SỬ THI ILIADE. THI HÀO HOMÈRE (bài 12)
THI CA KHÚC XI : CHIẾN CÔNG VUA AGAMEMNON (câu 6385 đến 7096)
TS PHẠM TRỌNG CHÁNH (NHẤT UYÊN) chuyển ngữ thơ lục bát
TÓM LƯỢC :
Sáng hôm sau trận chiến lại bắt đầu. Vua Agamemnon chiến thắng, chỉ huy đánh lui quân Troie về thành. Nhưng Thần Vương Zeus phù hộ Hector, vua Agamemnon bị thương, quân Hy Lạp lại co cụm, mặc dù có Diomède, Ulysse, Ajax. Diomède bị thương bởi Pâris phải trở về trại, Ulysse bị thương được Ménélas và Ajax giải cứu. Pâris còn đã thương lương y Machaon và Eurypyle. Achille đứng trên cao quan sát tình hình thấy Machaon trở về gửi Patrocle đến hỏi thăm tin tức. Nestor vương lão thuyết phục Patrocle, nhắc lại lời dặn dò của vua Pélée và cha Patrocle, kể chuyện chiến công mình thời trai trẻ cầu xin Patrocle nói với Achille xuất trận cứu nguy quân Hy Lạp, nếu không thì Patrocle mượn khiên lao áo giáp Achille xuất quân để quân Troie hoảng sợ. Patrocle trên đường về gặp Eurypyle bị thương, đem về trại và băng bó cứu thương cho chàng.
Bình minh rời khỏi giường hồng, 6385
Rời Tịnh Không sáng cõi trần, cõi thiên. (Tithon)
Thần Vương gửi đến bên thuyền,
Bất Hoà Thần Nữ, phất trần trong tay.*
An Kinh doanh trại thuyền bày,
Giữa thuyền Uy Lĩnh, chạy dài hai bên. 6390
An Bắc, An Sinh đầu thuyền,
Nữ thần khơi náo nức lòng ba quân.
An Trích mặc áo giáp đồng,
Hai chân che phủ khủy bằng ngân kim.
Giáp che phủ ngực căng tròn,
Giáp vua Kỳ Thiết tiếp tân tặng quà.(Kinyrès)
Đảo Chuyết hưởng ứng vây Troa,(Chypre)
Dâng vua An Trích làm quà xuất chinh.
Mười hai băng sắt đen tuyền,
Mười hai vàng, thép, bạch kim nối dài. 6400
Cổ cao, rồng chạm vẽ vời,
Như cầu vòng bảy sắc trời mây mưa.
Hai cầu vai rủ hai tua,
Đỉnh đầu sáng chói, mũ vua bạc vàng.
Bao gươm bạc, cán sơn dương,
Khiên tròn, vòng bạc, giữa vòng bạch kim.
Chạm hình đầu quỷ Đột Tinh, (Gorgone)
Mắt nhìn máu lửa hoảng kinh trừng trừng.
Một dây da choàng qua mình,
Vẽ vời chạm một thanh long ba đầu. 6410
Nhà vua đội mũ hai ngù,
Bốn u thép nhọn, lắc lư đuôi dài.
Hai thanh lao nhọn trong tay,
Hạ Cơ phù hộ vua đầy thiên ân.(Héra)
Giáp binh tiến bước trùng trùng,
Ngựa xe dũng tướng nối hàng theo sau.
Thần Vương thổi trận sương đào,
Diêm Vương chờ đón hồn vào âm cung.
Quân Troa trên dãy đồi nương,
Quanh ba dũng tướng kiên cường tiền quân. 6420
Hải Tô vĩ đại kiêu hùng,
Bồ Ly Đa Mạc tài năng vẹn toàn. (Polydamas)
Âu Nê dân phục như thần(Énée)
Ba trai An Thế lĩnh hàng hậu quân.(Anténor)
Bồ Linh, An Giác anh hùng,(Polybe, Agénor)
An Ca Mạc tuổi trẻ trung như thần (Acamas)
Hải Tô đi trước hùng binh,
Khi thì dục ngựa đi vòng phía sau.
Điều quân binh kỵ tiếp mau,
Mình đồng chớp sáng chiến bào Thần Vương. 6430
Quân như thợ gặt mang liềm,
Đi theo từng luống cày trên ruộng đồng.
Nơi trang trại của phú nông.
Ngọn lao giáp trận máu hồng tuôn rơi.
Lao bay, tên bắn tơi bời,
Chẳng ai chạy trốn phận người đau thương.
Như bầy sói dữ hung hăng,
Nhanh chân xông xáo trên đồng máu xương.
Thần Bất Hòa vui thù hằn,
Là Thần duy nhất lăng xăng chiến trường. 6440
Các Thần khác chẳng dự bàn,
Trách hờn thiên vị, Thần Vương dành phần.
Cho Troa quân thắng chiến trường,
Thần Vương chẳng cải, chẳng màng ngồi riêng.
Mắt nhìn theo dõi việc trần,
Thành Troa cùng với chiến thuyền An Kinh.
Ngọn lao sáng loáng vẫy vung,
Sát nhân, nhân sát, hồng trần cuộc chơi.
Bình minh máu đỏ ngày dài,
Khắp vùng chiến địa thây người máu tanh. 6450
Như tiều phu nghỉ trưa ăn,
Để bờ thung lũng cây rừng ngỗn ngang.
Chán chê chém giết sức mòn,
Mới lui về nghỉ dưỡng quân bên thành.
