Dec 26, 2024

Biên khảo

Đường Thi - Chủ Đề Biên Tái 5 & 6
Nguyễn Ngọc Kiên * đăng lúc 07:18:52 PM, Jun 14, 2017 * Số lần xem: 2200
Hình ảnh
#1

Đường Thi - Chủ Đề Biên Tái 3 -

Đường Thi - Chủ Đề Biên Tái -

Thơ Biên Tái -

             

       ĐƯỜNG THI – CHỦ ĐỀ BIÊN TÁI

(Kì 5)

 TS. Nguyễn Ngọc Kiên  chọn dịch và giới thiệu thơ

Lí Bạch

塞下曲其四





滿





 

Phiên âm:

TÁI HẠ KHÚC KÌ 4 – Lí Bạch

Bạch mã Hoàng Kim tái,
Vân sa nhiễu mộng tư.
Na kham sầu khổ tiết,
Viễn ức biên thành nhi.
Huỳnh phi thu song mãn,
Nguyệt độ sương khuê trì.
Tồi tàn ngô đồng diệp,
Tiêu táp sa đường chi.
Vô thời độc bất kiến,
Lệ lưu không tự tri.

 

Dịch nghĩa:

 TÁI HẠ KHÚC KÌ 4

Ngựa trắng phi trên ải Hoàng Kim
Mây cát cuốn theo giấc mộng
Sá kể chi nỗi đau khổ
Xa nhớ trẻ ngoài biên cương
Mùa thu, đom đóm bay đầu cửa sổ
Sương lạnh, trăng chầm chậm qua buồng the
Lá ngô đồng tàn rụng
Cành sa đường xác xơ
Trông ngóng luôn nhưng nào có thấy
Một mình tuôn lệ âm thầm

 

Dịch thơ: 

KHÚC HÁT DƯỚI ẢI (KÌ 4) 

 Ngựa trắng phi Hoàng ải

Giấc mộng theo cát mây

Sá kể gì đau khổ

Nhớ trẻ biên ải này

Thu, đóm qua cửa sổ

Sương lạnh trăng qua đây

Lá ngô đồng tàn rụng

Cành sa đường lá bay

Trông ngóng nào có thấy

Một mình lệ tuôn đầy!

 








 

Dịch thơ: 

TÁI HẠ KHÚC KÌ 5

Tái lỗ thừa thu há,
Thiên binh xuất Hán gia.
Tướng quân phân hổ trúc,
Chiến sĩ ngọa Long Sa.
Biên nguyệt tùy cung ảnh,
Hồ sương phất kiếm hoa.
Ngọc Quan thù vị nhập,
Thiếu phụ mạc trường ta.

 

Dịch nghĩa:

KHÚC HÁT DƯỚI ẢI (KÌ 5)

Gặp tiết thu giặc ngoài ải tràn xuống
Binh trời ra từ nhà Hán
Tướng quân chi ấn hổ trúc
Binh sĩ nằm lăn trên bãi Bạch Lonh Đôi
Trăng ngoài ải theo lẩn bóng cung
Sương đất Hồ thấm ướt lưỡi kiếm
Ngọc Quan chưa vào được
Vợ trẻ chớ nên than dài

 

Dịch thơ:

KHÚC HÁT DƯỚI ẢI

Thu giặc tràn xuống ải

Nhà Hán xuất binh trời

Tướng nhận ấn hổ trúc

Chiến sĩ nằm Long Đôi

Trăng ải, cung theo ảnh

Sương Hồ ướt kiếm thôi

Ngọc Quan chưa vào được

Thiếu phụ chớ than dài.

 








 

Phiên âm:

HẠ TÁI KHÚC KÌ 6

Phong hoả động sa mạc,
Liên chiếu Cam Tuyền vân.
Hán hoàng án kiếm khởi,
Hoàn triệu Lý tướng quân.
Binh khí thiên thượng hợp,
Cổ thanh lũng để văn.
Hoành hành phụ dũng khí,
Nhất chiếm tĩnh yêu phân.

