật ở Ðông Nam Á và cũng là thế giới chiến tranh lần thứ hai. Vào lúc cuộc chiến mới bắt đầu tại Việt Nam, phe Ðồng Minh dội bom tại nhà ga Nha Trang, ty bưu điện trước gọi là nhà Dây Thép Nha Trang, cầu Hỏa Xa nối liền đường sắt Nha Trang- Hà Nội, đặc biệt phe Ðồng Minh oanh tạc cầu Hà Ra và cầu Xóm Bóng nhưng may bom không nổ. Người thiên hạ từ thành phố Nha Trang tới miền quê lân cận đều bàn tán nói với nhau rằng nhờ có bà Thiên Y Thánh mẫu ra tay cứu độ khiến trái bom tịt ngòi nặng 500kg không nổ. Nhưng, phúc đức nào cũng có cái giá phải trả: đức Bà bị thương ở cánh tay phải khiến Bà không thể sử dụng được nữa đành phải bay về núi Am Chúa dưỡng thương. Ðền thờ đặt tại Am Chúa trên núi Dấu Ấn thuộc xã Diên Ðiền thuộc huyện Diên Khánh tỉnh Khánh Hòa.
Sự tích Thiên Y A Na theo tôi thiển nghĩ là một sự tích kiêm huyền thoại. Theo truyền thuyết được giáo sư Cung Giũ Nguyên thuật lại nhân một cuộc đi chơi pic nic tại Tháp Bà do nhà trường tổ chức, tôi chỉ nhớ mang máng không thể nhớ trọn vẹn( già rồi còn đâu) , Thiên Y A Na được tu thành tiên, một tiên nữ, vì duyên cớ nào không rõ bà ( được ) giáng trần dong chơi hồ hải góc biển chân trời,không may bão tố liên tiếp trôi giạt vào Nam Hải, được tấp vào một bến trải mấy nghìn năm ngày nay được gọi là Bến Cá, còn gọi là xã Vĩnh Hải ngày trước còn được gọi làng Cù Lao. Thiên Y A Na được hiển hiện vào một súc gỗ cực quý nhưng sức nặng nghìn cân không một tập thể dân chúng nào di chuyển nổi, bèn tâu cùng với triều đình đương nhiệm lúc bấy giờ là nước Chiêm Thành thịnh trị. Ðức vua bèn sai hoàng thái tử nước Chiêm tới ( hiện trường ) xem tình hình ra làm sao. Thì lạ thay! Chỉ một bàn tay của hoàng thái tử đẩy nhẹ súc gỗ nghìn cân, lập tức súc gỗ sực nức mùi thơm di chuyển trên cạn hết sức dễ dàng. Phải chăng đây là một hiện tượng bí nhiệm không thể giải thích? Tôi mượn tạm câu thơ sáu chữ trữ tình Kim Trọng tương tư Thúy Kiều của Nguyễn Du ( cho hay là giống hữu tình), chắc hẳn ( nàng tiên) đã (cảm ) trước hình dáng hào hùng uy nghi của hoàng thái tử nước Chiêm . Tôi không biết cuộc tình duyên nợ rồi ra sẽ kết thúc ra sao, chỉ nghe người đời truyền tụng lại bà Thánh Mẫu Thiên Y A Na về sau vẫn sống một mình tiếp tục giúp đời, cứu nhân độ thế. Tôi cũng không dám cả quyết bà Thiên Y A Na đã hết kiếp tiên mà chết hay chưa, bởi kinh Thủ Lăng Nghiêm xác quyết rằng mặc dù sống lâu một nghìn năm, một triệu năm, những thực hữu tiên trước sau chóng chầy gì rồi cũng chết đi vào lục đạo trầm luân trong kiếp luân hồi.