An Gia Vương lập chiến công,
Mở đầu đã diệt anh hùng Bi Nô (Biénor)
Hàng đầu quân đội thành Troa,
Oai Lê phó tướng nhào vô đời tàn. (Oïlée)
Chạy xe đối mặt lãnh đòn,
Ngọn lao phóng thẳng xuyên ngang trán đầu. 6460
Óc trào trong mũ trắng phau,
Máu hồng nhuộm đỏ chiến bào, ngã lăn.
Mặc cho quân nhặt lao khiên,
Nhà vua lại hạ hai hoàng tử Biam,
Ân Thi Phổ con Chánh cung, (Antiphos)
Y Lộc dòng thứ, cầm cương ngựa hồng. (Isos)
Nổi danh dũng cảm chiến công,
Xưa từng đối địch với cùng An Sinh.
Vùng Y Đa làm tù binh,
Lúc làm quản trại chăm nom bầy cừu. 6470
Trói dây mây, đổi địch thù,
Món tiền chuộc mạng kếch xù vua Troa.
Ngọn lao An Trích phóng ra,
Trúng ngay lồng ngực, chiến xa đổ nhào.
Ngọn gươm An Trích tung mau,
Cắt tai Ân Phổ máu đảo đổ tuôn. (Antiphos)
Nhận ra hình dáng tù binh,
An Sinh dẫn độ, chiến công lẫy lừng.
Như sư tử giữa cánh đồng,
Bầy nai tơ dại dưới nanh vuốt dài. 6480
Dưới đòn dũng mãnh hùm oai,
Rừng dày tung chạy, mồ hôi kinh hoàng.
Dũng tướng chẳng thoát tử thần,
Còn ai đối địch trong hàng Troa quân.
Phi Nam, Hy Bảo tiến lên,(Pisandre, Hippolochos)*
Cả hai cùng nhận tiền vàng Lộc Sơn (Alexandre, Pâris)
Chối từ trao trả Hạ Lan,
Hai con Mã Chước lên cùng chiến xa. (Antimachos)
Đối đầu trước xe ngựa vua,
Ngựa hồng hoảng sợ đong đưa lật nhào. 6490
Đứng lên run trước ngọn lao,
Gập đầu, quỳ gối lòng nào van lơn:
Ân Thi Mã Chước giàu sang,(Antimachos)
Cha tôi đều sẵn bạc vàng chuộc con.
Biết chúng tôi vẫn sống còn,
Làm tù binh ở chiến thuyền An Kinh.
Cả hai cùng khóc ròng ròng,
Đợi Vua nguôi giận cho thân sống còn,
An Gia càng giận quát lên :
Chúng bay là một lũ con nghịch thần. 6500
Ân Thi Mã Chước hung hăng,
Bác lời Mai Lạc sứ thần chúng ta. (Ménélas)
Bây giờ bây trả cho cha,
Ý đồ chủ chiến bỏ qua lời cầu.
Nói rồi phóng thẳng ngọn lao,
Nhắm vào lồng ngực đổ nhào chiến xa,
Hy Bảo hoảng sợ nhảy qua,
Thanh gươm Vua đã chém lìa đôi tay.
Chiếc đầu gục xuống lăn quay,
Vua hô, binh sĩ phanh thây trận tiền. 6510
Quân Troa hoảng sợ lui chân,
Bụi tung mù mịt trắng đồng máu tuôn.
An Gia Vương dục binh hùng,
Troa quân đầu rụng xác thân chiến trường.
Chiến xa nghiêng ngữa đổ quanh,
Lửa hồng cháy đỏ, rừng xanh gió bừng.
Diều, ưng bay lượn không trung.
Bao nhiêu chinh phụ nỗi lòng xót xa.
Hải Tô co cụm quân nhà,
Qua lăng Y Quốc (Ilios) mới ra đối đầu. 6520
Đám tàn quân chạy theo sau,
Dưới chân sư tử cấu cào vuốt nanh.
Màn đêm buông xuống dần dần,
Trốn đâu chẳng khỏi thoát thân tử thần.
Như bầy bò chậm bước chân,
Vuốt nanh đứt cổ, máu đầm thảm thương.
An Gia Vương đuổi Troa quân,
Đối đầu hay trốn mệnh thân chẳng toàn.
Dưới tay An Trích tiến quân,
Ngọn lao tàn sát chẳng dung địch thù. 6530
Dưới chân thành rộng hào sâu,
Thần Vương từ đỉnh mây cao non ngàn.
Y Đa nhìn xuống bên thành,
Uy quyền sấm sét cõi trần trong tay.
Truyền Y Bích đến bên ngai,(Iris)
Thần Cầu Vòng bảy sắc bay sứ truyền :
Hãy đi bảo Hải Tô rằng ,
Hãy đấu với An Gia Vương tuyến đầu,
Đả thương hắn với tên, lao,
Đến khi hắn phải lùi vào ngựa xe. 6540
Ta cho chém giết thỏa thuê,
Đánh cho đến tận thuyền bè biển xanh.
Đến khi trời tối đỏ hồng,
Đêm thiêng bao phủ chiến trường mới ngưng.
Nghe lời Y Bích bay nhanh
Gót chân cuộn gió đến thành Ý Long,
Gặp Hải Tô, thái tử Biam,
Đứng sau song mã vững vàng xe cương,
Kề bên truyền lệnh Thần Vương,
Rồi nhanh chân gió Cầu Vòng bay đi. 6550
Hải Tô đi khắp quân nghi,
Kích lời cận chiến tức thì An Kinh.
An Gia Vương tiến trước tiên,
Đoàn quân hăng máu trận tiền xung phong.