 

Dịch nghĩa

KHÚC HÁT DƯỚI ẢI (KÌ 6)

Khói lửa rung động ngoài sa mạc
Soi đến tận mây Cam Tuyền
Vua Hán chống kiếm dậy
Lại vời Lý tướng quân
Khí quân tụ cả trên trời
Tiếng trống vang dậy ngoài cõi
Tung hoành đầy khí thế
Yêu quái một trận dẹp tan

 Dịch thơ:

KHÚC HÁT DƯỚI ẢI (KÌ 6)

Khói lửa rung sa mạc

Soi mây Cam Tuyền lan

Vua Hán chống kiếm dậy
Lại vời Lý tướng quân
Trên trời khí quân tụ

Ngoài cõi tiếng trống vang

Tung hoành đầy khí thế
Yêu quái một trận tan.

 

 SẦM THAM (715-770)  
 
                               

Sầm Tham là người Nam Dương, tỉnh Hà Nam (Trung Quốc). Cha ông từng làm Thứ sử (hai lần), và đã qua đời lúc Sầm Tham còn nhỏ.

Nhà nghèo, ông phải tìm cách tự học. Năm 744 đời Đường Huyền Tông (ở ngôi: 712-756), Sầm Tham thi đỗ Tiến sĩ lúc 29 tuổi, được bổ làm một chức quan nhỏ là Binh tào Tham quân.

Năm 749, ông theo tướng Cao Tiên Chi đến An Tây  (ra biên ải lần thứ nhất), nhưng chẳng bao lâu lại trở về kinh đô Trường An.

Năm 754, ông ra biên ải lần thứ hai, làm Phán quan cho Tiết độ sứ An Tây là Phong Thường Thanh. Thời kỳ này, ông sáng tác rất nhiều thơ về chủ đề "biên tái".

Sau loạn An Sử (755-763), từ Tửu Tuyền (nay thuộc Cam Túc), Sầm Tham đến Phượng Tường (nay thuộc Bảo Kê, Thiểm Tây) là nơi Đường Túc Tông (ở ngôi: 756-762) đang ở. Được bạn thân là nhà thơ Đỗ Phủ và Phòng Quân tiến cử, ông được giữ chức Hữu bổ khuyết.

Thời Đường Đại Tông (ở ngôi: 762-779), Sầm Tham lại ra biên ải (lần thứ ba). Năm 766, ông được bổ làm Thứ sử Gia Châu (nên ông xưng là Sầm Gia Châu), nhưng sau đó bị bãi chức .

Lâm cảnh đói nghèo, năm 770, Sầm Tham mất trong quán trọ tại Thành Đô (nay là tỉnh lỵ tỉnh Tứ Xuyên) lúc 55 tuổi.

Tác phẩm của ông để lại có Sầm Gia Châu thi tập (Tập thơ của họ Sầm ở Gia Châu) gồm 8 quyển.

                                (Theo Từ điển mở Kiwipedia tiếng Việt)

西

宿

 

 Phiên âm:

THÍCH TRUNG TÁC

Tẩu Mã tây lai dục đáo thiên,
Từ gia kiến nguyệt lưỡng hồi viên.
Kim dạ bất tri hà xứ túc,
Bình sa vạn lý tuyệt nhân yên.

 

Dịch nghĩa:

VIẾT TRONG SA MẠC

Giục ngựa chạy về phía Tây, muốn đến tận chân trời

 Rời nhà ra đi, đã thấy trăng hai lần tròn

 Đêm nay không biết ngủ ở đâu

 Trên sa mạc muôn dặm, tuyệt không thấy bóng người và khói bếp.

 

Dịch thơ:

CẢM TÁC TRONG SA MẠC

Ngựa sải về Tây muốn tới trời

Xa nhà chốc đã hai mùa rồi

Đêm nay chẳng biết  tìm đâu ngủ

Vạn dặm cát xa chẳng khói, người.

 

見渭水思秦川
渭水東流去,
何時到雍州.
憑添兩行淚,
寄向故園流.