Tôi chỉ được một đôi lần viếng thăm đền Tháp Bà, một lần nhân dịp tết Nguyên Ðán, một lần nữa, tôi không nhớ, à, một lần nữa dịp đi chơi pic nic của thầy Cung Giũ Nguyên năm 1953- 54. Ðền Tháp Bà tọa lạc trên một ngọn đồi thấp, cao độ mười thước Tây, có cấp bực đá đi lên, trên bực cấp vào ngày hội lố nhố một bầy ăn xin xin khách thập phương bố thí tạo phước( tôi vẫn không rõ tại sao vào ngày Tết những kẻ ăn xin ăn mặc xốc xếch rách ruới thay vì ăn mặc tương đối sạch sẽ tươm tất, phải chăng họ cố tạo một lòng trắc ẩn xót thương?). Nhìn từ bên ngoài, đền tháp Bà được xây từ thời Trung cổ(?)bằng gạch nung , giờ đây cũng tàn tạ hư hỏng loang lỗ dày dạn phong sương tuế nguyệt. Ði vào bên trong, đền thờ cao vòi vọi thâm u, mắt nhìn không thể trông thấy, trên có bàn thờ tượng Bà Thiên Y A Na bằng đất nung, hình dáng uy nghi mặc dù trông khá diễm lệ, trang phục kín đáo, tay mang nữ trang vòng vàng. Tôi đã nghe từ lúc tôi còn tấm bé, Bà rất linh thiêng, mỗi khi có chuyện lo buồn cầu xin Bà ban cho một quẻ (xăm ) thì Bà cho ngay, thậm chí vào những lúc Bà có kinh nguyệt, máu chảy từ trong người Bà thấm ướt cả y trang ngôn ngữ địa phương gọi là Bà thấy (dơ )trong người của Bà và ngôn ngữ quần chúng bình dân ít học thì gọI là Bà (có tháng ).
1.- Tôi còn nhớ kỹ một sự cố bí nhiệm xảy ra vào năm 1958 vào lúc ấy tôi là một sinh viên năm thứ hai trường sư phạm miền cao nguyên, lúc ấy cũng là lúc tôi đang về quê miền đồng bằng nghỉ hè được nửa tháng. Hằng ngày tôi thường xuyên qua lại tới lui chuyện vãn cùng người bạn gái sau này thành người phối ngẫu của tôi. Ban đêm tôi cũng thường tiếp chuyện cùng bà mẹ vợ sau này của tôi. Hai chúng tôi cùng ngồi ở mái hiên nhà, ngắm trăng ở vườn dừa ngoài sân, khu vườn dừa này được trồng dừa và đã lớn lên từ mấy mươi năm về trước trông cao suôn đuột xem rất u nhàn. Tối hôm ấy là một đêm trăng sáng, tôi một mình tản bộ trong vườn trăng, bóng tối tỏa một ánh sáng mơ màng huyền ảo, nhạc mẫu tương lai tôi ngồi trên chiếc chiếu cũ bỏm bẻm nhai trầu xỉa thuốc, vài cánh dơi động chập choạng di động xập xè trong khóm cây, con thạch sùng chắc lưỡi tìm bạn bên dưới mái ngói, tất cả đều im lặng ngoại trừ sự tĩnh mịch của đêm trăng.
Tôi lẳng lặng bước ra ngoài mé vườn, nhìn cảnh sông nước đêm trăng sáng. Dòng sông nhỏ từ cầu bà Vệ chảy ngang qua nhà tôi rồi chảy xuôi ra biển. dòng nước tối, đen thăm thẳm không trông thấy gì ngoài âm thanh gió đưa xào xạc lắc cắc của đám dừa nước um tùm, tiếng cá quẫy đớp mồi dưới bè rau muống một thời còn nhỏ tôi đã từng ngâm mình dưới nước nghịch phá những buổi trưa hè.