Hát tôi nghe ! Hỡi Nữ Thần
Thi Ca nơi chốn cung đình Thiên Sơn.
Ai người đối địch Đại Vương,
Tướng Troa hay tướng viện binh giúp thành.
Anh Phi An Thế con dòng, (Iphidamas con Anténor)
Quê hương Thạch Các ruộng đồng phì nhiêu. (Thrace) 6560
Vóc người lực lưỡng lớn cao,
Rời lâu đài bước đi vào chiến chinh.
Mười hai thuyền chiến giáp binh,
Đậu bến Bạch Cốt đến thành Ý Long. (Percote,Ilion)*
Xuất quân giáp mặt Đại Vương,
Ngọn lao An Trích phóng gần hụt trên,
Anh Phi đâm trúng đai vàng,
Ngọn lao toan ấn sâu tràn bên thêm.
Nhưng lao như mũi chì mềm.
Uốn cong trên lớp bạc vàng dây đai. 6570
An Trích giận tuốt gươm dài,
Vờn như sư tử, con mồi kề bên.
Chém tung đứt cổ địch quân,
Anh Phi dũng tướng đầu lăn ngã đùng.
Xót xa vợ trẻ khuê phòng,
Chinh phu vĩnh biệt lên đường xa nhau.
Chẳng còn về nữa thương đau,
Trăm bò sính lễ, nghìn cừu mà chi.
An Trích toan cướp tử thi,
Mang về vũ khí uy nghi giáp đồng. 6580
Bổng đâu xông đến tướng Công (Coon)
An Thế con trưởng anh hùng vinh danh. (Con Antenor).
Đau thương trước mắt sự tình.
Thấy em bị hạ dưới thanh kiếm thù.
Xông vào phóng thẳng ngọn lao,
Trúng tay An Trích, xuyến xao rùng mình.
Nhà Vua xông chẳng sờn lòng,
Ngọn lao bay thẳng như giông gió tràn,
Tướng Công thương tích ngã lăn,
Rút gươm An Trích chém phăng đứt đầu. 6590
Hai con An Thế còn đâu,
Dưới tay An Trích thương đau số phần.
Về chầu Dìêm Chúa đau thương,
An Gia Vương đứng hiên ngang anh hùng.
Khi đá tảng, gươm lao đồng,
Mặc cho máu chảy ròng ròng vết thương.
Đến khi dòng máu ngừng tuôn,
Mới hay đau đớn thấm dần tay thôi.*
Như phụ nữ đến lúc thời,
Nỗi đau xé ruột chào đời con thơ. 6600
Y Lý Thy, ái nữ Hạ Cơ,(Ilithys, Héra)
Là Thần Đau Đớn xé da thịt người.
Bước lên xe chiến nghỉ ngơi,
An Trích ra lệnh xe lui về thuyền.
Vẫn còn sang sảng lệnh truyền :
Các bạn tướng lĩnh Đạt Liên anh hùng,
Hãy thay tôi giữ chiến trường.
Nói rồi đánh ngựa về thuyền dưỡng thương.
Chiến xa phất phới áo choàng,
Bụi tung trắng bóng quân vương về thuyền. 6610
Hải Tô quay lại tiến quân,
Thần Vương phù trợ kiên cường tiến công.
Mang về chiến thắng vinh quang,
Phen này nhất định đánh thuyền An Kinh.
Như thợ săn lệnh vừa ban,
Bầy chó dũng mãnh, nhe hàm trắng răng.
Xông lên sư tử, heo rừng,
Hải Tô tai họa chiến trường An Kinh,
Hàng đầu xông xáo trận tiền,
Thổi cơn bão tố khắp miền biển lam. 6620
Ai người ngã gục đau thương,
Dưới tay Thái tử Vua Biam anh hùng,
An Sài, Âu Tố máu tung, (Asaios, Autonoos)
Ô Thế, Đô Lộc con dòng Ly Tô, (Opotès, Dolops, Clytios)
Ô Phê, An Giã, Ái Mô (Opheltions, Agelaos, Aisymnos)
Ô Lộc, Hy Cốt cơ đồ tang thương. (Oros, Hipponoos)
Và bao quân sĩ An Kinh,
Như Tây Khuê thổi, Nam phong mây ngàn. (Zéphyre, Notos)
Như cơn gió lốc cuốn vần,
Ngàn muôn đợt sóng cuộn tung trắng hào. 6630
Bao đầu rơi rụng máu đào,
Xác thân gục ngã gươm đao anh hùng.
Trước cơn thảm bại lui dần,
Uy Lĩnh bảo với bạn thân lời rằng:
Ty Đê công tử hãy nhanh,
Bên tôi phản kích chận đường Hải Tô.
Chớ nên để hắn tiến vô,
Chiến thuyền đốt cháy, cơ đồ thảm thương.
Đỗ Tướng quân trả lời rằng :
Có tôi ở lại cản ngăn bước đường. 6640
Nhưng Thần Vương Đấng Hội Vân,
Cho quân Troa thế thượng phong chiến trường.
Ngọn lao Đỗ Mạnh xông lên.
Hất tung Thân Bá khỏi thềm chiến xa.(Thymbraios).
Đâm vào ngực trái máu sa,
Uy Lĩnh hạ thủ tướng nhà Mê Long (Mélion).
Như heo rừng húc chó săn,
Quân Troa tàn sát dưới chân hai chàng.