 Phiên âm:

KIẾN VỊ THỦY TƯ TẦN XUYÊN
Vị thuỷ đông như khứ,
Hà thời đáo Ung Châu.
Bằng thiêm lưỡng hàng lệ,
Ký hướng cố viên lưu.

 

Dịch nghĩa:

THẤY SÔNG VỊ NHỚ TẦN XUYÊN

Song Vị chảy về đông

Bao giờ tới châu Ung

Nếu chở thêm được hai dòng lệ

Xin gửi đưa giùm về quê hương

 

Dịch thơ:

THẤY SÔNG VỊ NHỚ TẦN XUYÊN

Sông Vị chảy về Đông

Bao giờ tới châu Ung

Nếu thêm đôi dòng lệ

Xin gửi về cố hương.

 

使




 

Phiên âm:

PHÙNG NHẬP KINH SỨ

Cố viên đông vọng lộ man man,
Song tụ Long Chung (1) lệ bất can.
Mã thượng tương phùng vô chỉ bút,
Bằng quân truyền ngữ báo bình an.

 

Dịch nghĩa:

GẶP SỨ GIẢ VÀO KINH

Ngóng về hướng đông nơi quê nhà, đường dài hun hút
Hai tay áo thõng, nước mắt không cạn
Ở trên lưng ngựa gặp nhau, không có bút trong tay
Nhờ anh gửi lời nhắn tin báo rằng tôi vẫn được bình yên.

 

 Dịch thơ:

GẶP SỨ GIẢ VÀO KINH

Đông ngóng quê nhà, chốn mênh mang

Hai tay áo thõng, nước mắt giàn

Gặp trên lưng ngựa không giấy bút

Nhắn hộ rằng tôi vẫn  bình an.

(Kì 6)

 TS. Nguyễn  Ngọc Kiên  chọn dịch và giới thiệu thơ

Số trước chúng tôi đã giới thiệu một số bài TÁI THƯỢNG KHÚC và TÁI HẠ KHÚC (KHÚC HÁT NƠI BIÊN TÁI) của Lí Bạch, Vương Xương Linh. Số này chúng tôi tiếp tục giới thiệu chùm bốn  bài TÁI HẠ KHÚC của Lư Luân (Trung Đường).

 

Lư Luân 盧綸 (748-800) tự Doãn Ngôn 允言, người Hà Trung (nay là tỉnh Sơn Tây). Trong thời Đại Lịch, đời Đường Đại Tông, thi nhiều lần không đậu, sau có người tiến cử ra làm quan chức uý tại Văn Khanh, lần lần thăng đến chức Hộ bộ lang trung, giám sát ngự sử. Tham gia quân đội nhiều năm, thơ ông phóng khoáng, quan tâm nhiều đến đời sống nhân dân.

Lư Luân là một trong mười tài tử thời Đại Lịch (chín người kia là Cát Trung Phu, Hàn Hoành, Tiền Khởi, Tư Không Thự, Miêu Phát, Thôi Động, Cảnh Vi, Hạ Hầu Thẩm, Lư Đoan).

 

 -

 

 

 

TÁI HẠ KHÚC (BỐN BÀI KÌ I)– LƯ LUÂN

 

Thứu linh kim bộc cô 

Yến vĩ tú miêu hồ 

Độc lập dương tân lệnh 

Thiên doanh cộng nhất hô

 

Dịch nghĩa : 

KHÚC HÁT MIỀN BIÊN TÁI (KÌ 1)– LƯ LUÂN

Đầu tiên là phát lệnh, kế tiếp là lập công, kế nữa là thoái địch, cuối cùng là ca khúc khải hoàn. 

