沉思谩成 TRẦM TƯ MẠN THÀNH
關頭夢覺尚糢糊 Quan đầu mộng giác thượng mô hồ
獨坐沉思一病夫 Độc tọa trầm tư nhất bệnh phu
生化化生憑大造 Sanh hóa hóa sanh bằng đại tạo
色空空色證浮屠 Sắc không không sắc chứng phù đồ
三朝耆蕙名徒有 Tam triều kỳ huệ danh đồ hữu
五爵恩弥深竟無 Ngữ tước ân di thực cánh vô
身世随機同傀儡 Thân thế tùy cơ đồng quỷ lỗi
幾回踊躍助人娛 Kỷ hồi dõng dược trợ nhân ngu.
陳廷粛 Linh Đàn (phiên bản
Trần Đình Túc
Dịch nghĩa: Trần Đại Vinh, Nguyễn Hữu Kiểm
NỖI SUY TƯ
Tỉnh giấc mơ đầu cửa ải, vẫn còn mơ hồ
Một mình ngồi suy nghĩ, một thân bệnh tật
Sinh hóa hóa sinh, nương theo tạo hóa lớn lao
Sắc là không, không là sắc, chứng nghiệm theo đạo Phật
Bậc già cả được ơn của ba triều, chỉ có danh xuông
Ơn sâu năm bậc tước, thật mà lại không
Thân thế tùy cơ, giống như tượng gỗ (con rối)
Mấy hồi nhảy nhót giúp cho người vui.
Dịễn thơ
NỖI SUY TƯ
(thoát dịch)
Ải quan tỉnh giấc vẫn mơ hồ
Thân bệnh một mình nghĩ vẩn vơ
Sinh, hóa - lẽ thường do nguyên lý
Sắc, không - định lệ tại căn cơ
Ba triều khen thưởng, cho rằng: - hữu
Năm tước ân ban, được vậy: - vô
Thân thế rùy cơ làm tượng gỗ
Giúp người nhảy nhót đến niềm mơ
Hạ Thái Trần Quốc Phiệt
Feb-2016
-*-
長 亭 飲 餞 因 詩 留 柬
TRƯỜNG ĐÌNH ẨM TIỄN NHÂN THI LƯU GIẢN
夾路花香鳥語春 Giáp lộ hoa hương điểu ngữ xuân
長亭盛餞恰佳辰 Trường đình thịnh tiễn kháp giai thần
歷嘗世上辛甘味 Lịch thường thế thượng tân cam vị
同是塵中壯老身 Đồng thị trần trung tráng lão thân
將別未難情緒密 Tương biệt vị nan tình tự mật
欲言無語酒斟頻 Dục ngôn vô ngữ tửu châm tần
飲和食德知多日 Ẩm hòa thực đức tri đa nhật
可有劳能答大君 Khả hữu lao năng đáp đại quân
陳廷粛 Linh Đàn (phiên bản)
Trần Đình Túc
Dịch nghĩa: Trần Đại Vinh, Nguyễn Hữu Kiểm
NƠI TRƯỜNG ĐÌNH UỐNG RƯỢU TIỄN, NHÂN LÀM THƠ TỪ BIỆT
Giáp với con đường hoa thơm, chim hót với xuân
Tiễn đưa long trọng nơi trường đình gặp lúc thời tiết đẹp
Đã từng nếm vị cay ngọt trên đời
Cùng là thân mạnh khỏe hay già nua trong đời
Lúc chia tay chưa thể giải bày tình thân mật
Muốn nói nhưng không nên lời, rượu đã rót thêm nhiều lần
Tự biết đã nhiểu ngày uống khí hòa, ăn đức độ
Có thể nhọc nhằn đền đáp ơn vua.
Diễn thơ
NGỒI UỐNG RƯỢU LƯU MẤY
VẦN THƠ TRÊN TRƯỜNG ĐÌNH
(thoát dịch)
Hoa ngát đường xuân chim hót vang
Trường Đình thời tiết đẹp vô vàn
Cõi đời lắm bận vương cay đắng
Nhân thế bao lần gội chứa chan
Ly biệt ngậm ngùi tình thắm thiết
Chia tay bịn rịn ý bàng hoàng
Khí hòa, đức độ ân ban xuống
Đền đáp ơn vua phụng bệ vàng.
Hạ Thai Trần Quốc Phiệt
Feb-2016
-*-
述懷 THUẬT HOÀI
屆年衰病故辭官 Giới niên suy bịnh cố từ quan
宅卜蟠門便養閑 Trạch bốc Bàn Môn tiện dưỡng nhàn
客遜楚邱心獨壯 Khách tốn Sở khâu tâm độc tráng
歸同杜衍鬂雙斑 Quy đồng Đỗ Diễn mấn song ban
囬思成說收功易 Hồi tư thành thuyết thâu công dị
却悟浮名屏跡難 Khước ngộ phù danh bính tích nan
恰似畫龍憑妙筆 Kháp tự họa long bằng diệu bút
崢嵘頭角竦人看 Tranh vanh đầu giác tủng nhân khan
陳廷粛 Linh Đàn (phiên bản
Trần Đình Túc
Dịch nghĩa: Trần Đại Vinh, Nguyễn Hữu Kiểm
TỎ LÒNG
Tới năm già yếu nên từ quan
Chọn làm nhà ở làng Bàn Môn để tiện dưỡng nhàn
Khách trốn gò nước Sở, riêng tấm lòng vẫn khỏe
Trở về như Đỗ Diễn, hai mái tóc đã bạc phơ
Nhớ lại khi chân thành nói dễ thu hiệu quả
Trót lỡ danh hờ, khó che dấu vết
Cũng giống như vẽ rồng, phải có bút nhiệm mầu
Chênh vênh trân đầu sừng, kính để cho người xem.
Dịễn thơ
TỎ LÒNG
(thoát dịch)
Già yếu tới nơi muốn cáo quan
Bàn Môn thôn dã thảnh thơi nhàn
Gò hoang trốn khách tâm thơ thái
Bóng mát che thân trí nhẹ nhàng
Chuyện cũ công lao gay luận xét
Tích xưa danh vị khó suy bàn
Vẽ rồng cần phải nhiệm mầu bút
Chớ có nghênh ngang ý tưởng càn.
Hạ Thai Trần Quốc Phiệt
Feb-2016
-*-
|