An Kinh nhẹ nhỏm trong lòng,
Chẳng còn trốn tránh gươm thần Hải Tô. 6650
Một xe song mã xông vô,
Hai chàng Bạch Cốt tài cao lẫy lừng. (Percote),
Lào thông binh mã sức hùng,
Trước lao Đỗ Mạnh, đời cùng hồn bay.
An Kinh xông cướp ngựa ngay,
Uy Lĩnh lại giết hai tay tướng hùm.
Hy Mộc, Hy Bắc đường tàn. (Hippodamos, Hypeirochos)
Hai bên chiến trận lại bằng sức nhau.
Thần Vương xuyên thấu mây cao,
Đỉnh Y Đa thấy máu đào trào tuôn. 6660
Ty Đê công tử phóng thương,
An Giác Tô Phổ trúng ngang háng đùi. (Agastropos con Péon)
Phê Ông công tử toan lui,
Ngựa xe lại cách xa nơi cận hầu,
Chân chưa kịp chạy nơi đâu,
Ngọn lao phóng tiếp thương đau lìa đời.
Hải Tô trông thấy bồi hồi,
Đỗ Mạnh, Uy Lĩnh tiến nơi phía mình,
Hét hô tiền đội xông lên ,
Đỗ Mạnh khẽ bảo với cùng bạn thân : 6670
Hải Tô tai họa vô ngần,
Đón đầu mình đấu với cùng hắn ta.
Nói rồi phóng ngọn lao ra,
Hải Tô trúng nón văng xa mũ đồng.
Mũ dày ba lớp bắn tung,
Món quà Phổ bút An Long tặng chàng. (Thần Phébus Appolon)
Hải Tô vội vả nhanh chân,
Chạy vào lẫn với đám đông quân mình,
Ngã nhào tay chống đất mềm,
Mắt mờ như thấy bóng đêm ngang đầu, 6680
Ty Đê công tử đuổi mau,
Ngọn lao vừa cắm rung theo sức hùng,
Hải Tô hoảng hốt nhanh chân,
Nhảy lên xe chạy thoát thân tử thần,
Cầm lao Đỗ Mạnh hầm hầm :
Chó kia lại nữa một lần thoát thân.
Hôm nay nhờ có mũ thần,
Chạy còn kiếp đảm tiếng dòn ngọn lao.
Hẹn mi gặp gỡ lần sau,
Ta còn chiến đấu, Thần cao hộ trì. 6690
Nói rồi đâm thẳng lao dài,
Phê Ông công tử sóng soài nằm lăn.
Lột mũ áo còn mình trần,
Trao quân chiến phẩm lao đồng giáp gươm.
Bá Lê đứng tự xa trông, (Pâris)
Giương cung nõ dựa trên tầm mộ bia.
Gò Ilios lăng mộ vua,
Ngọn tên bay bổng trời xa rơi vào,
Trúng Đỗ Mạnh dội chiến bào,
Lại rơi xuống đất, cắm vào bàn chân. 6700
Bá Lê hớn hở vui mừng,
Rời ngay chổ nấp tưng bừng huênh hoang :
Đời tàn mi trúng mũi tên,
Trúng ngay hạ bộ chẳng còn sống chi.
Quân Troa mừng hội cơ này,
Chẳng sợ sư tử như bầy dê con.
Đỗ Mạnh lòng dạ chẳng sờn :
Hỡi tên bắn lén chốn chôn mộ phần,
Hãy ra đây đấu với ông,
Ngọn tên mi chỉ gải chân ta nào. 6710
Ra đây mà nếm ngọn lao,
Lao ta chẳng dễ thoát sao tử thần.
Vợ thương khóc xé má hồng,
Con mồ côi đớn đau lòng bơ vơ.
Xác thân máu đẩm bùn nhơ,
Thối tha cho ác điểu chờ xé ăn.
Uy Lĩnh cầm lao hộ gần,
Cho chàng ngồi xuống tay cầm rút tên.
Cơn đau đớn xé thịt xương,
Vội vàng bảo kẻ hầu lên xe về. 6720
Lui về hậu cứ thuyền bè,
Dưỡng thương lau vết máu me chân trần.
Uy Lĩnh còn lại một mình,
Chẳng còn một tướng quân cùng đấu tranh.
Hiên ngang chàng tự nhủ rằng :
Lẽ nào trốn chạy trước quân địch thù.
Sự tình còn lắm thảm sầu,
Mình ta sẽ phải đương đầu gian nan.
Biết bao kẻ nhát bỏ hàng,
Cũng không thoát trận quét càn địch quân. 6730
Chi bằng chiến đấu anh hùng,
Đánh hay bị đánh giáo gươm kẻ thù.
Uy Lĩnh đứng lại đối đầu,
Quân Troa đã đến như hầu vây quanh.
Như heo rừng giữa chó săn,
Hung hăng nanh trắng húc quân địch thù.
Quân Troa nôn nóng xông vào,
Vây quanh Uy Lĩnh ngọn lao anh hùng,
Đới Phi Tử trúng vai trên, (Deiopitès)
Thọ Ôn, An Mộc chết cùng thảm thương.(Thoon Ennomos) 6740
Kế Chi Mạc nhảy xe cương, (Chersidamas)
Ngọn lao trúng bụng lóc lăn bụi hồng.
Sa Cước thương tích tay chân, (Charops)
Sô Cô, anh hắn tiến gần giúp em. (Socos con Hippasos))
Vác lao lực lưỡng hầm hầm,
Đến gần Uy Lĩnh giận căm dằn lời :
Uy Lĩnh Mưu Kế hết thời,
Gặp Hy Bá Cước tàn đời mà thôi.(Hippasos)
Hãy xem đây ngọn lao dài,
Gặp ta mi biết họa tai đến ngày. 6750
Nói rồi phóng ngọn lao bay,
Xuyên qua đến lớp áo dày sườn non.