Trong lúc ngắm cảnh trăng sáng, trời trong, trong vô hạn, sao, cao vô định, tôi chợt nghe từ xa có tiếng rì rào, dường như có tiếng nói chuyện huyên náo từ chợ làng xa, ( đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều( trong bài Tràng giang của nhà thơ Huy Cận, nhưng tiếng rì rào mỗi lúc một gần, tôi nghĩ là gió đang ào ào chuyển động từ các chòm cây khóm lá, nhưng lạ thay, những hàng dừa cao thẳng tắp vẫn im lìm bất động. Một vừng sáng rực rỡ tỏa ra thong thả từ từ tiến đến gần, âm thanh tôi nghe tận tai mỗi lúc một rõ nhưng tôi vẫn không, vẫn chưa có thể xác định nguồn gốc âm thanh tiếng động.
Tôi vẫn chú tâm lắng tai nghe động tĩnh. Kia rồi! Sự cố đã xảy ra. Một luồng ánh sáng rực rỡ nom hình dáng tựa một ngọn đuốc dài ước độ mười thước như một cây sào dài đang cháy tựa một ngọn pháo bông khổng lồ lan ra chung quanh tua tủa đang bay thong thả, không khác chi một chiếc pháo đài từ khúc quành của dòng sông con, di chuyển song song uy nghi đường bệ dọc theo bến sông con hàng dừa cao suôn đuột, không một sức mạnh nào ngăn đường cản lối được.
Thấy cảnh tượng quá lạ lùng, tôi không ngăn được tiếng kêu:
- Chị Tám coi kìa, lạ quá!
( Chị Tám là nhạc mẫu tương lai của tôi).
Tôi chỉ nghe nhạc mẫu của tôi khẽ (suỵt ) một tiếng, sau đó tôi nghe ( Nam mô A Di Ðà Phật ) ba tiếng tiếp theo, tôi nín thinh, không dám phát biểu ồn ào nữa. Sau đó vài phút, một tiếng nổ ( ầm ) từ xa vọng lại, lúc ấy nhạc mẫu tương lai mới dám cất tiếng:
- Bà đã về tới núi Am Chúa rổi.
Tôi lấy làm lạ, hỏi:
- (Bà đã về ) là bà nào, chị Tám?
- ( Bà ) ở dưới Tháp Bà đó. Lâu lâu Bà nhớ núi Chúa, Bà về thăm.
Tôi nhớ đến mấy vụ ném bom oanh tạc của phe Ðồng Minh ngày trước, nhờ Bà che chở khiến Bà bị thương tật ở cánh tay, phải về núi Chúa để dưỡng thương, không biết từ bấy đến giờ, Bà đã hoàn toàn bình phục hẳn chưa.
Là sinh viên lớp sư phạm, ban Triết, được đào tạo do các giáo sư linh mục Thiên chúa giáo giảng dạy, từ lâu tôi vốn hoài nghi về một đấng vô hình thuộc phạm vi tôn giáo, không thể khẳng định hay phủ định sự hiện hữu của đấng ấy. Tôi lấy thái độ hoài nghi làm một cái mốt, làm hành trang cho cuộc sống tư tưởng của tôi, thậm chí tôi còn lấy làm hãnh diện thái độ hoài nghi ấy! Je me doute, donc je suis. Dubito, ergo sum. Tôi hoài nghi, vậy tôi hiện hữu. Không thể căn cứ trên những hiện tượng thiên nhiên để cắt nghĩa hiện tượng ( Bà bay ) vào một đêm trăng trên núi Am Chúa, tôi đành giải thích một hiện tượng bí nhiệm bằng một một hiện tượng ( siêu nghiệm ), un phénomène transcendental. 
Xin đừng lầm lẫn với nhà triết học nổi tiếng phủ nhận môn siêu hình học: Kant. Khi đánh giá môn tri- thức luận, Kant phân biệt những hình thức tiên nghiệm, les formes a priori tức không gian và thời gian, hai hình thức này chẳng liên quan gì tới hiện tượng bí nhiệm.