 Mủi tên làm bằng lông con chim thứu 

Cây cờ thêu bằng đuôi con yến 

Đứng oai nghi lẫm lẫm ra hiệu lệnh 

Ngàn doanh trại cùng dạ rân 

 

Dịch thơ:

KHÚC HÁT MIỀN BIÊN TÁI (KÌ 1)– LƯ LUÂN

Tên Kim Bộc lông thứu 

Cờ đuôi én  rõ ràng 

Một mình  truyền lệnh mới

Nghìn trại cùng hô vang 

 

 

 -

 

 

 

 

TÁI HẠ KHÚC KÌ 2 – LƯ LUÂN

Lâm ám thảo kinh phong 

Tướng quân dạ dẫn cung 

Bình minh tầm bạch vũ 

Một tại thạch lăng trung

 

Dịch nghĩa:

KHÚC HÁT MIỀN BIÊN TÁI (KÌ 2)– LƯ LUÂN

Trong rừng u ám cỏ lay động theo chiều gió 

Tướng quân đêm tối dương cung bắn ra 

Bình minh đi tìm dấu tên lạc 

Tên ngập sâu vào góc đá tới tận chuôi 

 

 

Dịch THƠ:

KHÚC HÁT MIỀN BIÊN TÁI (KÌ 2)– LƯ LUÂN

Rừng xám gió lay cỏ hải hùng 

Tướng quân đêm tối vội giương cung . 

Bình minh tìm dấu tên bay lạc 

Ngập tới tận chuôi đá lạnh lùng 

 

 -

 

 

 

滿

 

Phiên âm:

TÁI HẠ KHÚC KÌ 3 – LƯ LUÂN

 

Nguyệt hắc nhạn phi cao 

Thiền vu dạ thuẫn đào 

Dục tướng khinh kỵ trục 

Đại tuyết mãn cung đao

 

Dịch nghĩa:

KHÚC HÁT MIỀN BIÊN TÁI (KÌ 3)– LƯ LUÂN

Trăng lờ mờ nhạn bay trên cao 

Vua Hung nô ban đêm phải bỏ chạy trốn 

(Tướng quân) muốn cưỡi khoái mã rượt theo 

 (Mà) cơn bão tuyết xuống rớt đầy cả cung đao 

 

 

Dịch thơ :

KHÚC HÁT MIỀN BIÊN TÁI (KÌ 3)– LƯ LUÂN

Trăng mờ nhạn lượn tít trên cao

Vua Hung Nô đêm trốn vượt rào

Tướng quân muốn cưỡi ngựa rượt đuổi

Baõ tuyết rớt đầy cả cung đao.

 

 

 -

 

 

 

 

Phiên âm:

TÁI HẠ KHÚC KÌ 4 – LƯ LUÂN

Dã mạc tế quỳnh diên 

Khương nhung hạ lao tuyền 

Tuý hoà kim giáp vũ 

Lôi cổ động sơn xuyên

 

Dịch nghĩa:

KHÚC HÁT MIỀN BIÊN TÁI (KÌ 4)– LƯ LUÂN

Ngoài hoang dã bày đầy những thức trân quý 

Chúc mừng chiến công đuổi rợ Khương Nhung 

Say xong để nguyên áo giáp nhảy múa 

Tiếng trống vang dậy cả sông núi

 

Dịch thơ:

KHÚC HÁT MIỀN BIÊN TÁI (KÌ 4)– LƯ LUÂN

Thức quý bày ra khắp cánh đồng

Tiệc mừng chiến thắng bọn Khương Nhung

Uống say nguyên giáp cùng nhảy múa

Tiếng trống rền vang dậy núi sông.

 

Chú thích :

 

Tái hạ khúc: tên bản Nhạc Phủ, ca khúc ở miền biên tái 

Kim Bộc Cô: tên tiễn 

Miêu hồ: tên cờ 

Thảo kinh phong: cỏ bị gió lay động 

Bạch vũ: chỉ tiễn (cây tên) 

Thạch lăng: góc hòn đá. Lý Quảng tướng đời Hán, đi săn thấy viên đá trong cỏ, tưởng cọp, bắn, ngập tận chuôi, nhìn lại là đá 

Thiền vu: tên của người Hung nô gọi vua 

Khinh kỵ: ngựa chạy mau 

Quỳnh đình: đình tiệc trân quý 

Khương Nhung: rợ tây Nhung bộ lạc Khương 

Lạo tuyền: khao lạo, ca khải hoàn 

Kim giáp: chiến bào

 


 

 

Ý kiến bạn đọc

Vui lòng login để gởi ý kiến. Nếu chưa có account, xin ghi danh.