Quán Trí Tuệ chỡ che chàng,
Không cho lao trúng tim gan anh hùng.
Uy Lĩnh biết nhẹ vết thương,
Lui ra chàng hét với cùng Sô Cô :
Đời mi tàn mạt đáy mồ,
Ta cho mi ngọn lao chờ Âm Cung.
Sô Cô toan trốn quay lưng,
Ngọn lao Uy Lĩnh đã đâm sau mình. 6760
Hắn rơi rụng xuống ngã ầm :
Sô Cô mi đã đời tàn thiên thu,
Mẹ cha vuốt mắt được đâu,
Chim ưng xé xác dập dìu cánh bay.
Còn ta có chết trận này,
Anh hùng tang lễ là ngày vinh quang .
Rút lao ra khỏi khiên tròn,
Uy Lĩnh đau xót máu tuôn bên mình.
Troa quân trông thấy vết thương,
Càng thêm hừng chí tiến lên dần dần. 6770
Uy Lĩnh lùi bước kêu vang,
Gọi bạn bè đến giúp chàng thoát nguy,
Ba lần nghe tiếng gió bay,
Mai Ninh Lạc đã bảo ngay bạn gần :
An Bắc ! Uy Lĩnh nguy nan,
Mãi mê chống chọi Troa quân một mình.
Hãy mau cứu giúp bạn thân.
Nếu không hối tiếc vô cùng quân ta.
Hai chàng hăng hái xông ra,
Thấy Uy Lĩnh giữa vòng đà siết nhanh. 6780
Như con nai đã bị thương,
Giữa đàn sói dữ vuốt nanh đến gần,
Máu tuôn ướt đẫm đến chân,
Sói dữ toan xé thịt ăn giữa rừng,
bỗng đâu thấy chúa sơn lâm,
Sói rừng hoảng sợ lùi dần trốn đi,
An Bắc xông xáo cứu nguy,
Mai Ninh Lạc đã đến ngay đỡ chàng.
Đưa Uy Lĩnh khỏi chiến trường,
Quân hầu đón đỡ xe cương về thuyền. 6790
Đưa chàng cứu chữa vết thương,
An Bắc tiếp tục đánh cùng quân Troa,
Giết Đô Chí hoàng tử Biam (Doryclos)
Đả thương Băng Cốt và cùng Lý Săng. (Pandacos, Lysandre)
Phi Sa, Phi Lạc thương vong, (Pyrasos, Pylartès)
Như con sông chảy xuống đồng phù sa,
Nước tràn trận lũ giông mưa,
Bao thân sên mục, thông già cuốn theo.
Trôi ra biển cả sóng đào,
Dưới lao An Bắc biết bao máu hồng. 6800
Hải Tô phía tả trận tiền,
Chẳng hay biết đến trận tiền Sa Măng (Scamandre)
Bao đầu rơi rụng máu tanh,
Ninh Tô Vương lão đấu tranh chiến trường.
Anh Đô Mai tướng anh hùng (Idoménée)
Các Thần phù hộ lẫy lừng dọc ngang.
An Lộc Sơn bắn phát tên (Alexandre, Pâris),
Tên ba mũi trúng Mã Công anh hùng. (Machaon)
An Kinh lo ngại sự tình,
Anh Đô Mai đã bảo cùng Ninh Tô: 6810
Nhờ Vương lão hãy nhanh vô,
Cứu Mã Công gấp mau cho xe vàng,
Ngựa phi về chốn chiến thuyền.
Một lương y quý gấp trăm mạng người,
Nhổ tên, chữa thuốc trên vai.
Ninh Tô vội vã theo lời, xe nhanh
Nâng Mã Công lên xe mình,
Dục cương cho ngựa băng băng hướng thuyền.
Kê Long nhìn phía trận tiền,(Kebrion)
Quân Troa bỏ trốn bảo cùng Hải Tô: 6820
Hãy nhìn phía trái trận đồ,
Quân ta hoảng sợ lui vô tránh mình,
Do An Bắc Thế La Môn,
Tôi nhìn ra hắn với cùng khiên to,
Chúng ta hãy đổ quân vô,
Cản ngăn An Bắc trận đồ tang thương.
Nói rồi đánh ngựa dục cương,
Đưa quân vào chốn chiến trường hiểm nguy,
Xác thân gục ngã máu đầy,
Bắn tung mặt đất vòng quay bánh tròn. 6830
Hải Tô xông giữa trận tiền,
Nhưng tránh An Bắc phân tranh đối đầu.
Thần Vương gây ngại ngùng nhau,
Khiến cho An Bắc lùi mau chiến trường.
Như sư tử bỏ trại chuồng,
Khi đàn chó dữ, dân làng cản ngăn.
Bỏ mùi thịt béo máu hồng,
Chẳng mang mồi lại gầm gừ bỏ đi.
An Bắc lo lắng tiếc vì,
Lòng chàng lo ngại lâm nguy chiến thuyền. 6840
Như con lừa giữa cánh đồng,
Trẻ con gõ nhịp vào thanh gỗ tròn,
Con lừa chẳng sợ gì hơn,
Cứng đầu chẳng chạy, chẳng buồn thong dong.
Trước An Bắc Thế La Môn,
Quân Troa cầm kiêm gõ khiên vang lừng.