Khi phủ nhận bộ môn siêu hình học, Kant đã vô hình chung chấp nhận bộ môn này, căn cứ trên môn hình nhi hạ học, Kant đã vô tình chấp nhận môn hình nhi thượng học, ( Phê Bình Lý trí Thuần Túy, Critique De La Raison Pure ) rốt cục Kant mặc nhiên công nhận ( Phê Bình Lý Trí Thực Hành, Critique De La Raison Pratique ); Kant căn cứ trên hiện tượng chỉ có gíá trị khoa học, rốt cục phải nhìn nhận sự hiện hữu trong lĩnh vực nounène, không căn cứ trên bình diện lý trí nhưng căn cứ trên bình diện đức tin.
2.- Trước năm 75, học hiệu Việt Nam rải rác khá dồi dào, bắt đầu từ trường tiểu học Vĩnh Ðiềm, qua Quốc Lộ Một trường tiểu học xã Thái Thông, trường tiểu học Vĩnh Châu rồi tới trường tiểu học Phú Vinh( Phú Vinh có nghĩa là vừa phú quý vừa vinh hoa?) nằm sâu bên trong làng Vĩnh Ðiềm Thượng. Làng tôi có những ba làng: trước tiên làng Vĩnh Ðiềm Hạ là nơi tôi đã lớn lên, đi học rồi lập nghiệp tại đó; làng Vĩnh Ðiềm Trung nhà cửa dân cư thưa thớt, chỉ có một bãi tha ma chôn những ngườI chết: bãi tha ma Gò Găng và có cũng một ngôi chùa duy nhất: chùa Huê Quang; sau cùng là làng Vĩnh Ðiềm Thượng, từ Phú Vinh tới địa danh Chợ Ông Bộ, có một nhịp cầu chạy qua từ Nha Trang tới phủ Diên Khánh, nơi đây có một ngôi trường tiểu học khá ư khiêm tốn, tôi không nhớ rõ tên trường, chỉ nhớ trường tiểu học Ông Bộ, ngày nay sau 75 gọi là trường phổ thông cấp Một Vĩnh Trung.
Trường tiểu học Vĩnh Ðiềm có một địa điểm đáng lưu ý. Bên phải nhà trường có một ngôi chùa tên là chùa Ông, dân địa phương thờ đức Quan Công tức Quan Vân Trường tức Quan Vũ. Bên dưới gốc cây thông to bằng một người lớn ôm không xuể là một chứng nhân đã chứng kiến một cảnh giết người mà nhân viên ám sát là một cán bộ trưởng ban: cán bộ Châu Ôn. Tôi không nhớ có phải chính Châu Ôn là phủ phạm của ( bàn tay vấy máu ) nạn nhân không, tôi chỉ nhớ vào lúc sáng sớm khi vô trường tới lớp hằng ngày, tôi đã chứng kiến tận mắt một người đàn ông trạc độ ngoài bốn mươi nằm co quắp bất động bên cạnh gốc cây dương liễu sần sùi, hai cánh tay bị trói ngoặc phía sau, cặp mắt nhắm nghiền, một dòng máu đỏ đã khô chảy bên khóe miệng, một lưỡi dao cắm phập trên bụng nạn nhân bên cạnh một mảnh giấy tuyên án tử hình viết nguệch mgoạc. Bản án được tuyên bố tử hình đền tội ác vẫn thường xuyên xẩy ra; tôi biết nạn nhân bị giết là một người phu kéo xe kéo( vào thời buổi ấy chưa có xe xích lô đạp), dáng người hiền lành trầm ngâm nhưng nát rượu, gương mặt lúc nào cũng lầm lì, đố ai biết được ông ta làm mật vụ tình báo cho đối phương! Có người bảo rằng bản án tử hình như thế là phải, là đáng đời, bởi (cách mạng (sáng suốt không đời nào giết oan một mạng sống, cuộc chiến trường kỳ dai dẳng nên lấy đó làm gương.