An Bắc quay lại đánh đâm,
Quân Troa lại tránh lùi dần xa xa,
An Bắc thong thả bước qua,
Quân An Kinh tiến quân ra gần kề. 6850
Âu Chi Phi Lộc tiến về, (Eurypylos)
Đến bên An Bắc bốn bề vung lao,
Đánh An Phi té lộn nhào, (Apisaon)
Đứt đầu gối, đến lột mau khiên đồng.
An Lộc Sơn thấy giương cung,(Alexandre, Pâris)
Trúng ngay đùi gãy mũi tên gỗ tròn.
Âu Chi Phi Lộc lùi dần,
Thúc quân tiến bước đánh cùng Troa quân :
Chớ nên lùi bước ươn hèn,
Cùng bên An Băc vẻ vang anh hùng. 6860
An Kinh nhanh bước che khiên,
Âu Chi Phi Lộc về liền trại dinh.
Ninh Tô Vương lão xe vàng,
Mang Mã Công đến về thuyền chữa thương,
An Sinh từ đứng xa trông (Achille)
Cột buồm quan sát mênh mông chiến trường,
Thấy bao thảm bại đau buồn,
Gọi Ban Tuấn đến, tỏ tường chẳng yên.
Mà lòng hối tiếc căn nguyên,
Gây bao nhiêu nỗi thảm thương quân tình. 6870
Mai Tuấn công tử mới rằng (Patrocle con Ménoetios)
Việc gì bạn gọi, An Sinh cần gì ?
An Sinh Phi Túc sầu bi :
Bạn thân ta hỡi giờ đây là ngày,
An Kinh cầu khẩn gối quỳ,
Tình hình chiến địa lâm nguy khốn cùng,
Ban Tuấn, ái tử Thần Vương,
Sang Ninh Tô để hỏi thăm sự tình.
Ninh Tô đánh ngựa về dinh,
Hỏi người thương tích chiến trường là ai ? 6880
Ta thấy người ấy lưng vai,
Phải Mã Công trúng thương nơi trận tiền,
Ta không thấy được hình dung,
Tình hình khẩn cấp là trong phút này.
Lời hờn giận dỗi chẳng hay,
Ta không có thể khoanh tay ngồi nhìn.
Ban Tuấn vâng lệnh bạn hiền,
Đến nơi Vương lão bên thềm trại dinh.
Âu Đông hầu cận tháo cương,(Eurymédon)
Hai người ướt đẫm bụi đường mồ hôi. 6890
Hạnh Mai tóc bính bờ vai, (Hécamède),
Vội pha nước uống rót mời tướng quân.
Nàng con Đạt Sĩ trâm anh, (Arsinoos)
Kinh đô Thệ Độ, An Sinh hạ thành. (Ténédos)
Thưởng ban cho Chiến Xa Công,
Lời bàn cơ mật chiến trường chẳng sai.
Dựng bàn gỗ chạm chân dài,
Đặt lên một giỏ trái cây chạm đồng.
Nước thơm mật ngọt, thời trân,
Bình bốn quai chạm bạc vàng thanh tao*. 6900
Mỗi quai hình hai bồ câu,
Rượu thơm Ban Mễ cất từ tay tiên (Pramné)
Cắt viên bánh sữa dê thơm.
Rắc lên một lớp bột mền trắng tinh ,
Rót mời Vương Lão, Mã Công.
Cùng nhau giải khác hàn huyên luận bàn.
Ban Tuấn vừa tới bên dinh,
Ninh Tô Vương lão vội vàng cầm tay.
Mời vào ghế bạc riêng bày,
Ban Tuấn nôn nóng lời ngay chối từ: 6910.
Rằng thưa chẳng dám ở lâu,
Hỏi thăm Vương lão ai nào bị thương. ?
Giờ đây nhìn thấy Y vương
Tôi xin về gấp thưa cùng An Sinh,
Bấy lâu uất ức trong lòng,
Chỉ vì đối xử bất công nên đành,
Ninh Tô Vương Lão lời rằng:
An Sinh ấm ức giận hờn mãi sao?
Đau thương thảm bại biết bao,
Bao nhiêu dũng tướng, anh hào bị thương. 6920
Đỗ Mạnh tên đã trúng chân,
Uy Lĩnh thương tích bên sườn mũi lao,
An Gia Vương vai vết đau,
Âu Chi Phi Lộc tên nao trúng đùi.
Mã Công tên trúng bờ vai,
Mới vừa từ chiến trận tôi mang về.
An Sinh sao nỡ hững hờ,
Chẳng lo âu, đứng bên bờ dững dưng.
Đợi địch tiến đánh đốt thuyền,
Sức tôi giờ đã lụn tàn, nếu không 6930
Nếu tôi còn tuổi thanh xuân,
Kiên cường như buổi anh hùng Âu Liên, (Eliens)
Chúng cướp bầy bò trại chăn,
Tôi hạ Ý Tỵ con dòng Hy Cơ. (Itrymonès, Hyperochos)
Một vùng Âu Lịch cơ đồ (Elide)
Tôi đã đem đại quân vô trả thù,
Ngựa lao tôi phóng hàng đầu,
Trúng ngay tướng địch, quân mau tan hàng.
Tôi đà thâu được vô vàn,
Năm mươi bò mộng , dê hàng trăm con. 6940
Bao lừa, ngựa mẹ, ngựa non,
Chúng tôi lùa hết về thành Phi Lô.
Nê Lê mừng thết tiệc to (Nélé cha Nestor)
Con trai thắng trận, cơ đồ vẻ vang.
Loa truyền, mở hội rạng đông,
Chia phần chiến thắng, dân đồng vinh quang,
Tướng quân tuổi trẻ lập công,
Từ nay xóa hết nợ nần Âu Biên (Épéens)*
Đền bù năm tháng đảo điên,
Kẻ thù ngược đãi, siết rên bạo tàn. 6950
Sưu cao thuế nặng cơ hàn,
Bao nhiêu dũng sĩ nhất thành tiêu vong.
Mười hai hoàng tử Phi Liên,
Mình tôi sống sót nối dòng vương gia,
Âu Biên kiêu ngạo lọc lừa,
Quân binh giáp ức hiếp vua bạo tàn.
Mỗi năm cống nộp định phần,
Một bầy bò với ba trăm dê cừu.
Bốn ngựa giống thắng giải đua,
Chiến xa vật báo, chẳng vừa lòng tham. 6960
Vua Nê Lê tức giận căm,
Chia phân tài sản công bằng cho dân,
Hịch truyền tế lễ xuất chinh,
Quân Mâu Long vẫn xem khinh, xem thường.(Moulios)
Vây Thy Bích thành biên cương (Thryoessa)
Quán Trí Tuệ giúp can trường Phi Lô.
Toàn dân hăng hái vô bờ,
Riêng tôi, cha chẳng muốn cho đối đầu,
Cất ngựa xe, dấu chiến bào,
Rằng tôi tuổi nhỏ, biết sao chiến trường. 6970
Quán Trí Thần Nữ dẫn đường,
Tôi đi đến tận trận tiền chân không.
Đến Minh Thủy dòng sông xanh(Minyos),
Đổ vào biển cả bên vùng An Nê (Arènè)
Đợi bình minh sáng sơn khê,
Các dân bộ tộc cùng về hội binh.
Đỉnh An Phê tế các thần (Alphée)
Tế Dớt bò mộng, Hải Long bò vàng.
Quán Trí Mắt Cú bê non,
Binh đoàn dưỡng sức bên dòng sông xanh. 6980
Âu Biên nôn nóng phá thành (Épéens),
Bình minh bừng sáng ra quân trận tiền.
Mâu Long tướng địch xông lên (Moulios rễ Augias))
Phò mã Âu Giác tính tình huênh hoang.
Cưới Âu Nương gái dầu lòng,(Augamède)
Xem khinh địch thủ xưng danh anh hùng.
Tôi phóng một ngọn lao đồng,
Ngã ngay xuống đất, lăn đùng bụi bay.
Tôi lên cướp chiến xa ngay,
Hàng đầu xông xáo, đông tây chiến trường. 6990
Âu Biên chạy trốn hoảng hồn,
Khi nhìn Nguyên soái, quân tình thảm thương.
Tôi hăng hừng chí xông lên,
Như cơn giông bão tối đen bầu trời.
Mang về chiến thắng mình tôi,
Năm mươi xa chiến, trăm người giáp binh.
Mỗi xe hai kẻ địch quân,
Dưới lao tôi ngã gục trong bụi đường.
Mâu Long huynh đệ tang thương,*
Con Ất Tô lắm uy quyền tiêu vong.(Actor) 7000
Rung trời, chuyển đất quyền hành,
Cũng không cứu được con trong chiến trường.
Dớt cho Phi Liên vinh quang,(Pyliens)
Toàn dân chiến thắng khắp đồng nương sâu.
Ngựa xe chỡ nặng biết bao,
Chiến công : thóc lúa, hoa màu, giáp binh.
Rời Bầu Long về kinh thành (Bourprasion)
Dớt cho vinh hiển dân lành Phi Lô.
Chiến công danh dự Ninh Tô.
Nay tôi già vẫn chăm lo góp phần. 7010
An Sinh hờn giận một mình,
Rồi đây sẽ khóc sự tình đơn côi.
Khi An Kinh thảm bại rồi,
Có còn hối tiếc chẳng khôi phục gì ?
Thuở từ Phi Thi biệt ly, (Phthie)
Mai Tuấn cha cháu, chân đi dặn dò.
Theo Vua vì nghĩa dưới cờ,
Tôi và Uy Lĩnh đợi chờ lắng nghe,
Chúng tôi đến cung Pê Lê,
Anh hùng Mai Tuấn cận kề với con. 7020
Ban Tuấn đứng cùng An Sinh,
Pê Lê tế lễ cầu thần trong sân.
Đùi bò cúng tế Thần Vương,
An Sinh kinh ngạc lại gần nắm tay,
Mời ngồi vào ghế khán đài,
Tiệc trần danh dự đãi bôi chân tình.
Tôi đà kể rõ nguyên nhân,
Hai bạn tỏ chí nhiệt tình tham gia.
Đồng tình cả hai người cha,
Tướng quân Mai Tuấn thiết tha dặn lời.: 7030
Ra đi chinh chiến con ơi,
An Sinh tuy lớn cao người hơn con,
Nhưng mà còn nhỏ tuổi hơn,
Dù sức cao trội, con nên luận bàn,
Điều hay lẽ phải thật lòng.
An Sinh thấy phải sẽ cùng lắng tai.
Ấy lời sáng suốt của người,
Chớ quên đi hết những lời thân thương.
Con ơi, nói với An Sinh,
Lời con thắm thiết bảo khuyên chân tình. 7040
Lời ngay sẽ thấu con tim,
Đổi thay ý tưởng gì hơn bạn bè.
Những lời phải ắt lắng nghe,
Nếu An Sinh sợ lỗi thề Thần Vương,
Hay vì lời mẹ Nữ Thần.