Sau năm 75, tôi được thuyển về làm việc ở địa phương mang danh nghĩa lưu dung, tại xã Phú Vinh, gọi là trường phổ thông trung học Hà Huy Tập từ lớp Mười tới lớp Mười Hai. Tôi hiểu lờ mờ đại khái về danh nhân Hà Huy Tập, như liệt sĩ Nguyễn văn Trỗi, danh nhân Nguyễn thị Minh Khai, liệt nữ Võ thị Sáu, liệt sĩ Nơ Trang Long, liệt sĩ Phan đình Giót, liệt sĩ Huỳnh văn Bánh nhiều không kể xiết không thể đếm hết hằng hà sa số: nhất tướng công thành, vạn cốt khô; đống xương Vô Ðịnh đã cao bằng đầu.
Vậy là tôi được thuyên chuyển lên trường trung học phổ thông Hà Huy Tập. Hà Huy Tập, viết tắt là H.H.T.,ý nghĩa của nhà cách mạng tên tuổi không được sáng sủa rõ ràng dễ bị nhầm lẫn. Hà Huy Tập hay cũng một anh hùng kháng chiến chống Pháp con hùm Yên Thế Hoàng Hoa Thám viết tắt là H. H. T.? Kể từ nay, tôi chấm dứt bộ môn Việt Văn, được thay bằng bộ môn Anh Văn( bộ môn này được thay bằng Tiếng Anh thay vì môn Anh Văn bởi những nhà làm giáo dục vốn từ lâu không có cảm tình bộ môn này. Anh Văn, Pháp văn đọc lên nghe sặc mùi thực dân đế quốc! Tiếng Pháp, tiếng Anh đọc lên nghe thuần túy linh hồn dân tộc!)
Từ trước đến giờ, tôi vẫn yêu mến cảnh đồng quê như một tình tự thiên nhiên. Làng Vĩnh Ðiềm Trung mỗi lần gặp lại là một chào đón tôi lúc đi học xa về nghỉ hè hoặc nghỉ Tết. Ðạp xe đạp một mình thơ thẩn thả hồn trải rộng trên ruộng lúa xanh um mon men dọc theo bờ lúa quanh co lượn lờ, ngắm cảnh từ xa những ngọn cau thẳng đuột song song vụt lên giữ sáng trên ngọn đọt tựa những ngọn nến khổng lồ khi hoàng hôn sắp tắt, tôi tự thầm nhủ: cõest mon chéri village natal.
Theo thông lệ nhà trường nào cũng bố trí cắt đặt nhân viên thầy giáo trực trường mỗi đêm, gọi là gìn giữ an ninh trật tự mỗi khi có sự cố xảy ra bất thường. Trước 75 tại trường Trung học Võ Tánh, mỗi đêm tôi mang theo mùng gối chỉ cốt để ngủ ngày hôm sau còn phải tiếp tục đi dạy các trường công tư. Sau 75, chế độ trực đêm vẫn tiếp tục. Nói nào ngay, chế độ ( cách mạng ) cũng chiếu cố và ưu đãi giới phụ nữ chân yếu tay mềm: khỏi phải trực đêm trong các nhà trưòng dù là nữ nhân viên hay nữ giáo viên.
Ðộ nọ, một đêm tối trời, tôi gặp phải một đêm trực tại trường Hà Huy Tập như một thông lệ. Sau bữa cơm chiều, tôi thong thả ôm mền mùng gối cột vô chiếc xe đạp cà tàng trực chỉ Phú Vinh. Ðêm ấy là đêm mùa hè, trời tối, tôi đạp xe chầm chậm ra đường 23 tháng Mười tức quốc lộ Một cũ. Tôi vượt qua trường phổ thông cấp Một Vĩnh Ðiềm đứng lù lù trong bóng đêm, vượt qua chùa Ông, vượt qua nhíp chắn cổng đường sắt tuyến Nha Trang- Hà Nội. Ðến giờ phút này không gian đất trời bắt đầu mở rộng bao la bát ngát. Ðường xe lửa giờ này đã chạy ngang đường sắt hun hút, nghĩa địa Gò Găng thâm u huyền bí lập lòe ánh lửa ma trơi, Huê Quang tự nhịp nhàng ngân nga gióng điểm .