Thì con hãy bảo xin chàng xuất chinh.
Binh Nguyệt Mi Đông ra quân (Myrrmidons)
Sẽ làm hứng chí bội phần An Kinh.
Con mượn vũ khí bạn hiền,
Quân Troa sẽ sợ tưởng lầm An Sinh. 7050
Sẽ càng sợ hãi lui binh.
Chẳng công nhọc sức giúp quân thủ thành.
Rời xa chiến lũy chiến thuyền.
Cho An kinh được bớp phần nguy nan.
Ban Tuấn hừng chí trong lòng,
Nghe lời chạy gấp báo cùng An Sinh,
Ngang thuyền Uy Lĩnh đóng quân,
Cùng nơi hội họp trung quân tế thần.
Thấy Âu Chi đã bị thương (Eurypylos),
Đôi chân cà nhắc, mũi tên ngang đùi. 7060
Mồ hôi ướt đẫm đầu vai,
Tinh thần tỉnh táo, chân đi nhọc nhằn,
Ban Tuấn thương xót hỏi nhanh :
Chó Troa nào đã bắn anh thế nào ?
Quân ta chống, sức còn bao ?
Hải Tô tai họa thế nào, tướng quân ?
Âu Chi bình tỉnh lời rằng :
Ban Tuấn bạn hỡi, sự tình lầm than,
Bao anh hùng nhất An Kinh,
Đã thương tích bởi lao tên quân thù. 7070
Sức còn hung hãn đánh mau,
Hãy mang tôi chữa vết đau tên này,
Đưa tôi về chiến thuyền ngay,
Nhổ tên lau máu, bạn này, giúp tôi.
An Sinh có thuốc diệu kỳ,
Sĩ Tông truyền dạy thuốc thầy Mã nhân,
An Sinh có trao tặng anh,
Có lương y đã bị thương chiến trường.
Mã Công bị tên, lui chân,
Còn cần lương tướng tốt lành chữa thương. 7080
Bồ Đa Linh ở chiến trường, (Podalyre)
Còn đang đối phó địch tràn tiến công.
Ban Tuấn nhanh nhẩu bảo rằng :
Sự tình nguy cấp hay chăng thế nào,
Bây giờ tôi phải làm sao ?
An Sinh cần gặp gấp mau sự tình,
Ninh Tô Vương lão nhắn bàn,
Nhưng tôi không bỏ bạn mình bị thương .
Nói rồi dìu bạn vào dinh,
Kẻ hầu phụ giúp trải lên da mềm. 7090
Ban Tuấn tay đỡ bạn nằm,
Dùng dao cắt mũi, nhổ tên trên đùi,
Dùng nước nóng ấm lau chùi,
Mở bao lấy thuốc bên người rắc lên,
Hết cơn đau đớn thuốc tiên.
Vết thương khô máu, lành liền thịt xương. 7096
(Còn tiếp kỳ tới ) :
Thi Ca khúc XII: Cuộc chiến bên chiến hào (câu 7097 đến 7460)
Nhất Uyên Phạm Trọng Chánh * Tiến sĩ Khoa Học Giáo Dục Viện Đại Học Paris V Sorbonne
dịch thơ năm 2006-2011, nhuận sắc năm 2017.
CHÚ THÍCH :
6388: Dấu hiệu chiến tranh. Các nhà văn thời cổ đại bàn về dấu hiệu chiến tranh của Thần Nữ Bất Hòa: có người cho rằng là ngọn lao, thanh gươm, chớp sáng. Virgile cho rằng đó là ngọn phất trần.
6393. Theo Homère : Atride Agamemnon làm vua Mycènes. Diomède là vua Argos, nhưng có khi lại lẫn lộn. Agamemnon là vua cả Aros, dân Argiens (do chữ Argos) là dân Hy Lạp, phải chăng Diomède làm vua dưới quyền trực tiếp của Agamemnon. Thủ lĩnh của mỗi vùng đều gọi là vua, Agamemnon vua mạnh nhất, vua các vùng đều thần phục.
6396. Kinyrès, vua đảo Chypre nổi tiếng kỹ nghệ kim loại.
6485 Hai tướng này lúc đầu theo Anténor, có ý theo lời sứ giả trả Hélène lại cho Ménélas, nhưng sau đó Pâris mua chuộc bằng tiền vàng, nên cùng cha Antimachos, bênh vực cho Pâris.
6564 Percote bến tàu ở Hellespont giữa Abydos và Lampsaque.
6660. Tiếng Hy Lạp chơi chữ có nhiều tiếng khi tả sự đau đớn : đau khi sinh đẻ, đau khi bị lao đâm, đau khi thất tình, đau khi ngườ thân qua đời, đau đớn khi dương vật vào âm hộ.. họ rất phong phú trong ngôn ngữ diễn tả sự đau đớn.
6900. Chiếc bình hai quai chạm chim bồ câu bằng vàng, các nhà khảo cổ tìm thấy tại Mycènes, có chưng bày tại viện bảo tàng Hy Lạp ( tôi đã nhìn thấy chiếc bình này ).
6948. Épìéens do tên Épéos tên người cha sáng lập ra triều đại Élis.
6959. Bốn ngựa đua phải nộp cống cho Épéens là ngựa từng đoạt giải đua thể thao Olympiques.
6999. Hai Moulios tên Cteatos và Erytos con Actor, em vua Augias theo một truyền thuyết mà Homère không nói đến là anh em sinh đôi.
7076. Chiron người ngựa đầu người, từng cứu Pélée khỏi bị các Centaures khác giết.