Chợt một tiếng nổ từ phương xa vọng lại, tôi ngước mắt phía bên phải để mắt nhìn, một hiện tượng khác thường. Ðã mấy năm qua đất nước trả lại thanh bình không còn bom rơi đạn nổ, hết rồi chinh chiến can qua lửa đạn. Tôi nom tận mắt không mơ hồ mộng mị một chiếc sào dài, không, phải nói một chiếc đuốc sáng rực tỏa ra tua tủa chung quanh bay vụt thinh không, ngọn đuốc thong thả uy nghi đường bệ bay về phía non Ðoài tức phương Tây hướng mặt trời lặn, tàn đóm không ngớt tỏa ra vụt sáng lòa vụt tắt ngấm. Ngọn đuốc bí nhiệm vẫn tiếp nối quãng đường bay, rồi Hòn Thơm, rồi núi Hòn Ngang, tôi vẫn đơn độc một mình mê mải ngắm nhìn, chỉ mỗi một tôi là người độc nhất chứng kiến tận mắt quang cảnh siêu hiện tượng. Hồi ức thật nhanh trong trí nhớ làm tôi nhớ đến cảnh tượng ( Bà Bay( trên không trung thật thấp năm nào, lúc tôi đang nghỉ hè suốt trong năm học. Thời gian phù du kéo dài chỉ độ ba hoặc bốn phút thì ngọn đuốc hào quang tắt ngấm. Chăm chú theo dõi, tôi nghe một tiếng nổ, không khác chi tiếng nổ ngày trước. Tôi suy luận:
- Bà đã về tới núi Am Chúa.
Tôi hơi một chút thất vọng khi tôi không hề chứng kiến tận mắt nghe tận tai một phép lạ nào. ( Kiến kỳ hình bất văn kỳ thanh ).  Ngày xưa lúc còn nhỏ thiên hạ đồn đại rằng đã vì xót thương thị dân Nha Trang mà Bà đã dập tắt ngòi bổ của bom, nhưng ( văn kỳ thanh bất kiến kỳ hình ).Không hiếm những chuyện... kỳ thoại được thuật lại sau năm 75. Nhiều gia đình nhiều tập thể tập trung quyết định trốn ra nước ngoài, mục đích ( làm lại cuộc đời ) không may định mệnh đưa đẩy bị phong ba bão táp lúc ra hải phận, giữa lúc mọi người chờ cái chết gần như chắc chắn xẩy ra thì đức Bồ tát Quán thế Âm cứu nguy tai qua nạn khỏi; chuyện thuật lại có một số bức hình của đức Bồ tát thị hiện chứng giám: ngài ngồi tại tòa sen nghìn tay nghìn mắt(thiên thủ thiên nhãn) dùng thần lực cứu độ chúng sinh thuận buồm xuôi gió trời êm bể lặng. Nhìn bức ảnh của Quán Thế Âm bồ tát sờ sờ thị hiện tận mắt 100%, tôi vẫn không sao thoát khỏi hồ nghi: kiến kỳ hình bất văn kỳ thanh, thấy người chẳng nhận âm thanh. Lúc về già, nhà văn giải Nobel Anatole France vẫn tiếp tục hoài nghi mang đầy tính chất báng bổ niềm tin, ( khoa học không là gì, nghệ thuật mới là tất cả ), khiến Vatican La Mã quyết định rút phép thông công, mặc kệ tác phẩm Quần đảo Chim Cánh Cụt./
.

Võ Doãn Nhẫn

Ý kiến bạn đọc

Vui lòng login để gởi ý kiến. Nếu chưa có account, xin ghi danh.